Thẩm Trạch Xuyên đi xa, Đinh Đào và Lịch Hùng cũng không có nhà, Kỷ Cương ở nhà một mịch cô quạnh, ngày ngày chỉ biết đun trà chơi chim. Ông nấu ăn giỏi, chăm sóc Diêu Ôn Ngọc thay Thẩm Trạch Xuyên, đầu đuôi đều nom lo chu đáo, qua nửa tháng, trông khí sắc của Diêu Ôn Ngọc đã tốt hơn hẳn.
Những ngày trời đẹp, Kiều Thiên Nhai sẽ cùng Diêu Ôn Ngọc ra ngoài tắm nắng, hắn thu thập được nhiều sách cũ, Diêu Ôn Ngọc đọc ngay trong viện.
Diêu Ôn Ngọc đi lại bất tiện, vệ sinh trước khi ngủ đều là do Kiều Thiên Nhai làm hộ. Song có một lần Kiều Thiên Nhai đang lau, chợt phát hiện ráng đỏ bên tai y, trước giờ trong phòng tắm chưa bao giờ nhìn thẳng vào chính mình. Chỉ khi ấy, Kiều Thiên Nhai mới tìm được viên ngọc thô Nguyên Trác trong mùa xuân tháng Tư.
Kỳ thực bọn họ chẳng nói chuyện mấy.
Trừ những lúc mở miệng để thảo luận, bình thường Diêu Ôn Ngọc chỉ ngồi lặng thinh. Y túc trực bên bàn cờ, ngày nào cũng nghiền ngẫm, thường ôm một cuốn sách nguyên cả ngày, sáng đọc đến đâu, tối dừng ở nao. Đêm về y khó ngủ, hai chân không hề tê, chúng lúc nào cũng đau đớn, chỉ khi Kiều Thiên Nhai chơi đàn mới dịu đi một ít.
Diêu Ôn Ngọc thiếp đi trong tiếng đàn róc rách, tựa như lúc ngồi trong màn mưa bụi mờ.
Kiều Thiên Nhai uống ít rượu hẳn, hắn cạo sạch râu, gối lên tay ngả người trên ghế, những lúc đứng lặng cạnh cửa sổ cũng nhiều hơn. Thỉnh thoảng Diêu Ôn Ngọc ngắm hắn, phát hiện hắn đứng giữa ánh sương mờ giá núi như vậy, có vẻ rất an tĩnh, tựa như đã quên mất mưa gió giang hồ, từ vị khách nơi chân trời xa biến thành ánh trăng dưới rợp tùng.
Diêu Ôn Ngọc chưa bao giờ gọi hắn là Kiều Thiên Nhai, Kiều Thiên Nhai cần một người đón gió phủi trần. Lúc say hắn cười đùa chửi rủa, kiếm quét quá nhanh; lúc tỉnh hắn người đơn bóng lẻ, cả mình lạnh lẽo. Bọn họ dường như là hai hòn ngọc nứt gặp nhau, bù đắp lẫn nhau, cùng chắp lại phong lưu thuở dĩ vãng.
(*Thiên Nhai có nghĩa là chân trời.)***
“Dạo này Phàn châu yên lặng ghê,” Cao Trọng Hùng ngồi hơ tay cạnh bếp, “Dực vương chắc phải hay tin ở Đôn châu rồi, giờ như chim sợ cành cong ấy.”
“Trên đường về quân sẽ đi qua phía Bắc Phàn châu, gần như thế, đương nhiên Dực vương phải sợ rồi.” Chu Quế uống trà nóng.
“Ta nghĩ không ra,” Cao Trọng Hùng nói, “Phàn châu bị địch vây bốn phía, Dực vương tức tốc dựng cờ làm phản như thế, thành thử cứ như đang vội tìm đường chết vậy.”
“Ở Phàn châu Dực vương tự xưng là ‘Đại dận’, không chỉ sửa lại nha môn Phàn châu hồi đầu, lại còn trắng trợn bắt mỹ nhân ở đó, định tuyển phi đấy.” Chu Quế cảm khái, “Bảo hắn muốn tham gia tranh quyền chứ, thà bảo hắn chỉ muốn tranh thủ chơi còn đúng hơn.”
