Thực ra, chết đâu có gì đáng sợ, điều
đáng sợ nhất là, khi yếu đuối nhất, người thân nhất bên cạnh lại bỏ rơi em để
cao chạy xa bay…
Vé cô mua là loại ghế cứng, đêm đến, cô ngủ gục trên
ghế. Đến nửa đêm thì bị tỉnh giấc, hóa ra, một đám thanh niên ở dãy ghế bên
cạnh đang ầm ĩ chơi trò điện tử có tên là Sát nhân, gần như mọi người trên toa
đều bị đánh thức nhưng chẳng ai nói gì. Có một người chơi chán rồi liền bắt
chuyện với một thanh niên trẻ ngồi ngay trước Đường Du, hình như họ là sinh
viên năm thứ hai, mới bắt đần năm học nên tranh thủ đi vùng nông thôn ở Quảng
Tây làm điều tra xã hội, tiện đường dự định
ghé qua Quế Lâm du lịch trước. Nói đến Quế Lâm, Lý Giang, Dương Sóc, toàn những
nơi non xanh nước biếc, mặt mày họ đều tươi tỉnh như thể vừa trở về từ những
nơi đó. Cặp mắt họ đen láy, tròn như trái nho đã ngâm sạch trong nước, ánh mắt
toát lên vẻ háo hức.
Đường Du gắng gượng một lúc, đám sinh viên kia vẫn tỏ
ra rất hào hứng, không cưỡng lại được sự mệt mỏi, cô lại gục xuống ngủ tiếp.
Khi tỉnh dậy đã là tám giờ sáng ngày hôm sau. Vừa mở
mắt ra, đám sinh viên vẫn đang chơi điện tử, mặc dù thức cả đêm nhưng tinh thần
họ vẫn rất phấn chấn, hăng hái. Cô mỉm cười, ngoảnh đầu lại thì phát hiện người
thanh niên bên cạnh không biết đã đổi vị trí sang ghế đối diện tự khi nào, đang
nhìn cô, cô cũng nhìn anh mỉm cười, lễ phép gật gật đầu.
Trong khi đang ở khoang đánh răng, rửa mặt trên tàu,
người thanh niên ấy cố tình đợi cô, lúc cùng quay về toa, anh hỏi: “Cô không
phải cùng nhóm với bọn họ ư? Sao không thấy tham gia chơi cùng?”
Cô cười, đáp ngắn gọn: “Không phải.”
Từ nhỏ, cô đã không biết sống hòa mình, trước đây thì
không biết cách hòa mình như thế nào, đến khi ý thức được, cảm thấy một nhóm
bạn học cùng nhau chơi đùa, vui vẻ, muốn tham gia cùng nhưng sợ không biết nói
gì, sợ rằng vì mình mà cả nhóm mất vui. Vậy là dứt khoát không tham gia nữa, cứ
thế dần dần hình thành trong cô thói quen tách biệt với đám đông.
Ngồi vào chỗ, cô lại nhắm mắt nghỉ ngơi, người thanh
niên kia cũng không bắt chuyện nữa.
Mười mấy tiếng đồng hồ lại trôi qua, buổi chiều, tàu
đến ga Quế Lâm. Nhóm sinh viên ầm ĩ kéo nhau xuống, toa xe vắng hẳn một nửa,
bỗng trở nên yên tĩnh lạ thường, người thanh niên ngồi cạnh Đường Du cũng
xuống. Vé cô mua là đến Trạm Giang, nhưng trong lúc nhân viên tàu đang chuẩn bị
đóng cửa toa, cô bỗng xách hành lý của mình, vừa chạy về phía lối ra ở cuối
toa, vừa nói với nhân viên: “Xin chờ một lát.”
“Sao thế, ga đến của mình mà cũng không biết?” Người
nhân viên chau mày, giọng bực tức, dừng tay lại.
“Xin lỗi, xin lỗi, tôi ngủ nên không để ý thời gian.”
Vừa xuống tàu, một cơn gió lạnh táp vào mặt, không ngờ
thời tiết phương Nam lại lạnh hơn miền Bắc, bên ngoài đang mưa rất to. Cô rụt
cổ, tay kéo hành lý ra khỏi ga Quế Lâm, phía trước mặt là một ngọn núi đẹp
nhưng vì mưa quá to, ngọn núi ẩn hiện lờ mờ trong làn mưa, trông không được rõ.
Cô lấy từ trong va li ra một chiếc ô, đi dọc theo mái hiên nhà, khi ngang qua
cửa phòng chờ, lại trông thấy nhóm sinh viên, người nào người nấy đều ủ ê, đầu
rủ xuống như những quả cà trong sương giá. Một người đeo ba lô đang ngồi xổm
trên đất, bực tức nói: “Này, ai quyết định đến đây hôm nay, trước khi đi không
xem dự báo thời tiết à? Giờ thì thích rồi, mưa to thế này thì du lịch nỗi gì?”
“Chắc là có bão, trước khi đi, ai mà biết được. Ôi,
lạnh quá, không ngờ Quế Lâm còn lạnh hơn cả thành phố B, bọn mình không mang ô,
cũng chẳng đem quần áo, thế này thì, hắt xì…!”
Một người khác nói: “Đừng trách móc nữa, các cậu xem,
có mấy ai đem ô đâu? Bọn mình đi tìm chỗ ở trước
Đúng lúc ấy, có người cầm ô đến hỏi: “Này, cô ơi, đi
Dương Sóc không? Chỉ hai mươi tệ thôi.”
Người khác cũng chen vào, “Đi Dương Sóc, xe buýt cao
cấp, mười lăm tệ đây.”
“Nào, đi Dương Sóc nào, mười tệ một người, mau lên,
mau lên…” Giọng của người đứng bên cây long não bên ngoài bến xe cũng vang lên.
Cuối cùng Đường Du cùng nhóm sinh viên đều lên xe đi
Dương Sóc. Tay tài xế và chủ nhà nghỉ là chỗ thân quen nên đã bố trí chỗ ở ổn
thỏa cho họ, giá phòng cũng không đắt. Sau khi đến nhà nghỉ, họ đi cùng bà chủ
vào xem phòng trước, thấy phòng ốc ổn, sạch sẽ, gọn gàng nên cả nhóm đồng ý trọ
lại.
