Tô Sầm mơ màng không biết hôn mê bao lâu, cậu chỉ nhớ cuối cùng có một sợi dây thừng tuột xuống từ trên vách đá, cậu vận hết chút sức cuối cùng buộc nó lên hông, rồi vừa mê man vừa suy nghĩ, Lý Thích tìm người ở đâu ra mà nhỏ quá vậy?
Đến khi tỉnh lại thì đã là nửa đêm, tiếng nước tí tách vang bên tai, nghe vẻ vẫn chưa tạnh mưa, nhưng người cậu đã khô rồi. Cách đó không xa có ánh lửa bập bùng, còn có tiếng người nói chuyện, song hình như cậu lại không suy nghĩ được gì, nghe được lời những người kia nói lại không hiểu được ý nào hoàn chỉnh.
Một ông cụ rề rà lại gần Tô Sầm, thấy vẻ mặt đờ đẫn mất hồn của cậu, bèn nói với đứa bé đang dìu mình: “Thằng Hổ, bưng nước lại đây.”
Uống hết một cốc nước, Tô Sầm mới bình tĩnh lại, cậu hơi nghiêng đầu nhìn xung quanh, hình như đây là một hang động, trong hang có mấy chục người chen chúc, nấp sau đống lửa, cẩn thận quan sát cậu.
Chỉ có ông cụ ban đầu là vẫn đứng cạnh cậu, trông vẻ chắc hẳn là người đứng đầu trong đám người này, Tô Sầm bèn hắng giọng, thử nói chuyện với ông cụ.
“Là mọi người cứu tôi sao?”
Ông cụ ngồi xuống mỏm đá bên cạnh, lấy một điếu thuốc bên hông ra gõ lên vách đá, đổ hết lá thuốc cũ ra rồi cho lá mới vào, đoạn bảo thằng bé bên cạnh mang ra đống lửa châm thuốc, ông cụ nói: “Thằng Hổ với con Hai tìm thấy anh.”
Lúc này thì Hổ Tử cũng châm thuốc xong quay lại, đưa cho ông cụ rồi làm mặt xấu với Tô Sầm.
Tô Sầm gắng gượng mỉm cười, nói: “Đa tạ.”
Có lẽ Hổ Tử chưa được ai cảm ơn nghiêm túc vậy bao giờ, nó đỏ mặt, chui tọt ra sau lưng ông cụ.
Ông cụ hỏi tiếp: “Anh là ai? Sao lại ngã xuống đó?”
Tô Sầm nhọc nhằn ngồi tựa vào vách đá, ho mấy tiếng, lồ ng ngực đau âm ỉ, cậu đáp: “Tôi họ Lý, tên một chữ Húc, là lái buôn trà ở Tô Châu, vốn là đang trên đường vận chuyển trà đến Thanh Châu, không ngờ gặp phải đá lở nên rơi từ trên đường núi xuống.”
Không phải cậu cố ý che giấu thân phận, chẳng qua trông những người này đều là người nông thôn, có khi chưa từng thấy quan bao giờ, Tô Sầm sợ mình nói thẳng thân phận lại khiến họ câu nệ, không bằng tự hạ mình xuống cho dễ hòa nhập cùng.
Có lẽ phải nghỉ ngơi mấy ngày nữa cậu mới đi lại được, vẫn phải nhờ những người này chăm sóc.
Tô Sầm hỏi ông cụ: “Xin hỏi nên gọi ông là gì?”
Ông cụ rít một hơi, vừa nói vừa nhả khói: “Tôi họ Tào, gọi chú hai Tào là được.”
Tô Sầm sửng sốt: “Mọi người là người thôn Tào?”
“Anh từng nghe đến thôn chúng tôi à?” Chú hai Tào gượng một nụ cười khó coi, rồi lại rít thêm một hơi thuốc, thở dài: “Tiếc là không còn thôn Tào nữa rồi.”
Tô Sầm vẫn nhớ thôn làng bị nước ngập chỉ còn mái nhà dưới chân núi lúc trước, cậu không chia sẻ được nỗi đau mất nhà, chỉ có thể an ủi: “Thiên tai vô tình, xin đừng quá đau buồn.”