Thời điểm nổi dậy, Dực vương không ngờ Thẩm Trạch Xuyên sẽ nhanh đến thế. Hòe Từ Trà đã chặn đứng toàn bộ hướng mở rộng về Tây Bắc của hắn, hắn không đọ lại được Thẩm Trạch Xuyên, cũng không có nhiều nhân tài dưới trướng như Thẩm Trạch Xuyên. Ban đầu là bởi hắn không chịu nổi nạn thổ phỉ nên mới khởi nghĩa vũ trang, người đưa theo toàn là dân cư láng giềng. Bây giờ đại soái binh mã mà hắn phong ở Phàn châu là một tên đồ tể, quan văn thì toàn là bô lão thân hào ở quê. Mỗi ngày lên triều, chuyện tấu lên chỉ toàn ai cướp lừa của ai, ai giật chồng nhà ai.
“Theo ý của phủ quân,” Cao Trọng Hùng nói, “Dực vương tạm thời không thể ngã được, chúng ta phải để hắn sống đến năm sau. Dực vương cũng biết thừa mình không có sức để chống cự, cho nên muốn tìm kiếm sự trợ giúp của Lôi Kinh Chập. Nhưng giờ Lôi Kinh Chập chết rồi, hắn tự lực cánh sinh thôi, chắc sợ hết hồn luôn rồi quá.”
“Suy cho cùng Dực vương cũng chả phải tường đồng vách sắt,” Chu Quế nói, “với Thích Trúc Âm thì cần một biện pháp khác. Nguyên Trác thấy sao?”
Diêu Ôn Ngọc lấy lại tinh thần, trên tay bưng trà nóng. Y nói: “Ta đoán Thích Trúc Âm lần lữa không xuất binh thảo phạt Trung Bác, không chỉ bởi Lục Quảng Bạch phản bội.”
Chu Quế ồ một tiếng, hỏi: “Lẽ nào còn có nguyên nhân nào khác nữa sao?”
“Lúc đám cưới Hoa Thích diễn ra, thế tử phi Ly Bắc tự mình đến Khải Đông đưa quà là để đón cha về. Thích Trúc Âm chịu bất chấp cơn thịnh nộ của Khuất đô để bảo vệ Lục Bình Yên, ngoại trừ vì tư tình ra, có lẽ còn là biểu hiện thái độ cho Ly Bắc.” Đầu ngón tay Diêu Ôn Ngọc đã ấm trở lại, “Nhìn bờ cõi hiện giờ, nếu Thích Trúc Âm để mặc cho Khuất đô sai khiến, ra Bắc thảo phạt Trung Bác, vậy thì chắc chắn nàng sẽ phải một mình đối mặt với hai chiến trường. Sau khi giành lại được Trung Bác, nếu Khuất đô mà ép nàng tấn công Ly Bắc, chiến trường phía Bắc sẽ lâm nguy ngay tức thì. Một khi thiết kỵ Ly Bắc sụp đổ, nàng sẽ trở thành phòng tuyến cuối cùng ở phía Đông. Binh mã trong tay nàng sẽ phải đưa hết lên chiến trường, ưu thế địa lý ở Khải Đông sẽ biến mất, đến lúc đó chỉ có thể cố gắng cầm cự mà thôi.”
Cao Trọng Hùng bừng tỉnh ngộ: “Nếu thế thì cho dù cuối cùng Thích Trúc Âm có đánh bại được A Mộc Nhĩ đi chăng nữa, nàng cũng không còn dư lực để tiếp tục đối chọi với Khuất đô.”
Diêu Ôn Ngọc gật đầu: “Quân phòng vệ Khải Đông là chỗ dựa của Thích Trúc Âm, nếu nàng không có đội quân này, Khuất đô có thể dễ dàng thay thế nàng.”
Mãi Chu Quế vẫn chưa hoàn hồn nổi, cuối cùng chỉ có thể nói: “Đại soái nhìn xa trông rộng, sao Nguyên Trác lại đoán được thế? Trước tháng Tám, lúc phủ quân còn ở đây, bọn ta đều tưởng Thích Trúc Âm sẽ đến cơ.”
“Cũng phải sau đám cưới Thích Hoa ta mới đoán được,” Diêu Ôn Ngọc nói, “trước khi cưới đại soái lấy cớ quận Biên không có người trấn giữ nên không ra Bắc ngay, để hầu gia trở lại Ly Bắc. Thái hậu phái Hàn Thừa đến tiễn dâu là cũng có ý giục nàng, nhưng sau khi cưới đại soái vẫn đóng quân ở quận Biên không hề động.”