Mấy ngày đầu, vì mưa to nên Đường Du không đi đâu, cả
ngày chỉ quanh quẩn trong phòng. Nhà nghỉ gần sông, nhìn qua cửa sổ phòng có
thể trông thấy dòng Ly Giang. Thời điểm này, nước trên sông Ly Giang dâng đầy,
mênh mông một màu vàng đục, những ngọn núi nhỏ xam xám nhô lên trên nền đất
bằng trông lờ mờ, ẩn hiện trong làn mưa, lòng cô vẫn lạnh lẽo như vậy. Cô ngồi
bên cửa sổ, nắm chặt chiếc điện thoại di động trong tay. Chiếc điện thoại vẫn
đang tắt nguồn, nhưng cô chưa bao giờ quên sạc pin, cứ trốn cả ngày trong
phòng, đờ đẫn nhìn nó.
Sau bốn ngày, mưa cuối cùng cũng tạnh. Lúc này, bà chủ
nhà đã giới thiệu hết cho cô những nơi thăm thú và ăn uống nổi tiếng, độc đáo
của Dương Sóc, phố Tây hào hoa, suối Hồ Điệp, cây đại cổ thụ, núi Vầng Trăng,
ốc hấp rượu, cá hấp bia, phở Quế Lâm… Cô đi lang thang một mình, mãi tận khuya
mới đến phố Tây, lúc này, người trên phố rất ít, đêm nào cô cũng ngồi ở quán cà
phê cuối phố. Ở đó có nhiều cuốn sổ có thể ghi lại lời nhắn, mỗi cuốn đều chứa
đựng rất nhiều tâm sự. Có lẽ mọi người đều coi nơi này là “Cái tai lừa của Quốc
Vương” nên chẳng ai ngại ngùng bày tỏ tâm trạng của mình: có vài người là kẻ
thứ ba nói về sự đau khổ khi phải ra đi, có vài người thất tình, nói về sự đau
đớn tuyệt vọng của bản thân, có một số người thì yêu đồng tính, nửa kia lại đã
kết hôn, cũng có cả người Đài Loan, nói năm kia lần đầu tiên đến đây cùng người
yêu, năm ngoái kết hôn nên đến đây để làm kỷ niệm, năm nay lại đến, có lẽ đã
thành thói quen.
Cô lật giở từng trang cho đến khi ly cà phê nguội
lạnh.
Còn có người viết: Dù shẳng có ai biết.
Cuối cùng, cô quyết định viết.
Đêm đó, cô viết một mạch đến tận hai giờ đêm mới rời
khỏi quán, về đến nhà nghỉ, đang chuẩn bị tắm rửa để đi ngủ, vừa mới thay đồ
ra, cô bỗng cảm thấy thiêu thiếu thứ gì, nghĩ một lát mới phát hiện ra là không
thấy chiếc điện thoại di động đâu. Cô hốt hoảng, không tắm nữa, vội vàng mặc
quần áo, bắt đầu đi tìm, phòng ở, phòng tắm bị cô lục tung lên nhưng đều không
thấy, cuối cùng cô nhớ ra quán cà phê lúc nãy nên vội ra đó xem có còn không.
Cô đi dép lê, chân nam đá chân chiêu chạy ra từ nhà
nghỉ, xuyên qua mấy dãy phố vắng tanh. Lúc này, đèn đường đã tắt, chỉ còn vài
chiếc đèn lồng đang chiếu thứ ánh sáng lờ mờ trước cửa mấy quán bar, giữa đường
còn gặp một người đàn ông say rượu, cô rảo bước nhanh hơn. Mãi mới đến được
quán cà phê, cô đẩy cửa ra mà lòng dạ bồn chồn như có lửa đốt, trước mắt cô là
một người đàn ông đang ngồi quay lưng lại, tay xoay xoay chiếc điện thoại của
cô. Cô vội bước nhanh qua, chiếc dép lê bị mắc vào bậc cửa, cô đứng không vững,
người lộn nhào về phía trước. Chủ quán giật mình, vội chạy qua đỡ. Đường Du
không kịp bò dậy, không để ý đến vẻ lếch thếch của mình, lo lắng ngẩng đầu lên nhìn
chiếc điện thoại, nói: “Chiếc điện thoại đó là của tôi…” Chưa dứt lời, máu từ
miệng đã ộc ra.
Chủ quán càng hốt hoảng hơn, vừa sai một cậu thanh
niên cầm giấy ăn đến vừa nói: “Cô có sao không? Đừng lo lắng.”
Cậu thanh niên bị gọi, vội đi tới, ngạc nhiên nhìn cô,
nói: “Là cô à?”
Hóa ra đó là người thanh niên ngồi cạnh cô trên tàu,
nhưng lúc này Đường Du không để ý đến anh ta mà chỉ quan tâm đến chiếc di động.
Anh ta cũng nhận thấy điều đó, giọng nói có chút ngại ngùng, “Xin lỗi, lúc nãy
vì muốn xác định chủ nhân của nó nên tôi đã mở máy, trong này có rất nhiều tin
nhắn… trả lại cô.”
Đường Du bình tĩnh lại, rất nhiều tin nhắn trong điện
thoại, của Tôn Văn Tấn, của thầy hướng dẫn, của Trần Thích, của chị khóa trên,
mỗi người đều gửi rất nhiều tin, nhưng đều có chung một ý là: Hiện giờ đang ở
đâu? Tôn Văn Tấn đang rất lo lắng, nhận được tin thì gọi lại. Chưa kịp xem hết
tin nhắn thì chuông điện thoại reo vang, là số của Tôn Văn Tấn, cô hoảng loạn
đến nỗi ấn nhầm vào nút nghe, đưa điện thoại lên tai, giọng cô khe khẽ “A lô.”
Giọng Tôn Văn Tấn ở đầu dây bên kia khàn khàn, thê
lương, run rẩy như thể sợ nếu nói to, cô sẽ sợ hãi chạy mất, cũng như thể đang
trong một giấc mơ, không tin rằng đầu dây bên kia là cô, nên cẩn trọng hỏi,
“Tiểu Du…” chưa nói hết câu, giọng đã khản đặc.
Giọng nói của gã khiến trái tim Đường Du tê tái, cô
quên cả đáp lời, quên cả dập máy, cứ thờ thẫn như gặp phải ma, lắng nghe từng
tiếng nấc nghẹn phía đầu dây bên kia.
Lát sau, một giọng khác vang lên trong điện thoại như
thể sợ cô dập máy, ngữ điệu ngang ngược, hung hăng, cướp lời: “A lô, a lô, có
phải Đường Du không? Cô nghe tôi nói đây, có bản lĩnh thì cả đời này đừng mở
máy nữa, yên tâm để Tôn Văn Tấn chết cùng với cô.”