“Nào phải thiên tai gì, rõ là do người mà!” Một người ngồi sau đống lửa nói.
Tô Sầm nhìn sang thì thấy mấy người kia đã khôi phục vẻ cảnh giác, hung dữ trợn mắt nhìn cậu, cứ như cậu là kẻ đầu sỏ phá hủy thôn họ vậy.
Tô Sầm nhíu mày, nhìn chú hai Tào: “Sao lại nói vậy?”
Chú hai Tào bực tức lườm một người trong đám người kia, đoạn quay sang bảo Tô Sầm: “Anh là người xứ khác, nói anh nghe cũng chả sao. Lũ tràn vỡ đê lần này có nguyên nhân là do thiên tai, nhưng phần lớn lại là vì có người ngang ngược thay đổi hướng sông làm dòng chảy bị cắt đứt, mới nên cớ sự này.”
“Có chuyện như vậy nữa sao?!” Tô Sầm không ngờ phía sau thiên tai lần này lại ẩn giấu nhiều vấn đề như vậy, cậu vừa ngồi thẳng dậy lồ ng ngực đã nhói lên, lại ho sù sụ.
Chú hai Tào nhìn ra màn mưa thưa thớt ngoài hang động, thở dài: “Đầu thôn chúng tôi có dòng sông Nam Thanh, là một nhánh sông Hoài ở thượng du Từ Châu. Vốn dĩ sông Nam Thanh nước chảy vào Hoài, đi qua Từ Châu rồi ra biển, không có vấn đề gì, nhưng lại có kẻ cho rằng nước sông Nam Thanh tăng thêm gánh nặng cho đê đập Từ Châu, cố tình thay đổi hướng chảy của sông Nam Thanh. Trước đây có một đường chảy khác khiến sông Nam Thanh không cần chảy vào sông Hoài, nhưng đường sông đó đã bỏ hoang lâu năm, hạ du tắc nghẽn từ lâu. Từ hơn nửa tháng nước bắt đầu mưa gió liên miên, nhiều nước như vậy mà hạ du lại tắc nghẽn, không vỡ đê thì vỡ cái gì?!”
Chú hai Tào nói đến đây bỗng sặc khói, ho sặc sụa mấy hồi, khóe mắt cũng đỏ bừng lên.
Tô Sầm cảm giác tim mình như bị bóp chặt, nghẹn tức, cậu trầm giọng hỏi: “Người thay đổi dòng chảy của sông là ai?”
“Còn ai được nữa, Thứ sử Từ Châu đấy!” Một âm thanh khác sau đống lửa vang lên. Đến lúc này những thôn dân kia cũng không mặc kệ được nữa, họ nghiến răng nghiến lợi mắng Thứ sử Từ Châu té tát, giữa chừng còn có người nhổ nước bọt, hận không thể quật mộ mười tám đời tổ tiên nhà Thứ sử Từ Châu lên đánh.
Tô Sầm có chút ấn tượng về Thứ sử Từ Châu này, cậu nhớ hình như hắn tên Lương Phương, là tiến sĩ thời Vĩnh Long. Sở dĩ cậu nhớ được hắn là vì người này từng vào tù vì đắc tội quan lớn mà không chịu khuất phục, từng chịu khổ không ít, sau này được lật án mới vang danh khắp chốn, được điều đến Từ Châu làm Thứ sử.
Một người từng không sợ cường quyền như vậy, nay lại bỏ mặc sống chết của con dân, ngang ngược thay đổi dòng chảy khiến những người này không có nhà về, nay đây mai đó, đúng là khiến người ta phải thổn thức.
Tô Sầm nhìn từng gương mặt hận chỉ muốn xẻ thịt lột da dưới ánh lửa kia, bỗng giật mình: “Vậy nên… mọi người định… tạo phản?”
Tiếng kêu vang lên liên tiếp.
“Chúng tôi chỉ đến thành Từ Châu đòi công bằng thôi!”
“Phải, bắt tên quan chó má kia trả lại công bằng!”
“Nếu hắn dám ngó lơ, chúng tôi sẽ lên kinh thành tố cáo, đến tận chỗ Hoàng đế!”
