Trâm 2: Kẻ Yểu Mệnh

Chương 20

Chiều trong cung Thái Cực, cả gió cũng nhẹ nhàng êm dịu.

Điện Lập Chính nguy nga sừng sững, toát lên vẻ ung dung.

Quả là một nơi phù hợp với Vương hoàng hậu. Hoàng hậu sống ở đây chẳng khác mẫu đơn nở trong giếng vàng, đã rực rỡ lại thêm lộng lẫy.

Dọn đến đây hơn một tháng, đột nhiên hoàng thượng lại dắt Quách thục phi đến thăm, hoàng hậu thừa hiểu là ý gì, nhưng vẫn điềm nhiên, tươi cười niềm nở, ung dung thoải mái ra đón hai người vào, như thể mình vẫn đang ở giữa gác Bồng Lai, nắm trong tay tính mạng của mấy vạn người trong cung Đại Minh cho tới muôn vạn người thiên hạ.

Hoàng đế ân cần hỏi: “Ở đây có quen không? Hình như hoàng hậu rất thích chỗ này.”

Vương hoàng hậu cười nhìn ngài ngự, đáp khẽ: “Thần thiếp nào dám thích, kẻo hoàng thượng lại ban cho thiếp ở nơi này mãi mãi.”

Hoàng đế nhìn nữ nhân mình hiểu rõ nhất mà cũng lạ lẫm nhất dưới gầm trời này, bỗng dưng chẳng biết nói gì.

Quách thục phi giơ quạt che miệng cười nói: “Thì ra hoàng hậu vẫn thích cung Đại Minh ư? Cũng phải thôi, gác Bồng Lai mùa hè là mát nhất. Chỉ sợ không bao lâu nữa vào thu, điện gác bỏ không lại sinh ra lạnh lẽo, phải bày biện thêm nhiều đồ đạc cho ấm cúng.”

“Dù lạnh lẽo, nhưng luận về cảnh trí thì đó là nơi đẹp nhất trong cung, chỉ thua chỗ bệ hạ mà thôi. Ta thấy nếu có cơ hội, hẳn thục phi cũng thích lắm.”

Quách thục phi ngạo nghễ đáp: “Thần thiếp nào dám vọng tưởng…” Dứt lời, lại ngóng nhìn ra phía ngoài.

Hoàng hậu vẫy vùng trong cung bấy nhiêu năm, đã hiểu rõ Quách thục phi như lòng bàn tay, bèn hỏi: “Linh Huy đi đường bị chậm trễ gì ư?”

Hoàng đế kinh ngạc hỏi: “Linh Huy sắp đến à?”

“Thưa vâng, công chúa cứ nói muốn đến cung Thái Cực thăm hoàng hậu, nhưng chưa có dịp. Hôm nay nhân cơ hội hoàng thượng đến chơi, thiếp bèn sai người báo cho nó.”

Hoàng đế tỏ vẻ khó chịu: “Hôm nay chỉ có mấy lời quan trọng định nói với hoàng hậu, việc gì phải gọi Linh Huy đến cho rầy rà?”

Hoàng hậu cười nhìn hoàng đế: “Thục phi sợ hoàng thượng mềm lòng, nếu có Linh Huy mà hoàng thượng yêu thương nhất ở đây, may ra có thể cảnh tỉnh đôi phần chăng?”

Hoàng đế biết hoàng hậu đã thừa hiểu mục đích chuyến thăm này, giờ còn nói toạc ra, khiến ngài ngự có phần lúng túng, đành đi thẳng vào đề: “Nếu hoàng hậu ưa thanh tĩnh thì trẫm có thể thành toàn cho nàng.”

Vương hoàng hậu nhoẻn cười đáp: “Thần thiếp không phải không ưa tĩnh, nhưng mười mấy năm nay đã cùng bệ hạ dõi mắt trông khắp giang sơn gấm vóc, ngắm hết thịnh thế phồn hoa. Nếu trời cao rủ lòng thương, mong rằng hãy để thiếp được bầu bạn bên bệ hạ suốt đời này, răng long tóc bạc.”

Quách thục phi cười cười, hờ hững chêm vào: “Tấm lòng của hoàng hậu cũng bao la quá, bệ hạ là của chung thiên hạ, há có thể cùng một người đàn bà răng long tóc bạc hay sao?”

Vương hoàng hậu ngồi ngay ngắn trước mặt Quách thục phi, cười đáp: “Thục phi không hiểu rồi. Bản cung là hoàng hậu, là chính cung của bệ hạ, tuy trời cao vô tình, nhưng vợ chồng kết tóc mười mấy năm, cũng đã chung vai trả vô vàn mưa gió. Dưới gầm trời này, nếu có kẻ nào có thể bạn bầu cùng bệ hạ, thì đương nhiên là bản cung.”

Tính tình hoàng đế vốn ôn hòa độ lượng, giờ lại nghe hoàng hậu nói vậy, bất giác nhớ đến bao hồi ức xa xưa, lại thấy dung mạo hoàng hậu vẫn hệt như năm ấy, tóc vấn thành ba búi, cài cây trâm mành mành vàng ròng chạm hình sẻ xanh, phục sức lộng lẫy, xong không che lấp được mảy may ánh hào quang hấp dẫn tự thân.

Đây là nữ tử đã kề cận bên mình mười mấy năm, mỹ nhân trong cung cũng như hoa, hết mùa này sang mùa khác, lần lượt nở rộ rồi tàn lụi, chẳng cách nào khôi phục lại nhan sắc năm xưa, duy chỉ có người này càng ngày càng rực rỡ, càng kiều diễm mê người.