Trần Thích vẫn chưa dứt lời, đầu dây bên này, khuôn
mặt Đường Du đã đầm đìa nước mắt.
Buổi sáng ngày hôm sau, Đường Du đi xe buýt từ Dương
Sóc đến sân bay Quế Lâm đợi, chưa đầy mấy tiếng, chuyến bay của Tôn Văn Tấn đã
đến nơi. Cô ngồi bên ngoài cửa kính xa xa nhìn gã đi từ bên trong ra, sắc mặt
gã tiều tụy, mêt mỏi, hình như quên cả cạo râu, có một mảng hơi đen đen dưới
cằm. Trước đây, Tôn Văn Tấn luôn là người vô cùng chỉn chu, đi đến đâu quần áo
cũng sáng bóng, dáng vẻ hào hoa phong nhã. Mới hơn một tuần không gặp mà đã ra
nông nổi này, Dường Du thấy cay cay nơi khóe mắt.
Sau khi Tôn Văn Tấn liên lạc được với Đường Du, gã
không mang theo gì, lập tức đi cho kịp chuyến bay ngày hôm sau. Những ngày này,
lúc đầu Trần Thích còn tự trách mình, nhưng mãi vẫn không tìm thấy Đường Du,
anh ta bắt đầu tức tối, đổ hết mọi trách nhiệm và tội lỗi lên đầu Đường Du,
miệng không ngừng nói: “Đã bảo cậu rồi, đừng có dây dưa với những cô gái trẻ,
vừa buông thả vừa vô trách nhiệm, nói đi là đi, cậu tìm cô ta về thì có ích lợi
gì.”
Lúc đó, Tôn Văn Tấn cũng rất hận Đường Du. Nhưng khi
nhìn thấy cô qua lớp kính, đang ngồi trên ghế, đôi vai gầy guộc, đôi mắt to và
chiếc cằm nhọn, vành mắt ngân ngấn lệ dõi theo gã, hai ánh mắt gặp nhau qua lớp
kính, mọi hờn giận trong gã đều tan biến. Ánh mắt long lanh, nét buồn buồn trên
khuôn mặt cô khiến trái tim gã rung động. Gã bước nhanh lại, đến trước mặt cô,
cô thấy tay chân mình luống cuống, vừa đừng lên, gã đã ôm cô vào lòng, ôm rất
chặt, hoàn toàn không để ý đến sức mạnh của bản thân. Đường Du bị siết chặt đến
nghẹt thở, muốn giãy ra, nhưng gã không buông t
Ở sân bay Quế Lâm một lát, họ bắt xe taxi về Dương Sóc
vì đồ đạc của Dường Du vẫn đang để ở nhà nghỉ. Xa nhau một thời gian dài, Đường
Du không ngờ Tôn Văn Tấn lại coi trọng mình đến vậy, đã xảy ra rất nhiều
chuyện, lúc gặp mặt cả hai đều không biết nói gì, suốt dọc đường gã cứ nắm chặt
lấy tay cô, mười ngón tay cứ xoắn xít nhau. Dường Du miên man nghĩ, mắt ươn
ướt, sao có thể không cảm động chứ, từ nhỏ đến lớn cô luôn bị đẩy đi đẩy lại,
nhưng cuối cùng đâu có ai cần cô.
Một tiếng sau, xe đến Dương Sóc, chiếc taxi dừng trước
cổng nhà nghỉ, trả xong tiền, Đường Du đưa gã lên gác. Vào đến phòng, cô rót
cho gã một cốc nước, hỏi gã có cần đi tắm, rồi lại hỏi gã có cần ăn cơm. Họ đã
sống cùng nhau mấy tháng, đã hiểu nhau, không ngờ bây giờ lại trở nên lịch sự,
xa lạ.
Đường Du bồn chồn, không yên, cô cứ luống cuống trong
phòng, nói như cướp lời, cô biết gã chắc chắn muốn nói rất nhiều điều, chắc
chắn gã sẽ hỏi, nhưng trong lòng cô vừa sợ gã mở miệng ra hỏi lại vừa sợ gã
không hỏi gì nên đành cứ phải tranh nói trước.
Tôn Văn Tấn cầm cốc nước, không nói năng gì, lặng lẽ
nhìn cô, cô nói gì, làm gì, gã cũng chỉ nhìn theo.
Ánh mắt gã khiến cô không biết trốn vào đâu, cô không
đóng kịch nữa mà đi đến trước cửa sổ, nhìn dòng Ly Giang và ngọn núi xanh xanh
phía xa, nói đầy vẻ khó nhọc: “Em mắc bệnh, không muốn mọi người biết chuyện,
sợ mọi người thương hại, như thế em thấy mình thật đáng thương. Càng sợ hơn là
nếu mọi người biết mà không ai thật lòng quan tâm. Giống như hồi còn nhỏ, mẹ,
bố và cậu đều bỏ rơi. Giờ em lớn rồi, có thể tự làm chủ nên không muốn để ai
biết.”
Tôn Văn Tấn ngồi ở đằng sau cô, không nói gì.
“Khi còn nhỏ, bố mẹ em thường cãi nhau, rồi quăng đồ
đạc, những lúc ấy em rất sợ, cảm giác như tất cả có thể bị hủy diệt. Sau này,
họ ly hôn, nhưng vẫn cãi vã vì chẳng ai muốn nhận con gái mình, lúc ấy, em hận
sao mình không chết quách cho xong… Giờ em đã trưởng thành, nếu người ta không
cần, em sẽ ra đi trước khi điều đó thực sự xảy ra, không cho người ta cơ hội từ
bỏ, như thế, em sẽ không bị bỏ rơi. Thực ra, chết đâu có gì đáng sợ, điều đáng
sợ nhất là, khi yếu đuối nhất, người thân nhất bên cạnh lại bỏ rơi em để cao
chạy xa bay.”
Cô vẫn cứ ngoảnh mặt về phía dòng Ly Giang bên ngoài
cửa sổ, như đang nói với chính mình những tâm tư tận sâu trong đáy lòng, lời
nói bay theo làn gió. Họ đã từng ôm nhau ngủ hằng đêm, đã từng đáp ứng nhau nhu
cầu về thể xác nhưng những lúc ấy cô đâu nói với gã những điều này. Lúc này, cô
lại nói hết với dòng Ly Giang, với mây và gió, lời nói có chút bất cần pha lẫn
sự thê lương, không phải nói ra để chia sẻ cùng gã, mà hình như những điều ấy
đều đã bay theo gió hết rồi. Cô quay người lại, nhưng không dám nhìn gã, cúi
mặt, nói: “Em xin lỗi, lúc đó em đã không nói cho anh biết vì không muốn anh
phải gánh trách nhiệm.”