Thái hậu muốn thuyết phục Thích Trúc Âm xuất binh, nhưng tiền cược lại không đủ. Con át chủ bài trong tay bà chính là Hoa Hương Y, đã đánh ra rồi, kết quả Thích Thời Vũ lại trúng gió, lá bài này coi như vứt. Ai nấy đặc biệt là Thái hậu đều phải âm thầm cắn răng, chỉ hận vì sao Thích Trúc Âm lại không phải đàn ông cơ chứ.
Bọn họ vẫn đang nói chuyện quanh bếp, Kiều Thiên Nhai bỗng vén rèm lên, nói: “Phủ quân về rồi.”
Chu Quế và Cao Trọng Hùng đứng dậy ngay tức thì, Cao Trọng Hùng toan đẩy xe cho Diêu Ôn Ngọc, nhưng lại chậm một bước, Kiều Thiên Nhai tự nhiên tiếp lấy. Rèm vén lên, Kiều Thiên Nhai đẩy Diêu Ôn Ngọc ra ngoài.
***
Dọc đường Phí Thịnh rất cẩn thận, nhưng giờ đã gần tháng Chín, Thẩm Trạch Xuyên gối lên Tiêu Trì Dã cũng không ngăn được lạnh, lại bị bệnh. Y sốt hầm hập, dường như quãng bình yên ở Đôn châu đã bị đốt rụi cả rồi.
Chiêu mộ quân phòng vệ Đôn châu là việc cấp bách nhất, nhóm phụ tá đã đợi nguyên cả ngày ở thư phòng, lúc nằm trên giường Thẩm Trạch Xuyên hẵng còn nhớ việc này.
“Sổ sách mang về từ Đôn châu giao cho Nguyên Trác,” hai má Thẩm Trạch Xuyên đỏ gay, đắp tay lên mắt, nói trong bóng tối, “Thành Phong bên cạnh trợ giúp, tối nay trước hết tính quân phí Đôn châu, muộn nhất là hai ngày sau đưa cho Đàm Đài Hổ.”
Người Tiêu Trì Dã che lấy y, đưa tay gạt mái tóc hơi ướt của y ra, nói khẽ: “Ta nhớ cả rồi.”
Thẩm Trạch Xuyên không muốn Tiêu Trì Dã đi, nhưng chuyện gấp, tình hình Đoan châu chưa rõ, kỵ binh Biên Sa chính là một mối đại họa, công sự phòng ngự Đôn châu không thể dề dà dẫu chỉ một khắc. Y khép hờ mắt nhìn Tiêu Trì Dã, nói: “Giáp tay bảo Kiều Thiên Nhai, hắn biết làm thế nào.”
Tiêu Trì Dã ừ một tiếng, nhìn Thẩm Trạch Xuyên nhắm mắt lại, lại chờ thêm một lúc lâu nữa, nghe thấy tiếng thở đều đặn của Thẩm Trạch Xuyên rồi mới đứng dậy nhanh chóng thay quần áo rồi ra ngoài. Lúc bước xuống thềm hắn bảo Phí Thịnh: “Thuốc nấu xong thì gọi phủ quân dậy, cho y uống hết.”
Dù đã về trạch rồi, thuốc của Thẩm Trạch Xuyên vẫn là do Phí Thịnh tự mình trông coi sắc nấu. Phí Thịnh theo Tiêu Trì Dã mấy bước, gật đầu vâng.
“Lúc nào sư phụ tới, phủ quân dậy rồi thì mời sư phụ vào, nếu phủ quân chưa dậy thì cứ mời sư phụ về trước đã.” Thần Dương mở áo choàng cho Tiêu Trì Dã, hắn vừa tròng vào vừa nói, “Nếu sư phụ hỏi chuyện ở Đôn châu thì ngươi giấu đỉnh Phủ Tiên đi, ta sẽ tự bảo sư phụ sau.”
Tiêu Trì Dã đứng yên, nhìn sắc trời.
“Trước giờ Hợi ta về.” Hắn đã cất bước, miệng hẵng còn nói, “Thuốc nấu xong nhớ chuẩn bị kẹo, thay bằng mật ong cũng được…”
Tiếng tắt hẳn, người đã vội vàng đi mất.