Vì vậy, dù biết hoàng hậu đã lừa dối mình, dù biết quá khứ của hoàng hậu không thể chấp nhận được, xong hoàng thượng vẫn tự an ủi, trên đời này chỉ có mình là người phù hợp với hoàng hậu nhất, dẫu trước kia hoàng hậu từng qua lại với kẻ nào, thì chỉ khi ở cạnh mình, hoàng hậu mới phơi bày dung mạo mỹ lệ yêu kiều nhất. Có vậy, ngài ngự mới không thấy uổng phí tình cảm mười mấy năm nay.

Nghĩ đến đây, hoàng đế lại không nén nổi tiếng thở dài. Ngài nhìn sang hoàng hậu, căn dặn: “Hoàng hậu cứ nghỉ ngơi cho khỏe, để trẫm cân nhắc thêm đã.”

Vương hoàng hậu uyển chuyển vái chào, xong khi ngẩng lên đã rưng rưng nước mắt, gương mặt kiều diễm vẫn cười mà hai mắt thì ầng ậc nước, nhìn đáng thương khôn tả.

Thấy hoàng đế đứng dậy đi ra, Quách thục phi bất giác buột miệng: “Không phải bệ hạ có chuyện muốn nói với hoàng hậu ư?”

Hoàng đến chẳng buồn ngoái lại, vừa xăm xăm đi ra vừa đáp: “Vốn chỉ nói tới thăm hoàng hậu thôi mà, đây cũng là trẫm quan tâm hoàng hậu. Phi biết rõ Linh Huy đang ốm, lại bảo nó ra ngoài, còn không nói với trẫm, quả là quá phận.”

Quách thục phi ấm ức, lỡ miệng cãi lại: “Linh Huy là con gái thần thiếp, bảo nó tới thì có gì là quá phận…”

Vừa buột miệng, phi liền thấy không ổn, vội im bặt.

Hoàng đế đã ra khỏi điện Lập Chính, đang xuống thềm.

Quách thục phi bị bỏ lại chỉ biết đứng ngẩn ra giữa điện, ngoái đầu thì thấy Vương hoàng hậu thong thả tiến lại. Hoàng hậu cười đầy ẩn ý, ghé tai hỏi nhỏ: “Thục phi định dựa vào Đồng Xương chứ gì? Bản cung thực không biết, các triều đại xưa nay có phi tần nào dựa vào con gái mà leo lên được không?”

Nhìn nụ cười của hoàng hậu, Quách thục phi bỗng thấy kinh hãi vô cớ, vội lùi lại, cãi cố: “Đã có hoàng hậu sinh được con trai bị biếm vào lãnh cung, tất cũng có phi tần sinh được con gái mà thăng tiến.”

“Chẳng phải vì năm ấy nói được một câu ‘sống được’ đấy ư” Vương hoàng hậu cười cười nhìn Quách thục phi, ánh mắt đầy khinh miệt và giễu cợt, xong giọng điệu vẫn dịu dàng uyển chuyển, điềm đạm khoan thai: “Một người đàn bà không có con trai mà dám vọng tưởng leo lên đỉnh cao nhất của cung Đại Minh, bản cung thật thương hại cho ngươi.”

Lồng ngực Quách thục phi phập phồng dữ dội, bà ta trừng mắt nhìn hoàng hậu đầy căm hận. Hồi lâu mới cúi gằm mặt xuống, chẳng nói nửa lời, quay ngoắt người đi thẳng ra ngoài điện.

Đúng lúc Quách thục phi bước xuống thềm thì thấy mấy tên hoạn quan hớt hải chạy tới, ngoài Trường Khánh khi nãy vẫn đợi bên ngoài, còn có Đức Chính, đại hoạn quan trong cung bà ta, cùng đám hoạn quan phủ công chúa và phủ Quỳ vương, những kẻ đáng lẽ không thể xuất hiện.

Hoàng đế thấy mấy tên hoạn quan hoảng hốt lao tới bèn hỏi: “Có gì mà hớt hơ hớt hải thế?”

Trường Khánh và Đức Chính tức thì quỳ sụp xuống đất, nước mắt ròng ròng, không dám lên tiếng.

Hoàng Tử Hà trịnh trọng quỳ xuống bẩm báo: “Khởi bẩm bệ hạ, trên đường đến cung Thái Cực, Đồng Xương công chúa đã bị tập kích.”

Hoàng đế kinh hoàng hỏi ngay: “Bị tập kích à? Có bị thương không?”

Hoàng Tử Hà đáp khẽ: “Thương thế rất nghiêm trọng.”

Hoàng đế tái mặt: “Đồng Xương đang ở đâu rồi?”

“Muôn tâu, đã tức tốc đưa về phủ công chúa, cũng vào cung mời thái y rồi.”

Hoàng đế nghe nói liền phất tay áo đi thẳng ra cửa cung, gọi lớn: “Phùng Hàn!”

Từ Phùng Hàn theo hầu bên cạnh vội vã chạy theo: “Hoàng thượng đừng lo, công chúa ở hiền gặp lành, nhất định sẽ không việc gì…”

“Đến phủ Đồng Xương ngay!” Hoàng đế thô bạo ngắt lời.

Quách thục phi theo sau hoàng đế, mặt mày tái mét, lúc ngang qua Hoàng Tử Hà vẫn quỳ dưới đất, bà ta giận dữ trỏ cô mắng: “Làm hoàng thượng kinh sợ như thế, khi nào công chúa khỏe lại thì ngươi biết tay!”

Công chúa không khỏe lại được nữa rồi.