Tôn Văn Tấn kìm chế rồi lại kìm chế, gã bóp chặt cốc
nước, chiếc cốc làm lòng bàn tay gã đau rát nhưng tất cả sự đau đớn này đâu thể
sánh với nỗi đau trong lòng. Gã hít một hơi dài, hết sức kìm nén, giọng run
rẩy, “Nếu buổi tối hôm qua, em không gặp người đó ở quán cà phê, có phải em sẽ
không bao giờ mở nguồn điện thoại không? Có phải em không bao giờ muốn gặp lại
anh nữa?”
Cô lặng lẽ gật đầu.
Gã nhìn cô chằm chằm, ánh mắt như đang bốc lửa. Nhưng
cô chỉ cúi đầu, chiếc cằm nho nhỏ, má bầu bầu, lông mi chớp chớp, khóe mắt ngân
ngấn lệ. Cô đang khóc, răng cắn chặt vào môi dưới, giọng nói vẫn lạnh nhạt: “Em
không quen từ biệt nên không để lại tin nhắn cho anh, em để chìa khóa trên mặt
tủ, nghĩ là anh sẽ hiểu.”
Môi dưới bị cô cắn đến nhợt nhạt, nước mắt ứ trên viền
mi, rưng rưng, không dám lăn xuống.
Gã có thể hiểu gì? Hiểu rằng cô có ý định bỏ rơi gã,
một mình đón nhận cái chết mà không để gã biết, hay là hiểu rằng cô dựa vào đâu
mà cho rằng gã bỏ rơi cô để cao chạy xa bay trong lúc cô yếu đuối nhất? Sao lại
có thể ngốc nghếch đến thế? Trăm ngàn vòng xoáy bỗng cuồn cuộn trào dâng trong
trái tim gã.
Cô còn nói: “Em không nghĩ rằng anh sẽ đi tìm em, thực
ra, anh không cần tìm đâu. Trước đây, em chỉ có một mình, một mình trong hơn
mười mấy năm trời. Em mắc bệnh, nếu không gặp anh, em cũng vẫn bị bệnh, một
mình em có thể chống chọi được.”
Cuối cùng, không thể kìm chế được nữa, gã nắm chặt
chiếc cốc trong tay ném mạnh vào tường, “choang”, vụn thủy tinh bay tứ tung.
Đường Du giật mình, ngẩng đầu lên, giọt lệ vương trong mắt sáng lấp lánh, vẻ
loạn, thê lương đó khiến trái tim Tôn Văn Tấn tê tái, gã vừa giận dữ, vừa tủi
thân, lại vừa không ngăn nổi nỗi xót thương trong lòng, vì thế, sự tức giận như
được nhân lên. Gã hít hít mũi, cố gắng dìm sự chua xót xuống, giọng khàn khàn:
“Em muốn chống chọi? Đường Du, phải chăng chúng ta có một sự khởi đầu tệ hại
nên chẳng thể nào bắt đầu lại? Em có nghĩ đến cảm nhận của anh? Sao em biết em
là gánh nặng? Dựa vào đâu mà em cho rằng anh sẽ bỏ rơi em để cao chạy xa bay
trong lúc em yếu đuối nhất? Em coi anh là gì? Em làm vậy, thà em đừng đồng ý
sống cùng anh ngay từ đầu. Như thế, dù có bị bệnh, có trốn ở đâu, anh cũng
không quan tâm. Nhưng em đã sống cùng anh rồi, sao em có thể cư xử như vậy. Em
rời xa anh trong lúc buồn nhất, tuyệt vọng nhất, em không nghe điện thoại,
không để anh đi tìm, sao lại đối xử với anh như thế?” Càng nói, gã càng thấy
cay đắng, không cách nào nén được sự xót xa, giọng gã lành lạnh, “Nếu muốn một
mình chống chọi, muốn mãi mãi không gặp anh, sao giờ em lại khóc?” Vừa nói gã
vừa đi đến ôm cô từ phía sau, đầu cô nằm gọn trong lòng gã, giọng gã đau đớn:
“Sao em ngốc thế, anh có thể bỏ em để cao chạy xa bay trong lúc em buồn nhất ư?
Hơn nữa, anh đã hỏi bác sĩ rồi, họ đã chẩn đoán nhầm, muốn em về kiểm tra lại.”
Gã ôm chặt tấm thân nhỏ bé của cô, vì ôm sát vào lòng
nên gã cảm nhận rõ sự gầy yếu của cơ thể cô, điều này khiến trái tim gã càng
mềm nhũn, tê tái. Gã nhớ lại rất nhiều chuyện… chuyện quá khứ, chuyện khi ở bên
nhau, bao nhiêu băn khoăn bỗng có lời giải đáp. Vì muốn cứu bạn trai mà cô đơn
thương độc mã đi tìm Tô Bất Dị, nhưng cứu được rồi lại kiên quyết không cho
phép mình tiếp tục quan hệ với anh ta vì cách cư xử của ông bà Lâm khiến cô bất
an, cô sợ khi quan hệ giữa họ và cô trở nên thân thiết rồi, họ sẽ khiến cô bị
tổn thương, sẽ bỏ mặc cô để cao chạy xa bay lúc cô yếu đuối nhất, do vậy, cô đã
kiên quyết từ chối Lâm Khai. Đồng ý sống cùng gã, nhưng cô chưa từng hỏi chuyện
của gã, cũng chưa từng nói chuyện của mình. Ngày qua ngày, cả hai đều không để
đối phương đi sâu vào cuộc sống của nhau vì cô lo rằng sẽ có ngày gã cao chạy
xa bay nên cô dành riêng cho mình một lối thoát, để khi đi rồi, sẽ không phải
buồn. Trước mặt bao người, cô vẫn mạnh mẽ, nhẫn nhịn, Tô Nhiêu đẩy cô ngã xuống
cầu thang, Diệp Đào hoa ép cô làm tiếp viên, Hà Khâm ép cô uống rượu, Lâm Khai
suốt ngày ở lì trong hộp đêm Loạn thế giai nhân, nhưng cô luôn có cách chống
chọi không hề sợ sệt, thậm chí khi tưởng mình mắc bệnh nan y, cô cũng một mình
sắp xếp gọn gàng mọi chuyện rồi mới lặng lẽ ra đi. Xem ra, cô mạnh mẽ, lạnh
lùng, dường như chẳng sợ hãi điều gì. Cô nhìn dòng Ly Giang, lặng lẽ rơi lệ,
giọng nói hững hờ bay theo gió. Cô đang nói đến cái điều đáng sợ nhất nhưng
giọng điệu lại nhẹ như mây trôi gió thoảng. Tuy thế, gã chợt nhận ra rằng, cho
dù thế nào, thực ra, cô vẫn luôn cảm thấy sợ.