Tiêu Trì Dã đến thư phòng, mọi người đứng dậy hành lễ thì hắn đã ngồi xuống, không nói lời thừa. Diêu Ôn Ngọc xem sổ sách của Nhan thị và Đôn châu, Khổng Lĩnh tỉ mỉ thuật lại tình hình.
Nhóm phụ tá bây giờ không còn ai dám hút thuốc, ai nấy ngồi thẳng tắp. Hầu gia bức tới độ bọn họ không ngóc đầu lên nổi, trình bày cũng cố gắng sao cho súc tích, đến cả nịnh nọt cũng không dám.
Tình hình ở Đôn châu phức tạp, điểm mấu chốt là cách Từ châu hơi xa, ở giữa còn có Phàn châu, rất nhiều chuyện phải bàn bạc thật chắc. Mới đầu Chu Quế cứ tưởng Tiêu Trì Dã không quen thuộc địa hình Trung Bác như Thẩm Trạch Xuyên, đặc biệt sai người trình bản đồ lên. Đâu ngờ khoảng thời gian vận chuyển quân nhu ở Ly Bắc Tiêu Trì Dã đã đúc kết được kha khá thành quả, nhớ rất rõ toàn cảnh Trung Bác, lúc bàn không sai ở đâu.
Bọn họ đốt đèn nghị sự trong thư phòng, Thẩm Trạch Xuyên lúc tỉnh lúc mơ trong phòng ngủ.
Lúc Phí Thịnh mang thuốc vào, Thẩm Trạch Xuyên nghe tiếng tỉnh lại. Y uống hết thuốc, lần này đến cả kẹo cũng không ngậm, ngả đầu ngủ luôn. Phí Thịnh khép cửa lại, bảo người hầu trong đình viện đổi giày, thị nữ tháo trâm tóc khuyên vòng ra, đi lại không tạo ra tiếng.
Chắc là vì yên tĩnh nên Thẩm Trạch Xuyên ngủ lâu, đến lúc lại tỉnh thì nghe thấy tiếng động ngoài cửa, nghĩ chắc Tiêu Trì Dã về rồi. Kết quả mãi không thấy Tiêu Trì Dã vào, thế là Thẩm Trạch Xuyên lại ngủ mất. Nửa đêm nóng tỉnh lại, phát hiện Tiêu Trì Dã đang ôm y ngủ nẫu. Thẩm Trạch Xuyên không cựa quậy được, cứ thế bị đè toát đầy mồ hôi, đến gần lúc sáng mới khôi phục được ít tinh thần.
Thẩm Trạch Xuyên thấm mệt nép tay quàng lên lưng Tiêu Trì Dã, lại sờ được một mảnh vải xô, y bừng tỉnh, muốn nhổm dậy nhìn, lại bị Tiêu Trì Dã ấn xuống.
“Sao?” Tiêu Trì Dã vùi mặt vào, giọng nghèn nghẹn, “uống nước à?”
Thẩm Trạch Xuyên sờ dọc tấm vải một lúc, càng sờ càng ngỡ ngàng.
Tiêu Trì Dã bắt tay Thẩm Trạch Xuyên xuống, không cho y sờ lung tung nữa, nói: “Ấn đâu đó? Đau quá.”
Hai người nhìn nhau một chốc, Tiêu Trì Dã bỗng thu tay vào, ôm cứng Thẩm Trạch Xuyên, không cho y ngọ nguậy.
Thẩm Trạch Xuyên nhìn Tiêu Trì Dã chăm chú, nói chầm chậm: “Không phải đã bảo đừng đánh rồi sao?”
Y bệnh tiều tụy, giọng lại khàn, nhìn Tiêu Trì Dã như thế, dường như chỉ một khắc sau đó sẽ đỏ mắt liền.
Sau Trà châu, Tiêu Trì Dã đã bảo Kỷ Cương Thẩm Trạch Xuyên mà bị thương một lần thì cứ đánh một lần. Thẩm Trạch Xuyên gạt hắn ở Đôn châu, bị hắn phạt ác, cứ tưởng là hắn coi như xong rồi, đâu có ngờ lúc về hắn lại mau việc đến vậy, ngủ một giấc dậy đã lãnh xong roi rồi.