Hoàng Tử Hà nghĩ bụng. Đợi Quách thục phi đi khỏi, cô mới từ từ đứng dậy thở hắt ra.

Trời xanh lồng lộng, ngày dài đằng đẵng. Linh hồn Đồng Xương công chúa đã về chốn suối vàng trời biếc, chẳng còn dây dướng với thế gian này nữa.

Sinh thời phồn hoa, lễ tang long trọng, cũng chẳng liên quan gì tới nàng nữa.

Hoàng Tử Hà giơ tay lên, nhìn vết máu Đồng Xương công chúa trên đó.

Nàng công chúa được cả thiên hạ ngưỡng mộ, lớn lên giữa lầu son gác tía, bọc trong gấm lụa lượt là, ngọc ngà châu báu, nhưng có ai hay, nàng lại chết đi giữa độ xuân xanh, trong một góc tường hoang phế chỉ có dây leo và cỏ dại, ngay khi vừa rời khỏi các thị nữ vỏn vẹn một khắc.

Khi phát hiện Đồng Xương công chúa đã chết, các thị nữ hầu hạ nàng đều sợ đến ngã quỵ xuống đất, khóc lóc thảm thiết, Trụy Ngọc vừa khóc vừa gào lên: “Nhất định là Phan thục phi nhà Nam Tề! Bà ta đã lấy trâm Cửu loan đi, giờ lại dùng nó sát hại công chúa!”

Những kẻ khác không dám lên tiếng, nhưng nhìn vẻ kinh hoàng và khiếp hãi trong mắt họ, Hoàng Tử Hà hiểu, tất cả đều đồng tình với Trụy Ngọc.

Sau khi gây án, hung thủ hốt hoảng chạy đến khúc ngoặt rồi vượt tường nhảy ra ngoài, vết chân xéo lên cỏ dại vẫn rành rành. Tường bao ở đây sát với con phố vừa tắc nghẽn phải giải tán, ngoài đường người đi lại nườm nượp, không ngừng tỏa ra bốn phía, sai dịch tức thì tóm lấy mấy kẻ lảng vảng phía ngoài hỏi han nhưng họ đều nói mình không để ý thấy ai vượt tưởng nhảy ra cả.

Xem ra manh mối chủ yếu trong vụ này, ngoại trừ đối chiếu dấu vết hiện trường, thì chỉ còn cách tra xem, rốt cuộc kẻ nào có thể đánh cắp trâm Cửu loan giữa trùng trùng vòng vây canh gác của phủ công chúa, rồi đến hôm nay lại dùng chính nó đâm chết công chúa.

Kẻ đánh cắp cây trâm ắt có liên quan mật thiết đến hung thủ.

Hoàng Tử Hà đang mải ngẩm nghĩ, không để ý có người đến gần mình.

Chợt một giọng thanh thanh có phần hơi the thé cất lên: “Chim trên cành, cá trong nước, người dưới hoa. Cảnh sắc đẹp thế này, chẳng hay Dương công công còn ngẩn ngơ nghĩ ngợi chuyện gì?”

Thình lình nghe thấy tiếng nói sát bên cạnh, Hoàng Tử Hà giật bắn mình, vội bước lên một bước rồi mới ngoái đầu trông lại.

Là một nam nhân áo tím, tuổi chừng ba mươi, da dẻ trắng đến lạ thường, xong cặp mắt lại đen thẫm, thân hình gày gò dong dỏng cao đứng tựa vào cội hoa phía sau cô.

Nhưng dù đang mỉm cười, dù những đóa hoa trên cây lả tả trút xuống người, thì toàn thân y vẫn toát lên vẻ lạnh lẽo. Ánh mắt y dừng trên mặt Hoàng Tử Hà, khiến cô bất giác rùng mình.

Bỗng chốc, cô nhớ đến gã đàn ông với cặp mắt rắn độc từng nhìn mình chòng chọc ở cung Thái Cực lần trước, bất giác nhìn xuống tay y. Trong chén sứ trắng to bằng cái bát, hai con cá đỏ đang bơi lượn.

Thấy ánh mắt cô dừng ở hai con cá, y cười hỏi: “Dương công công cũng thích cá ư?”

Cá. Hai con cá quẫy mạnh chiếc đuôi xòe như sa mỏng, nghe tõm một tiếng.

Hoàng Tử Hà bỗng định thần lại. Cả triều đình Đại Đường này, chỉ có duy nhất một nội thị được mặc áo tím mà thôi.

Vừa nghĩ tới người này, cô vội quỳ sụp xuống đất: “Dương Sùng Cổ tham kiến Vương công công.”

Người kia nhìn xuống, giơ tay ra ý bảo cô đứng dậy. Nhìn vết máu long lổ trên tay cô, y hỏi: “Nghe nói…Đồng Xương công chúa xảy ra chuyện ư?”

Hoàng Tử Hà thoáng ngần ngừ, rồi gật đầu.

Vẻ mặt y vẫn điềm nhiên, khóe môi chỉ hơi nhếch lên đầy lạnh nhạt: “Nào, ngươi chìa tay ra đây.”

Hoàng Tử Hà chần chừ chìa tay ra trước mặt y.

Người nọ nắm lấy cổ tay cô, ngón tay y chẳng những trắng đến lóa mắt, mà còn mịn màng lành lạnh như ngọc chuốt, ấn mấy ngón tay dính máu của cô vào chén sứ.

Vết máu đã khô lại loang ra trong nước, mấy cục máu nhỏ cũng tróc ra.