Cô biết điều mình sợ nên luô bộ như không sợ, đóng
kịch lâu nên cứ tưởng như mình chẳng hề sợ điều gì, nhưng thật ra lại đang rất
sợ, nếu không, lúc này đây cô đã chẳng run rẩy trong lòng gã, đã chẳng khóc như
thế này.
Có thể, cô không sợ bất kỳ điều gì, với cô, ngày tận
thế cũng chẳng có gì đáng sợ, nguy hiểm tính mạng cũng vậy, điều khiến cô sợ
nhất chính là lúc yếu đuối nhất, người đáng tin duy nhất bên cạnh bỏ mặc cô để
cao chạy xa bay, vậy phải làm thế nào?
Thế nên, biết rõ cuộc đời mình sắp kết thúc, biết rõ
rời xa gã rồi cũng chẳng biết đi đâu, nhưng cô vẫn nhất quyết lựa chọn sự ra
đi. Cô biết rõ, hiểu rõ rằng mình chẳng còn sống được bao lâu. Cô biết trong
người mình không có nhiều tiền, xa gã rồi, những ngày còn lại sẽ sống ra sao,
nhưng cô vẫn đi. Điều bi thảm nhất trong đời người là cái gì cũng biết, cô biết
rõ ràng là mình chẳng còn sống được bao lâu, sao lại không sợ cơ chứ? Phiêu
bạt, chết chóc, bất an đều là những điều khiến cô sợ, khiến người ta phải chùn
bước, nhưng cô đã khắc phục được. Hai mươi tuổi đời, còn trẻ như vậy mà đã phải
nếm trải biết bao đau khổ, cay đắng của cuộc đời, một mình vươn lên để trưởng
thành, không chốn nương tựa, mọi tuyệt vọng, đau đớn đều tự vượt qua. Dù có
mạnh mẽ, có lạnh lùng đến đâu đi nữa thì cái chết ở tuổi hai mươi cũng khiến
người ta thấy sợ. Mọi thứ đều khiến cô sợ hãi, muốn hét to lên nhưng cô đã
không cho phép mình làm thế. Cô không dám nói với bất kỳ ai mà âm thầm chịu
đựng trong hai mươi năm, khi đối diện với cái chết không mong đợi, cô sợ mình
suy sụp, sợ khi nghe điện thoại, nghe thấy giọng gã, cô sẽ khóc lóc đến khản
tiếng, nhưng còn có điều khác đáng sợ hơn.
Cô nói, điều cô sợ hơn là nếu để mọi người biết mà lại
chẳng ai thực lòng quan tâm; cô nói, cô sẽ ra đi trước khi bị bỏ mặc, như thế,
mình sẽ không có cảm giác bị bỏ rơi; cô nói, sợ nhất là, khi yếu đuối nhất,
người thân nhất bên cạnh lại bỏ mặc cô để cao chạy xa bay…
Thế nên cô chẳng kịp suy nghĩ kỹ xem sau khi rời xa gã
sẽ thế nào, không kịp nghĩ kỹ những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời sẽ ra
sao. Chỉ ngẫu nhiên nghĩ, giả sử dùng hết số tiền tích cóp rồi mà cuộc đời vẫn
chưa kết thúc thì biết tính thế nào, song cô chỉ có thể tự trách móc mình, lúc
đó cùng lắm là nhảy xuống biển tự vẫn.
Sao cô gái này lại có thể ngốc nghếch thế?
Tôn Văn Tấn thấy mắt mình cay xè, gã liên tục ngước
mắt lên nhìn ra ngoài cửa sổ nhưng vẫn không nén được những gi nước mắt.
Trên chuyến bay trở về, Tôn Văn Tấn luôn nắm chặt tay
cô, cô cũng dựa sát vào gã. Lúc trước, bị chuẩn đoán là có bệnh, cô vô cùng
bình tĩnh đến trường đệ đơn xin thôi học, vô cùng điềm tĩnh nói chuyện với Trần
Thích về việc đi Pháp, rồi sau đó một mình bỏ đi. Khi ấy, hình như không điều
gì khiến cô thấy sợ. Nhưng giờ đây, biết gã sẽ không bỏ mặc mà đang đưa cô về
để chẩn đoán lại, cô lại thấy sợ. Mặc dù bác sĩ nói cô có thể không có vấn đề
gì về tim, nói vấn đề không nghiêm trọng nhưng cô chưa tin. Cô rất ít khi ra
vào bệnh viện, cũng chưa từng tiếp xúc với những người bệnh nặng, nhưng màu sắc
của những cục máu tươi cứ in đậm trong tâm trí. Hồi nhỏ, chuyện nôn ra máu luôn
khiến cô hoảng sợ. Khóe mắt cô cay cay, nghĩ nếu lần này kiểm tra lại, bác sĩ
nói không phải chẩn đoán nhầm thì sẽ thế nào?
Bất chợt, cô thấy hận cái cảm giác sợ hãi luôn bám
đuổi theo cô như hình với bóng này, sao nó khiến cô sợ đến thế?
Tôn văn Tấn vẫn đang nắm chặt bàn tay Đường Du, bàn
tay cô lạnh như băng, gã lo lắng ngoảnh sang nhìn. Cô đang nghiêng đầu ngắm
những đám mây trắng ngoài cửa sổ, răng cắn chặt vào môi dưới, cặp lông mi trên
đôi mắt đen nháy như trái nho chín mọng chớp chớp, như thể đang khe khẽ run,
không biết là đang nghĩ gì. Mặt cô nhợt nhạt, gã dang tay ôm cô vào lòng, tay
xoa xoa bả vai cô, giọng vỗ về: “Đừng sợ, em chợp mắt một lát đi, vẫn còn mấy
tiếng nữa, đến nơi, anh sẽ gọi.”