Tiêu Trì Dã gõ trán Thẩm Trạch Xuyên, dán vào y, cảm giác cơn sốt của y đã dịu xuống, lười biếng “Ừ” một tiếng, cứ thế lộ ra tay vai, trên lưng quấn mấy vòng vải xô. Tiêu Trì Dã giao chiến với Cáp Sâm ở Đồ Đạt Long Kỳ, cánh tay phải bị thương, trên lưng cũng vừa bị thương, giờ cũ mới thay phiên, quả thực vừa tê lại vừa đau.
Thẩm Trạch Xuyên bị đánh đau rồi, chỉ sờ lớp vải kia đã đau rụt cả ngón tay. Tiêu Trì Dã ôm y thật chặt, làm cho y không thở nổi. Y hận chết Tiêu Trì Dã, nhưng y nằm ở đây, chỉ muốn lặp đi lặp lại từng lần.
Y hối hận rồi.
***
Đinh Đào ngồi dưới hiên chơi dây với Lịch Hùng, mặt mày ủ dột. Thấy Kỷ Cương đã đứng dưới hiên suốt nửa canh giờ, bèn kéo áo Kỷ Cương hỏi: “Sao gia gia không ngồi?”
Kỷ Cương hẵng còn đang thất thần, hỏi Đinh Đào: “Có phải ta đánh ác quá không?”
Đinh Đào an ủi: “Chủ tử yêu cầu, lại còn ép đến mức đó, người cũng đành chịu thôi.”
Kỷ Cương lòng rối bời ngồi xuống, lát sau, lại đứng lên, nói: “Thế thì để ta mang ít thuốc qua.”
Phí Thịnh vốn đang đứng chờ ở dưới hành lang, thấy Kỷ Cương đến thì vội vàng ra đón.
Kỷ Cương nhìn vào trong phòng chính, định nói gì đó nhưng cuối cùng lại nuốt xuống. Ông đưa thuốc cho Phí Thịnh, nghĩ một lúc rồi hỏi: “Lúc hầu gia làm việc với Lan Chu ở Đôn châu cũng ở cùng chỗ à?”
Phí Thịnh nhớ lời dặn của Tiêu Trì Dã, ngoài mặt điềm tĩnh, đáp: “Ở cùng chỗ, hầu gia và chủ tử chính là cá nước tình thâm người ta hay nói, không ai tách được nhau cả.”
Kỷ Cương trông mặt Phí Thịnh tỉnh rụi, lại cảm thấy mình nghĩ nhiều quá rồi. Cái gọi là bạn thân khó tìm, Lan Chu và Tiêu nhị lại là cùng vào sinh ra tử, thân thiết hơn hẳn người bình thường cũng đúng… Ông nghĩ không ra, cảm thấy vẫn còn chưa đúng. Nhưng Kỷ Cương không cam lòng nghĩ quá sang tận bên kia, ông không chịu dùng những cái ấy để suy đoán Thẩm Trạch Xuyên. Hồi Kỷ Mộ vẫn còn, bọn họ làm mai cho Kỷ Mộ, lúc đó Thẩm Trạch Xuyên đã bảo sau này cũng muốn lấy vợ. Bởi vậy Hoa Sính Đình đã thật sự đi xem thử rất nhiều con gái, toàn là các nhà hàng xóm láng giềng, mấy gia đình nhỏ ở gần, chỉ cần Thẩm Trạch Xuyên ưng, bọn họ sẽ đến cửa thăm hỏi liền.
“Sư phụ?” Phí Thịnh dè dặt gọi.
Kỷ Cương chắp tay sau lưng, nói: “Thế thì ngươi trông đi, lát nữa ta lại qua.”
Kỷ Cương muốn nói chuyện lại với Tiêu Trì Dã, nhưng Tiêu Trì Dã quá bận. Hắn gần như là chân không chạm đất, ở nhà thì chạy qua chạy lại Chu phủ. Việc của Đôn châu chỉ mới xong, tin Ly Bắc theo liền ngay sau. Bệnh của Thẩm Trạch Xuyên đã đỡ hơn một chút, Tiêu Trì Dã phải lên đường trở về doanh Biên Bác.
“Quần áo mùa đông tháng Chín là đến Ly Bắc rồi, ngươi sai người nhận ở doanh Biên Bác là được.” Thẩm Trạch Xuyên buộc giáp tay cho Tiêu Trì Dã, hỏi, “Ly Bắc tuyết rơi nhiều không?”