Hai con cá tức thì bơi về phía mấy đốm máu nhỏ, tham lam mút mát vết máu trên ngón tay, khiến Hoàng Tử Hà sởn cả gai ốc.

“A Già Thập Niết thích nhất máu người. Nghe nói Quỳ vương cũng nuôi một con, Dương công công nhớ đem bí quyết này mách lại với vương.”

Nghe giọng nói lạnh lẽo của y, cô bất giác rùng mình, rụt phắt tay lại, làm bắn nước lên cánh tay trái đang cầm chén sứ của y, ướt cả tay áo, mặt y cũng dính vài giọt nước.

Y giơ tay phải lên nhẹ nhàng lau nước trên mặt, lặng lẽ nhìn cô.

Lưng Hoàng Tử Hà đầm đìa mồ hôi lạnh, cảm giác kinh hãi như bị rắn độc nhìn chòng chọc lại quặn lên. Cô vội vã hành lễ: “Vương công công thứ tội! E rằng tiểu nhân phải tới phủ công chúa ngay bây giờ.”

“Đi đi.” Y vẫn điềm nhiên, chỉ hơi nhấc tay làm hiệu.

Hoàng Tử Hà lập tức đứng dậy, lùi lại mấy bước rồi quay lưng chạy thẳng.

Phủ công chúa đang náo loạn.

Phát hiện ra đứa con gái mình yêu thương nhất chết ngoài đường, hoàng đế nổi cơn thịnh nộ. Các ngự y chẩn trị là xui xẻo nhất, vì không cứu được công chúa nên cả ba người đều bị lôi xuống phạt trượng, lúc Hoàng Tử Hà đến thì đã chết mất hai.

Hoàng Tử Hà hay tin, bèn đứng cùng Chu Tử Tần thì thào trao đổi.

“Nhưng lúc chúng ta phát hiện thì công chúa đã chết rồi, có là Hoa Đà tái thế cũng không thể cải tử hoàn sinh được…” Chu Tử Tần sợ ra mặt, giọng nói cũng run lên, “Sùng Cổ, giờ làm sao đây? Hoàng thượng cứ trút giận lên người khác thế này, e rằng sẽ có rất nhiều người bị vạ lây!”

Hoàng Tử Hà nhìn vị ngự y bị lôi xềnh xệch ra, cau mày nói nhỏ: “Công tử lo cho mình trước đi, hoàng thượng đích thân giao phó cho chúng ta phụ trách vụ này, kết quả án chưa phá được thì công chúa đã bị giết, công tử nghĩ hoàng thượng có bỏ qua cho chúng ta không?”

Mặt Chu Tử Tần càng tái ngắt, mồ hôi trán túa ra đầm đìa: “Sùng Cổ này, chúng ta phải đi tìm Quỳ vương nhờ cậy thôi…”

“Giờ gia ở đâu? Công tử định đi đâu mà tìm?” Hoàng Tử Hà ngao ngán hỏi.

Sắc mặt Chu Tử Tần lập tức xám ngoét: “Vậy, vậy làm sao đây?”

“Lập công chuộc tội thôi.” Hoàng Tử Hà vừa dứt lời đã thấy một người bên trong sải bước đi ra, gầm lên: “Những kẻ nào trong phủ công chúa theo Đồng Xương ra ngoài? Tất cả phải bồi táng theo công chúa hết! Để bọn chúng xuống dưới đó tiếp tục hầu hạ Đồng Xương!”

Là đương kim hoàng đế, người cha đang cả giận mất khôn.

Cả đám hoạn quan và cung nữ nơm nớp đợi bên ngoài phủ, chợt nghe thấy tiếng quát như sét đánh giữa trời quang, tức thì đều òa khóc nức nở, bọn Thùy Châu vật vã dưới đất, mặt mày tái nhợt.

Chu Tử Tần nghe vậy thì cuống cả lên, liều mạng tâu trình: “Bệ hạ, người hầu kẻ hạ của công chúa đều vô tội! Xin bệ hạ nghĩ lại!”

Ánh mắt hoàng đế dừng ở gã, nhưng dường như cơn giận đã che mờ lý trí, trong chốc lát không hề nhận ra gã: “Ai dám nói nữa, cũng lôi cả xuống!”

“Tâu bệ hạ, nô tài có lời muốn nói, xin bệ hạ châm chước!” Hoàng Tử Hà quỳ sụp xuống hành lễ, đoạn thưa: “Bệ hạ, nếu công chúa có biết, nhất định không muốn bệ hạ nổi cơn thịnh nộ, làm ra những chuyện hối hận về sau như thế, xin bệ hạ giữ gìn long thể, để công chúa dưới suối vàng được yên lòng.”

“Dương Sùng Cổ!” Hoàng đế trừng mắt nhìn cô, gầm lên: “Ta lệnh cho ngươi điều tra mấy vụ nghi án ở phủ công chúa, nhưng đến nay ngươi vẫn chưa có tiến triển gì, làm bê trễ vụ án, đến nỗi Đồng Xương… Đồng Xương… đường đường công chúa Đại Đường, mà lại bị… bị kẻ gian giết hại ngoài phố!”

Nói đến đây hoàng đế cũng nghẹn ngào, gần như nghẹt thở.

Quách thục phi từ bên trong khóc lóc lao ra, vuốt xuôi giúp hoàng đế, nức nở: “Bệ hạ… Bệ hạ… Con gái độc nhất của thần thiếp… chết rồi! Tên hung thủ… hung thủ đó, nhất định phải bị lăng trì tùng xẻo, thiêu xác đổ tro!”