Nghe lời gã, cô nhắm mắt lại, dần buông lỏng tay gã,
đến nhịp thở cô cũng cẩn trọng điều tiết, thấy thế, gã xót xa trong lòng. Gã
biết ban nãy cô nghĩ gì, gã cũng nhận ra vẻ sợ hãi, lo lắng của cô. Điều gã cần
làm là giúp cô phấn chấn trở lại, đừng để cô nghĩ những điều không đáng nghĩ,
và không nên sợ hãi nữa, rồi gã lại thấy hận, hận mình không kiểm soát nổi, gã
thực sự cũng thấy sợ? Cảm giác này khiến gã câm lặng, chỉ biết ôm chặt lấy bả
vai cô.
Về đến thành phố B, Trần Thích và vợ đã đợi họ từ lâu
bên ngoài sân bay. Tôn Văn Tấn dắt tay Đường Du đi ra, mọi người chào hỏi nhau.
Bụng của Thấm Tử Tịnh đã nhô lên, chị ưỡn thẳng lưng, Dường Du biết Tử Tịnh
đang mang bầu, trong lòng cảm thấy áy náy, nói: “Sân bay xa như thế, sao chị
còn đích thân đến?”
Tử Tịnh cười, nói: “Anh chồng đần của chị làm chuyện
ngốc nghếch nên hôm nay chị phải dẫn anh ấy đến xin lỗi em. Tiểu Du, Văn Tấn,
hai người không để bụng là tốt rồi.
Câu nói này khiến cả ba người cùng cảm thấy ngượng
nghịu. Đường Du thì nghĩ chuyện mất tích của mình khiến mọi người nhốn nháo,
Tôn Văn Tấn nghĩ lúc đầu vì chuyện của Đường Du mà gã tức giận với Trần Thích,
Trần Thích thì lại nghĩ đến tất cả mọi việc anh đã làm trước đây nên quay sang
Đường Du nói: “Tiểu Du, Văn Tấn, xin lỗi nhé.”
Lúc này, một người cách đó không xa đi tới, là Thẩm Tử
Quất, cô hờ hững hỏi thăm Đường Du. Nhìn vẻ tiều tụy của Đường Du, cô vừa
ngưỡng mộ, vừa ghen tị lại vừa cảm thông, thương xót, ánh mắt vô cùng phức tạp.
Nhưng lần này, cô cố ý không nhìn Tôn Văn Tấn, chỉ cúi đầu chào, gọi anh Văn
Tấn, rồi không nhìn thêm nữa. Ánh mắt cô chuyển hướng nhưng mọi người đều nhận
thấy tình cảm ẩn giấu trong lòng cô, dáng vẻ ấy khiến Đường Du xót xa, cô cũng
hờ hững cảm ơn đáp lại.
Thẩm Tử Quất tự lái xe riêng về, mấy người còn lại
ngồi chung một xe, họ nói về đứa trẻ trong bụng Thẩm Tử Tịnh và những điều mắt
thấy tai nghe ở Dương Sóc. Không khí có phần thân mật hơn, Thẩm Tử Tịnh chọc:
“Đường Du, em có biết em vắng mấy ngày mà anh Văn Tấn nóng ruột thế nào không?
Đánh Trần Thích đến nỗi chảy cả máu, còn bắt anh ấy đi tìm khắp nơi, không có
cả thời gian về nhà.”
Đường Du đỏ mặt, nhìn Văn Tấn đang ngồi hàng ghế trên,
nhỏ nhẹ: “Đều là tại em, anh Văn Tấn không nên trách anh Trần Thích, em xin
lỗi.”
Thẩm Tử Tịnh nắm lấy tay Đường Du, cười nói, “Về là
tốt rồi, ha ha, chị cũng chẳng có ý gì. Là em không biết, họ là những đại nam
nhi, ở ngoài là hai vị tổng giám đốc, quản lý biết bao người nhưng vì em mà
điên đảo như muốn lật tung cả thế giới này lên, nếu không tìm thấy em, chắc
Trần Thích chỉ còn cách tự sát để tạ lỗi.”
Trần Thích ngồi đằng trước cúi đầu cười, ngoảnh đầu
sang nhìn Tôn Văn Tấn. Tôn Văn Tấn thì quay lại nhìn Đuờng Du, khiến mặt cô đỏ
lựng, không dám ngẩng lên.
Sau khi bình an về đến nhà, Đường Du xuống xe cảm ơn,
Tôn Vắn Tấn lấy hành lý ở cốp xe xuống. Đang định lên lầu, Trần Thích gọi Tôn
Văn Tấn, Đường Du nhìn thần sắc của họ, biết là có chuyện cần bàn bạc, cô quay
sang cười với Tôn Văn Tấn, nói: “Em lên trước, hai anh nói chuyện tự nhiên.”
Đường Du xách chiếc túi nhỏ của mình đi lên trước, Tôn
Văn Tấn lo lắng dõi theo bóng cô. Trần Thích rút một điếu thuốc đưa lên miệng,
kể từ khi Thẩm Tử Tịnh có bầu, anh ta đã cai thuốc nhưng do mấy ngày nay không
tìm thấy Đường Du, tâm trạng rối bời,
không có chỗ nào để trút giận nên lại hút. Anh ta hít mấy hơi mà không biết nên
bắt đầu thế nào, rồi nghĩ ngợi một lát, nhả một vòng khói dài, ngoảnh lại nhìn
Thẩm Tử Tịnh đang ở trong xe, vứt đầu thuốc xuống đất, lấy chân giẫm giẫm, nói
thẳng: “Mình đã liên lạc với người ở bệnh viện rồi, cậu có thể dẫn cô ấy đến
bất kỳ lúc nào. Ý của Tử Tịnh là, dù là bệnh gì cũng nên sớm đưa cô ấy đi
khám.”
Tiếp đến là chẩn đoán, Đường Du biết, bệnh viện bây
giờ, càng nổi tiếng thì càng kéo theo các vấn đề về giường bệnh, thuốc thang,
bác sĩ… nhưng khi Tôn Văn Tấn dẫn cô đến bệnh viện, như thể đã có người dẫn
đường, họ chẳng gặp bất kỳ trở ngại nào trong suốt quá trình, vì thế dễ dàng
tìm được bác sĩ chẩn đoán cho cô, bác sĩ xác định là bệnh phổi biệt lập, Tôn
Văn Tấn biết Đường Du là người cả nghĩ nên anh không có ý định giấu giếm cô.
