Buổi sáng cùng ngày ta định rời đi cùng Hải Đường, sứ thần nước Thổ đến phủ thăm hỏi. Ta giữ phép làm tiệc trà đãi khách, mục đích là để tránh hiềm nghi. Khi sứ thần ra về, ta bỗng thấy đầu óc choáng váng, chân tay bủn rủn, liền bất tỉnh nhân sự.
Lúc ta tỉnh lại đã là bốn ngày sau. Thân thể ta đau nhức, cử động đi lại khó khăn. Đại phu cho ta biết ta đã bị trúng kịch độc, cũng không biết là độc gì lại lợi hại vô cùng, một khi độc ngấm vào lục phủ ngũ tạng, vô phương cứu chữa. Nếu không phải nhờ ta thân thể cường tráng hơn người, người bình thường trúng độc chắc chắn đã vong mạng. Đại phu hết mình chữa trị, nhưng ta vẫn không thể cử động cho đến tận ba hôm sau.
Trên giường bệnh, ta toạ lập bất an(1), muốn biết chuyện gì đã xảy ra với Hải Đường. Quản gia trong phủ báo cho ta biết: “Bốn ngày trước đó, công chúa Hải Đường đã lên đường tiến cống đúng như sắp đặt. Buổi sáng hôm đó, có nô tỳ tên Phỉ Thuý, tự nhận là thân tín của công chúa đến phủ gửi lại cho tướng quân một bức thư.” dứt lời quản gia liền dâng bức thư lên cho ta.
(1) Toạ lập bất an: đứng ngồi không yên
Ta run rẩy cố sức vội đọc: “Kiến Trung, ta xin lỗi không chờ được chàng. Tối qua khi ta đến chỗ hẹn đã bị bắt lại, giờ đã bị giam cầm nghiêm ngặt. Ta cũng đã nghe kể chuyện chàng bị trúng độc, vô cùng lo lắng. A hoàn Phỉ Thúy của ta đã qua phủ của Mã đại phu thăm hỏi và cho ta biết chàng tuy vẫn mê man bất tỉnh, nhưng khí lực cường tráng, sẽ sớm tỉnh lại. Ta cầu xin ơn trên phù hộ độ trì, giúp chàng tai qua nạn khỏi.
Khi chàng đọc được lá thư này, ta chắc đã trên dường đến Thổ Quốc. Ngàn dặm xa xôi, ta sẽ tìm thời cơ bỏ trốn, ta tin khi chàng bình phục cũng sẽ tìm đến giải cứu ta. Ta biết chuyện ta muốn làm, chính là chuyện mà chàng muốn làm. Ta cũng sẽ giữ mình thật cẩn thận, bởi vì giờ chúng ta không chỉ là hai người, mà là ba người hoạn nạn có nhau. Kiến Trung, chàng sắp trở thành phụ thân. Ta và hài tử nhất định sẽ đợi chàng.”
Ta cầm bức thư mà Hải Đường để lại, nước mắt tuôn rơi. Đây là lần đầu tiên ta khóc kể từ khi mẫu thân tạ thế. Ta vừa đau khổ ân hận mình bất cẩn bị tiểu nhân bỉ ổi hạ độc, lại vừa lo lắng mừng vui biết tin mình và Hải Đường đã có hậu nhân.
Ta không đợi được, cùng một vài thân tín, trong đêm liền khăn gói ra đi. Ta mang độc trong người, đi lại chậm chạp, nên khi đoàn người tùy tùng đưa Hải Đường gần đến Thổ Quốc thì ta và người của ta mới đuổi kịp.
Tướng quân tâm phúc của ta tập kết, giả làm sơn tặc để dò thám tình hình, cũng bắt được một tên trong đoàn tùy tùng, mang về cho ta thẩm vấn.
Qua tên vệ sĩ, ta biết đoàn người sẽ dừng chân ở phủ sứ thần trước khi tiến cung. Ta và các tướng lĩnh tâm huyết đã mai phục, tấn công mong giải cứu Hải Đường. Không ngờ độc của ta đúng lúc này phát tác, cuối cùng không cứu được nàng, còn suýt bị hoạ sát thân.
Ta tưởng đã không còn cơ hội gặp lại nàng. May là số ta đại cát, trong lúc nguy cấp đã gặp được Phó Kiện Đàm đại sư. Đại sư chữa cho ta qua cơn nguy kịch. Tỉnh dậy, ta mới biết toàn bộ tuỳ tùng của ta đều đã thiệt mạng; bọn họ là vì ta mà hy sinh; ta vô cùng đau lòng áy náy.
Phó Kiện Đàm đại sư sau khi bắt mạch dặn dò: “Độc ngươi trúng phải là độc Tử Thoại, kịch độc bí mật chỉ có ở Thổ Quốc. Ngươi phải giữ mình, không được lao tâm tổn hại cơ thể. Vì chỉ cần ngươi vận khí chiến đấu, độc trong cơ thể sẽ tái phát, ắt sẽ ảnh hưởng đến lục phủ ngũ tạng, tính mạng sẽ bị đe dọa.”
Nhưng ta không thể để Hải Đường và hài nhi của chúng ta gặp nguy hiểm. Ta dùng thuật dịch dung trà trộn trốn vào trong phủ sứ thần, không từ bỏ mong muốn giải cứu nàng.
Đã ba ngày kể từ trận tập kích thất bại, ta nghe ra mới biết ta bị đồn là đã mất mạng. Không ai nghĩ người trúng độc Tử Thoại bị đao kiếm sát thương lại có khả năng duy trì được mạng sống lâu như vậy.