Hoàng Tử Hà lại thưa: “Nô tài nhất định sẽ bắt hung thủ về quy án, nên xin bệ hạ giữ lại tính mạng cho những người này, để nô tài thẩm vấn điều tra cho rõ, sớm ngày phá án, bắt giữ hung thủ!”

Hoàng đế đấm mạnh lên cây cột, nhìn lướt qua đám cung nữ, hoạn quan trước mặt, hằn học nói: “Kẻ hầu người hạ bên cạnh công chúa mà không bảo vệ được chủ nhân chu toàn, tất cả đều đáng chết!”

Hoàng Tử Hà cụp mắt tâu: “Công chúa long dạ thiện lương, có ơn sâu nghĩa nặng với kẻ hầu người hạ, nếu công chúa biết được, ắt không muốn thấy bệ hạ đại khai sát giới vì mình thế này đâu.”

Cả đám hoạn quan và cung nữ phủ công chúa đều quỳ rạp dưới đất, gật đầu như bổ củi, luôn miệng van vỉ.

Máu nóng bốc lên đầu, hoàng đế choáng váng cả người, phải dựa cột nhìn vào bên trong, xong chỉ thấy màn trướng dày che kín giường công chúa.

Trong đó là đứa con đầu lòng của hoàng đế, khi người còn là Vận vương, tương lai mờ mịt, chẳng biết ngày sau sẽ ra sao, bị tất cả mọi người bên cạnh hoài nghi, chỉ riêng đứa con gái này luôn nũng nịu sà vào long, coi người là chỗ dựa duy nhất. Mỗi lần ôm lấy cổ người, ánh mắt nó lại sang rực lên, dẫu Quách thục phi muốn bế, nó cũng không chịu rời ra.

Bốn tuổi con bé mới biết nói, câu đầu tiên là “sống được”, chưa kịp hiểu nó có ý gì thì đội nghi trượng đến đón người đăng cơ đã tới cửa. Từ bấy, người tin chắc rằng đứa con gái này là báu vật trời ban cho mình nên trân quý như châu báu, mà nó cũng hết long tin tưởng, xem phụ vương như tấm bình phong vững chãi nhất.

Vậy mà giờ đây, có kẻ đã cướp đi báu vật người trân quý nhất, chỉ để lại một mình người đau đớn nhìn thi thể lạnh ngắt của con.

Hoàng đế từ từ gỡ tay Quách thục phi ra, căm hận lườm phi.

Quách thục phi thoáng ngây người, nhưng rồi hiểu ra ngay, nhất định ngài ngự đã giận lây sang mình. Nếu phi không phải vì chuyện lật đổ hoàng hậu mà gọi Đồng Xương vào cung, thì công chúa cũng không đến nỗi chết ngay giữa phố.

Nghĩ vậy, Quách thục phi vừa uất ức vừa đau xót, vội quay phắt đi bưng mặt nén tiếng khóc.

“Cái gì mà Phan Ngọc Nhi, Phan thục phi nhà Nam Tề! Hồn ma mấy trăm năm trước, sao có thể lấy mạng công chúa mà trẫm yêu thương nhất được!” Hoàng đế đứng trước điện quát lớn, tuy giọng nói đã hơi khàn, nhưng vẫn bừng bừng sát khí khiến người ta chẳng rét mà run: “Tra đi! Tra rõ rang cho trẫm! Xem kẻ nào giả thần giả quỷ, kẻ nào đặt điều nhiều chuyện, kẻ nào… giết Linh Huy của trẫm!”

Tất cả đều quỳ sụp xuống trước mặt ngài ngự, không dám thở mạnh.

Tiếng quát của hoàng đế văng vẳng trong đại sảnh lặng phắc, càng lộ ra nỗi đau thương.

Ngài ngự thình lình quay phắt lại, trừng mắt nhìn về thi thể Đồng Xương công chúa, lồng ngực phập phồng dữ dội, đau đớn và phẫn hận như một ngọn lửa hữu hình thiêu đốt thân thể người, khiến người chỉ muốn lật tung cả phủ công chúa, giết sạch những kẻ trước mặt chôn chung theo con gái.

Nhìn đăm đăm về phía con gái hồi lâu, lửa giận phừng phừng dần dần cũng nguội, đau xót lại như thủy ngân từ đỉnh đầu trút xuống, lan khắp toàn thân. Khi hơi lạnh nuốt chửng lấy ngọn lửa, cuối cùng hoàng đế cũng hiểu ra rằng, đứa con gái yêu kiều người từng ôm vào lòng đã không còn nữa; tiếng gọi phụ hoàng nũng nịu lẫn trong giọng cười lanh lảnh đã không còn nữa; đôi tay từng níu tay người nhõng nhẽo đã không còn nữa; cặp mắt long lanh luôn kính ngưỡng người, cũng không còn nữa.

“Dương Sùng Cổ, dù có phải lật cả kinh thành này lên…” Hoàng đế chầm chậm giơ tay ngăn dòng nước mắt, nhưng không ngăn nổi cơn run rẩy nghẹn ngào, người nói rất chậm, như thể chỉ cần thả lỏng một khắc thì sẽ khóc òa lên.

“… Ngươi phải cho trẫm một đáp án trước khi đưa tang công chúa. Trẫm muốn… thiêu xác đổ tro hung thủ trước linh cữu Đồng Xương!”

Hoàng Tử Hà lặng lẽ quỳ xuống dập đầu, nghiêm trang đáp: “Vâng.”