Bác sĩ nói: “Bệnh phổi biệt lập là hiện tượng phát dục phổi khác thường bẩm
sinh gây ra do bộ phận mô mầm phổi tách rời với trục chính chi khí quản trong
quá trình phát dục phổi thời kì phôi thai, bệnh này làm cho mô phổi không thông
với khí quản và chi khí quản. Mạch máu tuần hoàn cung cấp máu cho phổi, thường
thấy là động mạch bất thường đơn chi hay đa chi của động mạch chính và động
mạch phụ trong lồng ngực. Nói một cách đơn giản, bệnh phổi biệt lập là phổi
phát dục dị dạng bẩm sinh, đặc điểm chính là cung cấp, phân phối máu bất
thường, phần phổi mang bệnh và phần phổi bình thường cùng được che bởi lớp màng
phổi, cần làm phẫu thuật, cắt đi phần phổi mang bệnh. Tóm lại, thực ra chỉ là
cuộc phẫu thuật nhỏ.”
Vị bác sĩ không hề có ý làm yên lòng họ, đối với những
vị chuyên gia này, ngoài phẫu thuật thay khí quản ra, còn lại họ đều cho là
phẫu thuật nhỏ. Mặc dù phải phanh ngực, nhưng đã chẩn đoán chính xác rồi. Hạt
bụi đã rơi xuống luôn tốt hơn là vẫn còn lơ lửng, hơn nữa, câu nói “chỉ là cuộc
phẫu thuật nhỏ” của bác sĩ khiến Đường Du cảm thấy nhẹ nhõm. Nghe Tôn Văn Tấn
kể lại, Trần Thích cũng thấy yên tâm, vây nhưng trông Tôn Văn Tấn lại có vẻ lo
lắng khác thường, Trần Thích thấy thế, trong lòng hiểu rõ vì sao.
Cuối cùng Tôn Văn Tấn hỏi về di chứng sau phẫu thuật,
bác sĩ cho biết, sau khi phẫu thuật, vì diện tích mô phổi giảm, khả năng hoạt
động của phổi và tính đàn hồi cũng giảm xuống… nên sẽ ảnh hưởng đến chức năng hô
hấp.
Nhưng sau khi chuyên gia hội chẩn chính thức xong, kết
quả lại là không thể tiến hành mổ. Vì mạch máu thừa mạch chủ cần cắt bỏ của
Đường Du quá ngắn và quá to, việc phẫu thuật sẽ rất khó khăn, bác sĩ cho rằng
nếu sử dụng phương pháp nội soi sẽ tốt hơn nhưng lựa chọn này do người bệnh tự
quyết định.
Tôn Văn Tấn đưa Đường Du đi hỏi nhiều bệnh viện uy tín
ở thành phố B và thành phố S, thậm chí còn gửi cả bệnh án bằng fax ra nước
ngoài, kết luận nhận được không thống nhất. Người thì cho rằng cần phương pháp
nội soi, người lại cho là nên mổ, nói đi nói lại, vị chuyên gia nào cũng cho
rằng đó chỉ là cuộc phẫu thuật nhỏ, mà không ai dám chắc chắn nên dùng cách
nào.
Cuối cùng, một vị chuyên gia quen biết với Tôn Văn Tấn
an ủi, “Thư giãn tâm lý, điều chỉnh tâm trạng, đó chỉ là cuộc phẫu thuật nhỏ mà
thôi. Đối với ngành y học chúng tôi, quá trình có thể bị bỏ qua, nhưng kết quả
mới là chứng nhận cuối cùng và duy nhất. Chỉ cần kết quả tốt, trở ngại và tổn
thương trong quá trình làm có lớn nữa thì thực ra cũng đáng. Giờ đừng nên quá
lo lắng, hãy dũng cảm lên.”
Cuối cùng quyết định chọn phương pháp nội soi, trước
bàn phẫu thuật, bác sĩ ngoại khoa sau khi tìm ra ổ bệnh lại không dám làm ống
dẫn. Đường Du phải đi lại mấy lần, bác sĩ vẫn không chắc chắn làm nên đành lại
đưa cô về phòng bệnh. Trong lúc hôn mê, cô nghe thấy Tôn Văn Tấn đang tức giận
với bác sĩ ở bên ngoài. Ngần ấy ngày trời, thần kinh gã luôn căng thẳng, tìm đủ
các chuyên gia nhờ tư vấn, gã lo lắng cho cô hơn bất kỳ ai. Bác sĩ lúc thì nói
dùng phương pháp nội soi, lúc lại chủ trương mổ, nhưng cho dù thế nào, gã vẫn
giữ thái độ lịch sự và biết ơn, có lẽ đây là lần đâu tiên tức giận, gã hét lên
với vị bác sĩ, “Nếu đã không chắc chắn, sao trước đây hội chẩn lại chủ trương
dùng phương pháp nội soi? Trước đó sao không nói làm phẫu thuật sẽ không đảm
bảo? Các người vô trách nhiệm với bệnh nhân thế sao?”
Bác sĩ thông cảm với tâm trạng của Tôn Văn Tấn, còn vì
truớc khi phẫu thuật đã có nguời gọi điện đến nên ông hết sức ôn hòa giải thích
với gã.
May mà Trần Thích có ở đó, anh ta nói vài câu, Tôn Văn
Tấn bình tĩnh trở lại, dịu giọng xin lỗi, vị bác sĩ vội vã rời ngay khỏi đó.
Trong cơn mê man, Đường Du nghe mọi động tĩnh bên
ngoài, đợi một lát không thấy Tôn Văn Tấn đi vào, chỉ có Trần Thích đẩy cửa vào
nhìn cô. Đường Du cố hết sức mở mắt ra nhìn anh, giọng yếu ớt: “Trần Thích, anh
Văn Tấn sao rồi?”
Cô bị bệ nhưng nguời bị giày vò hơn lại là Tôn Văn
Tấn.
Trần Thích cười ôn hòa, giọng vỗ về, “Cô cứ nghỉ đi,
chúng tôi không sao.”
Buổi tối, Đường Du bắt đầu không ăn đuợc, ăn bao
nhiêu, nôn ra bấy nhiêu khiến Tôn Văn Tấn hoảng sợ phải đi gọi ngay bác sĩ đến,
bác sĩ cũng không chẩn đoán ra nguyên nhân. Dù trong lòng rất buồn nhưng gã
không dám biểu lộ ra truớc mặt cô, đành đi thang máy lên tầng thượng hóng gió.