“Tùy lúc,” Tiêu Trì Dã nói, “hiện giờ thì thường là mưa lẫn tuyết, bảo trì mã đạo là nhiệm vụ cấp bách, phải đảm bảo đến tháng Mười một lúc tuyết thực sự rơi nhiều, mã đạo vẫn có thể thông suốt.”
“Bảo vương gia quân lương đầu xuân năm sau đã có bố trí rồi,” tay Thẩm Trạch Xuyên men theo giáp tay mò đến lòng bàn tay Tiêu Trì Dã, ngẩng mặt nhìn hắn, nói, “mã đạo từ Đôn châu đến doanh Biên Bác cũng sẽ bắt đầu khởi công vào năm sau.”
Bọn họ phải kết nối Trung Bác và Ly Bắc, để doanh Biên Bác có thể nối thẳng đến Từ châu và Đôn châu, tin tức từ Đôn châu nhất định phải linh thông.
Hai tháng này có thể Tiêu Trì Dã sẽ không về được, hắn phải liên tục canh chừng toàn cảnh Ly Bắc, hơn nữa còn phải tính chuẩn dự trữ vật tư ở chiến địa để đề phòng tuyết dày làm sụt mã đạo, bất trắc làm tắc đường, dẫn đến việc chiến địa không đủ tiếp tế mà lâm vào khổ chiến.
“Đinh Đào mà nghịch thì ngươi cứ thẳng tay tống nó về đại cảnh, đại tẩu trị được nó đấy.”
Tiêu Trì Dã vừa nói vừa cúi đầu, hai tay nâng Thẩm Trạch Xuyên giẫm lên chân mình, chụp gáy y, đứng ở nơi đây hôn y.
Vải cọ sát, Thẩm Trạch Xuyên tì vào cánh tay Tiêu Trì Dã, tan ra trong mùi vị của hắn.
Tiêu Trì Dã thích Thẩm Trạch Xuyên ngửa mặt như thế, đó là đòi hỏi, ngập đầy trong từng cú đụng chạm là yêu dục. Hắn đỡ lấy toàn bộ sức nặng của Thẩm Trạch Xuyên, có thể dễ dàng ôm lấy Thẩm Trạch Xuyên. Vốn chỉ là một nụ hôn mà thôi, nhưng hắn không buông tay ra, hai người quấn quýt không rời trong hơi thở vấn vương.
“Ta đã bảo đại tẩu chuẩn bị rồi,” Tiêu Trì Dã nói, “trước Tết sẽ cho Thần Dương đến đón ngươi và sư phụ đến thẳng đại cảnh.”
Hơi thở của Thẩm Trạch Xuyên hỗn loạn trong nụ hôn, nói: “Ta chuẩn bị lễ…”
Lan Chu ngốc.
Tiêu Trì Dã bế Thẩm Trạch Xuyên, càng hôn càng hung.
Tiêu Trì Dã đến vội, đi cũng vội. Bầu trời Từ châu âm u vẩn sương, hắn mang roi cùng vết thương đội mưa lên Bắc. Ba châu Trung Bác tạm thời yên ổn, hắn để Đàm Đài Hổ ở lại Đôn châu, coi như là để lại một tấm lá chắn cho Thẩm Trạch Xuyên.
Từ châu bước vào một kỳ nghỉ ngắn, Thẩm Trạch Xuyên dường như đã thu hồi mũi nhọn, lui về ngủ đông. Nhưng chỉ rất nhanh sau, Tiết Tu Trác ở Khuất đô xa xôi đã lĩnh giáo được sự lợi hại của đợt ngủ đông này.
Vào lễ Hàn Y* tháng Mười, Trà châu mượn tài trợ của Nhan thị, mở lầu bày tiệc, mời anh tài khắp thiên hạ. Bất kể là áo vải thôn dã hay ẩn thần thành thị, chỉ cần có trình độ học vấn, tất cả đều sẽ nhận được thiệp mời đến luận đàm.
(*Ngày lễ vào 1/10 âm lịch, là ngày lễ người dân Trung Quốc thờ cúng tổ tiên và gửi quần áo mùa đông cho tổ tiên, thế nên mới gọi là Hàn Y.)Nếu là tiểu bối vô danh, đương nhiên sẽ không dấy nổi sóng gió. Nhưng lần này chưa đến ba ngày, xe thồ thuyền lá tất cả đều lên đường, anh hiền thiên hạ ùn ùn kéo tới.
Bởi vì người gửi thiệp tên là Diêu Ôn Ngọc.