“Suýt nữa là mất mạng…”

Vừa rời khỏi đại sảnh đặt di thể công chúa, Chu Tử Tần đã lau mồ hôi lẩm bẩm: “Quỳ vương đi đâu không biết, không có vương gia ở đó, ta sợ quá đi mất…”

Hoàng Tử Hà thấy phò mã Vi Bảo Hoành đang đứng lặng ngoài sảnh, bèn ra hiệu cho Chu Tử Tần nín lặng, đi đến trước mặt phò mã hành lễ.

Vi Bảo Hoành gượng gạo giơ tay ra ý bảo hai người không cần đa lễ, hai mắt hắn ầng ậc nước, tuy ra sức kìm nén, nhưng lệ vẫn lăn dài.

“Đều tại… tại ta cả.” Hắn lẩm bẩm, giọng thiểu não: “Quỳ vương và công công đã dặn dò… dặn ta phải trông nom công chúa… vậy mà khi nàng muốn ra ngoài, ta lại không can ngăn…”

Hoàng Tử Hà buồn bã, cũng chẳng biết nói gì, đành khuyên nhủ: “Xin phò mã bớt đau buồn.”

Vi Bảo Hoành chỉ khẽ gật đầu, nghẹn ngào không thốt nên lời.

Thấy vậy, Hoàng Tử Hà an ủi thêm vài câu rồi cùng Chu Tử Tần cáo từ.

Rời khỏi khu Thập Lục trạch, nơi đặt phủ công chúa, Hoàng Tử Hà ngớ ra, Chu Tử Tần cũng ngớ ra.

Xe ngựa của Lý Thư Bạch đang dừng ngay đó đợi họ. Cạnh xe có một người đang đứng, chính là Trương Hàng Anh.

Hai người ngơ ngác nhìn nhau, Hoàng Tử Hà định thần lại trước, vội gật đầu chào Trương Hàng Anh rồi chạy đến cạnh xe hành lễ: “Tham kiến vương gia.”

Lý Thư Bạch đang ngồi trên xe đọc công văn, chẳng buồn ngẩng lên: “Hạn mấy ngày?”

“Thưa, trước lúc đưa tang.”

“Còn may, hoàng thượng coi như cũng rộng lượng với ngươi rồi đấy.” Y nhướng mắt liếc cô rồi gập công văn lại, “Lúc công chúa qua đời, Lữ Tích Thúy đang ở trong ngục, rõ ràng không có khả năng gây án.”

“Mà ba vụ án mạng này rất có thể là cùng một hung thủ, tham khảo bức tranh kia để ra tay.” Hoàng Tử Hà trầm ngâm nhận xét, “Bởi vậy, khả năng Tích Thúy là hung thủ hai vụ trước không nhiều.”

“Gã Trương Hàng Anh kia,” Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn ra bên ngoài, “Cứ ngồi lì bên ngoài Đại Lý Tự, trông có ra thể thống gì không? Ngươi bảo hắn về nhà yên tâm đợi tin, hoặc là điều quách hắn từ Tả Kim Ngô Vệ sang giúp các ngươi tra án, làm chân chạy vặt cũng được.”

Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng, “Ý gia là… muốn bỏ qua cho Trương Hàng Anh ư?”

Lý Thư Bạch nheo mắt nhìn cô, “Còn hỏi nữa, người cứ lén lút qua lại với hắn, ta trông cũng ngứa cả mắt.”

“Đa tạ vương gia.” Hoàng Tử Hà đuối lý, đành cúi gầm mặt xuống, nhưng rồi lại nhớ ra ngay, “Vậy nô tài dẫn Trương Hàng Anh tới Đại Lý Tự, xem Tích Thúy có cung khai thêm gì không.”

Lý Thư Bạch khẽ gật đầu, ra hiệu cho cô lên xe, rồi bảo Chu Tử Tần qua cửa sổ: “Tử Tần, người cùng Trương Hàng Anh tới Đại Lý Tự trước xem tình hình thế nào, chúng ta sẽ đến đó ngay.”

Nói vậy nhưng xe ngựa lại đi về phía Nam, nhằm hướng phủ Ngạc vương. Hoàng Tử Hà biết ý y, nên chỉ điềm nhiên hỏi: “Gia cũng cảm thấy, đây chính là hình vẽ thứ ba trong bức họa ấy ư?”

“Chết dưới cánh loan phượng… Trâm Cửu loan chính là con chim bổ xuống giết người, đúng không nào?” Y nghiêng đầu nhìn cô, đoạn giở bức tranh kia ra, nhìn qua cả ba hình vẽ.

Bị sét đánh chết cháy, là Ngụy Hỷ Mẫn tại chùa Tiến Phúc.

Chết trong lồng sắt, là Tôn ghẻ giữa căn nhà bít bùng.

Bị chim phượng bổ xuống mổ chết, là Đồng Xương công chúa bị trâm Cửu loan đâm trúng tim.

Lý Thư Bạch ngước nhìn cô: “Ngươi thấy thế nào?”

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Nếu một hai người, còn có thể bảo là trùng hợp. Nhưng trùng hợp đến mức này không tìm Ngạc vương không xong.”

Ngạc vương Lý Nhuận thường ngày chỉ nhàn nhã ở trong phủ, hôm nay Lý Thư Bạch lại sai người đến báo trước, nên khi họ tới nơi, y đã pha sẵn trà ngồi đợi.

Cạnh tay y là một chiếc hộp dẹt.

“Tứ ca, nghe nói Đồng Xương xảy ra chuyện ở phường Bình Khang à?” Ngạc vương đích thân rót trà cho hai người, hơi nóng nghi ngút bốc lên rồi lan ra, khiến phòng trà trở nên mờ ảo.

Lý Thư Bạch gật đầu.