Đường Du nhìn theo bóng gã, lo lắng muốn gọi lại nhưng cuối cùng cô chỉ cúi
mặt.
Tất cả những điều này đều không lọt qua mắt của Trần
Thích, anh ngồi truớc mặt cô, nói: “Đừng tự ép mình ăn nữa, hãy nghe tôi nói
truớc đã.” Vừa nói anh vừa cầm chiếc bát mang ra chỗ khác.
Đường Du đợi xem anh nói gì.
Trần Thích nhìn bát cháo, luỡng lự giây lát, không
biết nên bắt đâu từ đâu. Mãi lâu sau, anh mới lấy lại tinh thần, vẻ mặt nghiêm
túc: “Biết nói thế nào nhỉ? Cô cũng biết, chúng tôi đều sinh ra trong những gia
đình có thể coi là khá giả. Cha mẹ lúc ấy đều là, à, đều là những cán bộ cấp
cao, bố của Văn Tấn năm đó là vị quan quyền cao chức trọng, từ nhỏ cậu ấy chỉ
quen với cuộc sống sung túc. Hồi nhỏ, rất nhiều người trong trường dị nghị về
chúng tôi, vì mỗi khi đến lớp hay tan học chúng tôi đều có bảo mẫu và tài xế
đưa đón, hơn thế, Văn Tấn từ bé đã thường xuyên tham gia tiệc tùng cùng bố, anh
trai và anh rể.
“Anh trai và chị gái lớn hơn Văn Tấn mười mấy tuổi nên
cậu ấy luôn được cưng chiều, nhường nhịn. Hơn nữa, do thông minh, đẹp trai, nên
ai nấy trong khu đều yêu mến, mấy người chúng tôi cũng thích nghe lời cậu ấy,
bố mẹ cậu ấy lại càng cưng chiều hơn. Khi hơn mười tuổi, anh trai và chị gái
đều lập gia đình, nên lúc đó điều kiện của cậu ấy có thể coi là không gì sánh
bằng. Những ngày tháng ấy, giờ nghĩ lại vẫn thấy sợ. Sau khi tốt nghiệp cấp ba,
vì không thể học cùng trường với bạn gái, Văn Tấn đã bỏ học tại trường đại học
Q, bỏ nhà đi, rồi bị lừa một khoản tiền ở thành phố SZ, sau đó được gia đình tìm
về, bắt cậu ta đi Mỹ du học, cũng trong năm đó, gia đình xảy ra chuyện. Năm ấy,
bố của Văn Tấn bị một người cấp dưới hãm hại, lúc đó cả nhà đều bị liên lụy,
lần lượt bị mất chức. Bố và anh trai cậu ấy đều bị vào tù, vì khi đó Văn Tấn
đang du học ở nước ngoài, hơn nữa do được bố và anh trai bảo vệ rất chặt chẽ
nên không bị liên lụy, nhưng cậu ấy vẫn quay về. Sau khi trở về nước, chị gái
và anh rể lại gặp tai nạn máy bay, chuyến bay của họ vì sự cố máy móđâm vào
núi, vỡ tan, một trăm bốn mươi mốt người thiệt mạng, là vụ tai nạn hàng không
nghiêm trọng nhất thời ấy. Bố và anh trai phải vào tù, chị gái và anh rể gặp
tai nạn máy bay, lại phát hiện thêm mẹ bị ung thư não, anh trai cũng bị ung thư
não, chưa kịp tuyên án đã chết trong tù, chị dâu vì quá đau buồn, cũng tự sát
vào ngay cái đêm người anh trai mất. Không lâu sau, đứa con gái bốn tuổi của
chị cũng đột ngột qua đời. Khi ấy, Văn Tấn mới chỉ là sinh viên năm thứ nhất,
mọi tài sản của gia đình đều bị niêm phong, không biết cô có cảm nhận hết
không, nhưng cây đổ thì khỉ rã đám. Khi đó, cậu ta không một đồng dính túi,
hoàn cảnh gia đình lại như vậy, người khác không dám tùy tiện cho vay tiền vì
sợ bị liên lụy. Trước khi cậu ta ra nước ngoài, cả đại gia đình vẫn vui vẻ, yên
ấm, vậy mà sau khi trở về thì đã tan tác, người thì tù tội, người thì nằm viện,
người thì qua đời, chỉ còn lại một mình.
“Cuối cùng, người em gái của chị dâu là chị Thang,
trước khi kết hôn đã về thành phố B cho cậu ta một khoản tiền để chữa bệnh cho
mẹ. Nhưng khi đó, bệnh ung thư não của bà đã vào giai đoạn cuối, cậu ấy chỉ có
thể đứng nhìn mẹ mình qua đời mà không biết làm thế nào. Hơn nữa, người bạn gái
mà cậu ấy từng bất chấp tất cả bỏ nhà trốn đi cùng đã phản bội để đi lấy một
người đàn ông giàu có. Nghĩ lại, khoảng thời gian ấy cậu ta thực sự bị suy sụp,
gần như là những tháng ngày đau khổ nhất trong cuộc đời nên giờ đây, cậu ấy
nhạy cảm đối với bệnh viện và phẫu thuật. Trong thời gian cô nằm viện, tinh
thần Văn Tấn rất căng thẳng, cơ thể tiều tụy, chắc cũng sắp suy sụp rồi.”
“Nói ra những điều này, tôi không có ý gì khác, lần
trước, tôi rất ngại, nếu chuyện của hai nguời thành, tôi cũng mừng cho cậu ấy.
Bấy nhiêu năm nay, tôi và Tử Tịnh chưa từng bao giờ thấy vì một cô gái mà cậu
ấy lo lắng như vậy. Dù người bị bệnh là cô, nhưng mong cô hãy cho cậu ấy chút
niềm tin, đừng sợ hãi. Bác sĩ cũng nói rồi, chỉ là cuộc phẫu thuật nhỏ mà thôi,
không nghiêm trọng. Cả hai đều không dễ dàng gì, mong cô hãy vì cậu ta mà mạnh
mẽ hơn, cố gắng vượt qua, cuộc đời sau này vẫn còn mấy mươi năm, giờ cô phải
dũng cảm lên.”
Sau đó, Đường Du nằm nghỉ ngơi, đợi cuộc phẫu thuật
lần thứ hai.