Điều kinh khủng hơn ta nghe được từ bọn nô tài a hoàn trong phủ sư thần: “Ngươi nghe gì chưa? Công chúa Hải Đường từ Mãn quốc tiến cống chưa vào đến cấm cung, vừa đến Thổ quốc mới ba ngày đã hương tiêu ngọc vẫn(1). Xác nàng ta đang được giữ trong quan tài ở phủ phía Tây kia kìa.” Ta thần hồn bát đảo khi nghe hung tin.
(1) Hương tiêu ngọc vẫn: người con gái đẹp phải sớm bỏ mạng
Ta không tin. Trong lòng chắc chắn đám người ấy đã nhầm lẫn. Ta run rẩy lao đi đến biệt viện phía Tây. Máu từ khoé miệng ta tuôn ra vì vận sức quá nhiều, nhưng ta không quan tâm. Mưa ngoài trời bắt đầu tuôn xối xả. Mưa lạnh rơi vào người ta, táp vào mặt ta, làm ta cảm thấy như đang có ngàn mũi kim trâm xuyên thấu.
Hải Đường của ta xinh đẹp quả cảm đứng dưới tán cây rợp bóng trong ngự hoa viên, mỉm cười nhìn ta nói: “Tướng quân chàng đã trở về, mừng chàng công thành danh toại”.
Hải Đường của ta tươi cười viên mãn khi ta cắm cây trâm được khắc bông hoa hải đường lên mái tóc đen mượt của nàng.
Hải đường của ta xòe bàn tay khoe ta xem lá cây thuốc mà nàng cất công đi tìm: “Lá cây này kết hợp với sâm đỏ sẽ giúp chàng bồi bổ sức khỏe. Bản thân chàng hãy biết tự giữ gìn, đừng chỉ mải lo đánh đấm.”
Hải Đường của ta lúc mới đến Mộc phủ một thân nam phục, dáng người bé nhỏ nhưng khí chất thanh tao.
Hải Đường đang cúi người vẽ trên giấy trắng, nàng vẽ một bông hoa hải đường cùng một nụ hoa nhỏ xinh bên cạnh, trên bản giấy đề hai câu thơ: “Nhất nhật phu thê bách nhật ân(1)”. Ta đứng từ sau ôm nàng trìu mến.
Hải Đường của ta trên tay bế hài nhi của chúng ta, mỉm cười khoe với ta bàn tay nhi tử mới sinh trắng nõn hồng hồng.
(1) Nhất nhật phu thê bách nhật ân: vợ chồng tình nghĩa sâu nặng
Những hình ảnh có Hải Đường lần lượt lướt qua đầu ta, ánh mắt nàng, nụ cười của nàng, vẻ tinh nghịch của nàng, mỗi lần xuất hiện là tim ta như bị dao cứa. Hình ảnh lẫn lộn khiến ta không thể phân biệt, đâu mới là quá khứ, đâu mới là thật, đâu mới là mộng tưởng.
Đến phủ phía Tây, ta thấy giữa căn phòng âm u là một cỗ quan tài màu đỏ. Ta lết từng bước chân nặng trịch như bị buộc đá tiến về phía quan tài lạnh lẽo. Ta phải nhìn, phải tận mắt chứng thực người nằm đó không phải là nàng, không phải là Hải Đường của ta.
Ta bám vào thành quan tài, nhìn vào bên trong. Nàng nằm đó bất động, đôi mắt liễu giờ đã nhắm chặt, y phục bao lấy thân người mảnh dẻ, hai tay nàng đang đặt trên bụng, nơi hài tử của ta và nàng đang yên ngủ ở đó.
Ta nắm lấy tay nàng, muốn cảm nhận hơi ấm của nàng, muốn nàng tỉnh dậy nhìn thấy ta, gọi ta một tiếng “Kiến Trung” như nàng thường gọi. Bàn tay nàng lạnh buốt, ta không cảm nhận được mạch đập của nàng. Ta khẽ gọi: “Hải Đường, nàng tỉnh dậy đi, Kiến Trung đã tới tìm nàng rồi đây.”
Nàng vẫn nằm đó không phản ứng; ta càng nhỏ nhẹ gọi: “Hải Đường, nàng bảo sẽ chờ ta, giờ Kiến Trung đã ở đây, nàng mở mắt ra xem đi, ta ở đây để đón nàng đi. Chúng ta sẽ đi thật xa khỏi nơi này, sống một cuộc sống tự do như nàng luôn mong muốn.”
Dù ta có gọi hay lay nàng cách mấy, nàng cũng không đáp lại ta. Ta không biết là nước mưa hay nước mắt đang chảy trên mặt, ta không biết mình đang ở đâu nữa, ta phải đưa nàng đi. Ta cố hết sức cũng không nâng được nàng dậy, máu từ khoé miệng ta càng chảy ra nhiều hơn. Ta quệt tay, quyết không bỏ cuộc dù lực bất tòng tâm.
Bỗng ánh chớp bên ngoài loé lên làm ta thấy trên đầu nàng có gì phản bóng. Là cây trâm hải đường, vật đính ước của hai chúng ta. Nàng đến lúc ra đi vẫn muốn làm thê tử của Kiến Trung. Thực tại quá khắc nghiệt, đời này kiếp này, thiên trường địa cửu chỉ là mơ, phân ly mới là thực tại.
Ta lại gần vuốt ve đôi môi và khuôn mặt nàng. Ta rút cây trâm ra, nắm chặt trong tay, vật đính ước còn thì tình còn, vật đính ước mất thì duyên hết. Ta phải giữ chặt cây trâm này, để nàng mãi chỉ thuộc về Kiến Trung.