“Bị thương ư?”

Lý Thư Bạch lắc đầu: “Đã quy tiên rồi.”

Lý Nhuận bỗng khựng lại, làm nước tà hơi sánh ra ngoài, xong y chẳng hề để tâm, cứ ngẩn ra nhìn chằm chằm đám bọt xoay tròn trong cốc, giọng nghẹn lại như rặn ra từ cổ họng: “Làm sao… mà mất?”

“Bị cây trâm Cửu loan mình yêu thích nhất đâm chết.”

“Ai đâm?”

Lý Thư Bạch lắc đầu: “Lúc bấy giờ hỗn loạn, không bắt được hung thủ.”

Lý Nhuận đặt ấm trà xuống, thần người ra giây lát rồi khẽ cảm thán: “Đồng Xương là công chúa, sao có thể chết không minh bạch như thế, đúng là không thể tin nổi…”

“Khó tin nhất không phải cái chết của công chúa, mà là…” Lý Thư Bạch ra hiệu cho Hoàng Tử Hà đặt cuộn tranh lên bàn, rồi trải ra cho Ngạc vương xem: “Thất đệ đã thấy bức tranh này bao giờ chưa?”

Lý Nhuận gật đầu: “Đệ từng thấy tại nhà Trương Hàng Anh một lần. Lúc ấy mấy người bọn đệ còn tùy tiện chỉ trỏ bình luận ba hình vẽ trên đó, thực không ngờ… tất cả lại trở thành sự thật.”

“Ừ, ta cũng có nghe nói.” Lý Thư Bạch than thở, “Trước lúc Đồng Xương gặp nạn, ta từng xem qua bức tranh này, xong không chú ý lắm. Nếu lúc ấy nhận ra được manh mối gì đó, có lẽ hôm nay đã chẳng thành chuyện.”

“Thực ra… đệ đã thấy nó không bình thường từ lâu rồi.” Lý Nhuận phân vân nói, “Lần đầu tiên trông thấy, đệ đã cảm thấy chuyện này quá đỗi kỳ dị, sau khi về phủ vắt óc nghĩ mãi mấy hôm không thông, e rằng nay phải thỉnh giáo Tứ ca.”

Đoạn y mở chiếc hộp dẹt bên cạnh ra.

Trong hộp là một mảnh giấy được gấp vuông vắn, nhìn như mẩu giấy bông cũ vẫn dùng để vẽ mẫu thêu, trên có hai ba hình vẽ nguệch ngoạc đen sì bằng chì kẻ mày, trông cũng rối mắt hệt bức họa ở nhà họ Trương.

Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn nhau. Quỳ vương cầm hẳn mẩu giấy lên, vẫy cô lại cùng xem.

Là một mảnh giấy bông to chừng bàn tay, nét vẽ ngả nghiêng xiêu vẹo, rõ ràng người vẽ không biết gì về hội họa. Về cơ bản có thể thấy đường nét hai bức khá tương đồng. Ở hình thứ nhất, phía trên khối mực đen là một nét mảnh; hình thứ hai có bảy đường ngang tám đường dọc bao quanh một khoanh mực chẳng nhìn ra hình thù gì; hình thứ ba là hai mảng đen ngòm dính liền vào nhau, một trên một dưới.

Bức tranh ở nhà họ Trương còn có thể gượng coi là miêu tả cái chết của ba người, còn bức vẽ trên giấy bong này tuy đường nét tổng thể tương tự, nhưng chi tiết thì không thể bằng được, nhìn vào không hiểu là gì, chỉ thấy ba mảng mực.

Lý Thư Bạch ngắm nghía hồi lâu rồi đưa mẩu giấy cho Hoàng Tử Hà, quay sang hỏi Lý Nhuận: “Chẳng hay bức tranh này của Thất đệ từ đâu mà có?”

Lý Nhuận bưng chén trà thở dài: “Không dám giấu Tứ ca, là mẫu phi đệ vẽ.”

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch sững người, không ngờ bức tranh này lại từ mẫu phi Lý Nhuận. Hoàng Tử Hà không biết những chuyện thâm cung bí sử, nhưng Lý Thư Bạch hiểu rõ, mẫu phi Trần Tu Nghi của Lý Nhuận dịu dàng hòa nhã, giỏi lựa ý người, mấy năm tiên hoàng đau ốm, đều do bà ta cận kề chăm sóc.

Đêm tiên hoàng băng hà, bà ta đau lòng đến suy sụp, từ bấy thành ra dở điên dở dại. Được sự đồng thuận của các thái phi, Lý Nhuận đã đón mẫu phi ra khỏi cung, đưa về phủ phụng dưỡng.

“Năm ngoái mẫu phi qua đời. Trước ngày mất mấy hôm, bà như được hồi quang phản chiếu, còn nhận ra đệ. Chắc là trời thương, chứ đệ cứ nghĩ, bà chỉ nhớ hình ảnh đệ lúc nhỏ thôi.” Khóe môi Ngạc vương vẫn thấp thoáng nụ cười như mọi khi, xong mắt đã rân rấn nước, “Nhân lúc tỉnh táo, bà đưa cho đệ bức tranh này. Bấy giờ đệ cũng chẳng để tâm, nhưng sau khi bà qua đời, đệ mới nhận ra, đây là thứ duy nhất bà chính tay giao cho đệ. Bởi thế, tuy cho là bức vẽ nhăng cuội của mẫu phi lúc phát bệnh, nhưng đệ vẫn giữ trong thư phòng. Mãi đến mấy hôm trước, đệ trông thấy bức họa ở nhà Trương Hàng Anh…”

Nói đến đây, y đưa bút nhìn sang ngự bút tiên đế, nghi hoặc hỏi: “Nhưng vì sao phụ hoàng lại để lại bức tranh như vậy, còn mẫu phi đệ, tại sao sau mười năm bệnh tật, còn lén lút vẽ theo, giao tận tay đệ?”

Hoàng Tử Hà cầm tờ giấy bông lên hỏi: “Thứ cho nô tài mạo muội, chẳng hay đưa bức vẽ này cho vương gia, thái phi có căn dặn gì không?”

“Mẫu phi nói…” Lý Nhuận im lặng nhíu mày, đưa mắt ra lệnh cho người hầu lui ra. Đợi tất cả lui hết, y mới đáp khẽ, “Mẫu phi lúc ấy không được tỉnh táo, nói rằng, thiên hạ Đại Đường…”

Thiên hạ Đại Đường sắp mới rồi.

Xong y không nói nốt nửa câu sau, chỉ kể đại khái: “Mẫu phi nói năng lộn xộn, có lẽ muốn bảo thiên hạ náo động, Đại Đường sắp suy vong… Còn dặn rằng bức vẽ này liên quan đến sự tồn vong của Đại Đường, bắt bản vương cất giữ cẩn thận.”

Lý Thư Bạch lấy lại mảnh giấy từ tay Hoàng Tử Hà, nghiêm trang đặt vào tay Ngạc vương: “Đa tạ Thất đệ. Xem ra bức tranh này nhất định là thái phi vẽ phỏng lại di bút của tiên hoàng theo trí nhớ.”

Lý Nhuận nhận lấy bức tranh, ngạc nhiên hỏi: “Bức tranh kia là… di bút tiên hoàng ư?”

Lý Thư Bạch gật đầu: “Ta đã đến nội phủ tra hồ sơ lưu của cung đình, quả nhiên trong ghi chép về lịch trình sinh hoạt của tiên hoàng có ghi rõ, Trương Vĩ Ích, chính là cha Trương Hàng Anh, đã vào cung thăm bệnh cho phụ hoàng ngày mồng mười tháng Tám năm Đại Trung thứ mười ba.”

Lý Nhuận hồi tưởng lại: “Lúc ấy đệ còn nhỏ tuổi, nhưng cũng biết phụ hoàng dùng lầm thuốc, dẫn đến thánh thể bất an từ tháng Năm, đến tháng Bảy thì cả ngày hôn mê. Ngự y bó tay hết cách, mấy hoàng tử bọn đệ bấy giờ vẫn ở trong cung, muốn vào thăm phụ hoàng nhưng toàn bị đám hoạn quan ngăn lại bên ngoài. Các đại danh y trong kinh lần lượt được triệu vào cung, nhưng đều chẳng có cách nào…”

“Trương Vĩ Ích là danh y cuối cùng, vào cung đúng ngày phụ hoàng băng hà. Ta đã sai người đi hỏi ông ta về lần tiến cung ấy, theo ông ta nhớ thì lúc đó ông ta là danh y ở Đoan Thụy Đường, tháng Tám phụng chiếu vào cung chẩn mạch cho phụ hoàng, bấy giờ phụ hoàng đã hôn mê, nhưng sau khi ông ta châm cứu, quả thật người từng tỉnh lại. Có điều cũng như mọi người trong cung, ông ta biết đây chỉ là hiện tượng hồi quang phản chiếu, triệu ông ta vào cung trị bệnh, chẳng qua chỉ mong phụ hoàng tỉnh lại chốc lát, sắp xếp nốt việc lớn trước khi băng hà thôi.”

Hoàng Tử Hà hỏi khẽ: “Khó khăn lắm mới tỉnh táo được một lúc, sao tiên hoàng còn vẽ tranh ban cho Trương Vĩ Ích?”

Lý Thư Bạch và Lý Nhuận cũng thắc mắc điểm này. Bấy giờ tiên hoàng đã hấp hối, đáng ra phải lo an bài việc lớn của triều đình sau khi mình qua đời, chứ đâu phải vẽ tranh ban cho một thầy thuốc dân gian.

“Thế nên người ta mới không hiểu nổi. Ngay chính Trương Vĩ Ích cũng chẳng hiểu gì cả. Sau khi tiên hoàng tỉnh lại, ông ta phải lui xuống ngay, một thầy thuốc dân gian sao có thể ngồi nghe việc lớn trong cung được?” Lý Thư Bạch nhíu mày, “Hồ sơ trong cung cũng ghi như thế. Tiên hoàng tỉnh lại, Trương Vĩ Ích lui ra. Chưa ra đến cửa cung, có người đuổi theo nói hoàng thượng cảm tạ tay nghề của Trương đại phu, ban cho một bức ngự bút. Ông ta mừng quá, vội hướng về phía điện Tử Thần dập đầu bái tạ, rồi nhận lấy cuộn tranh, vừa đi vừa giở ra xem, tức thì sững sờ không nói lên lời.”

Theo lời kể khe khẽ của hai người kia, ánh mắt Hoàng Tử Hà dừng ở bức tranh nọ. Thật không ngờ bản vẽ nguệch ngoạc này, hóa ra lại là di bút của tiên hoàng từ mười năm trước. Chắc hẳn lần đầu tiên trông thấy nó, Trương Vĩ Ích cũng không sao tin nổi.

Vậy mà mười năm sau, lại có ba vụ án mô phỏng theo hình vẽ trên đó, quả là không thể tưởng tượng, rất khó truy tra.
Bình Luận (0)
Comment