Tô Sầm cười khổ nhìn mọi người: “Chẳng lẽ bà con vẫn chưa biết, thành Từ Châu đã lụt rồi.”
Thôn dân thôn Tào sững tại chỗ.
Chú hai Tào khó tin nhìn Tô Sầm: “Cậu nói gì? Thành Từ Châu… lụt rồi?”
“Sau khi sông Nam Thanh vỡ đê, nước lũ tích tụ nhiều ngày cùng tràn vào sông Hoàng, đê đập không đỡ được nên mới lụt.”
Nhân quả tuần hoàn, tất có báo ứng, nếu ban đầu không ngang ngược đổi hướng chảy của sông Nam Thanh, nói không chừng sẽ không đến nông nỗi hôm nay.
Biểu cảm của những người kia từ phẫn nộ biến thành ngơ ngác, Tô Sầm hiểu cảm giác niềm tin chống đỡ mình đột nhiên sụp đổ này, nhà không còn, cả nơi để kêu oan cũng không có, họ nên làm gì nữa đây? Họ còn có thể làm gì nữa? Nơi nào còn chỗ cho họ dung thân?
Có người đã bắt đầu khóc rất khẽ.
Chú hai Tào im lặng nhìn ra màn mưa, hút thuốc, chẳng ừ hử gì nữa.
…
Thành Từ Châu.
Lý Thích dẫn theo Kỳ Lâm tuần tra tình hình bố trí nạn dân xong, vừa về hành cung thì nhận được thông báo, có một người tự xưng là Khúc Linh Nhi đòi gặp Vương gia bằng được.
Lý Thích giật mình: “Dẫn y vào.”
Khi dẫn tới chỉ có một mình Khúc Linh Nhi, trông y tiều tụy, vầng trán sưng phồng, đôi mắt hoa đào sưng húp vì khóc, vừa thấy Kỳ Lâm và Lý thích, nước mắt vừa ngưng lại chực trào ra, thoắt cái đã tuôn hai hàng lệ.
Lý Thích nhíu mày, quát: “Nói.”
Khúc Linh Nhi khóc thút thít, vừa khóc vừa nói đứt quãng: “Tô ca ca… mất rồi…”
Lý Thích đứng đực tại chỗ, không nói không rằng, đôi mắt như đầm nước lạnh nổi sương, âm u tịch mịch đến đáng sợ.
Xung quanh yên tĩnh đến tột cùng, như thể cả tiếng gió thổi bọ kêu cũng không còn nữa. Khúc Linh Nhi dần nín lại giữa bầu không khí kỳ lạ này, y cẩn thận nhìn Lý Thích, đợi người nọ chất vấn hoặc tức giận. Thế nhưng chẳng có gì hết, một câu “sao lại mất” cũng không.
Ngoài cửa có người đến báo, các thân sĩ thành Từ Châu xin gặp Vương gia.
Lý Thích gật đầu, không quay đầu lại mà cất bước.
Khúc Linh Nhi chợt không cam lòng thay Tô Sầm, lặn lội ngàn dặm không ngơi nghỉ để đến đây, bỏ mạng giữa đường, vậy mà người này lại không thèm hỏi thăm lấy một câu!
Khúc Linh Nhi quay đầu, hét với bóng lưng Lý Thích: “Tô ca ca chết rồi!”
Người nọ còn chẳng buồn dừng lại, vạt áo khuất dần sau góc rẽ đại điện, phủi sạch hoàn toàn chuyện không liên quan đến mình.
Khúc Linh Nhi tức run người, Tô ca ca của cậu, Tô ca ca tốt nhất của cậu, vì người người… không đáng!
Đến khi thân thể run rẩy được bao bọc trong vòng ôm ấm áp, tan chảy mọi kiên cường, phẫn nộ, ấm ức của y, Khúc Linh Nhi mới từ từ ngừng run mà gào lên khóc.
Y chạy đến đây như phát điên, chỉ sợ mình dừng lại là sẽ nghĩ lung tung, đến lúc này y cũng sức cùng lực kiệt, không gắng gượng được nữa.
“Tô ca ca mất rồi… huynh ấy chết rồi, huynh ấy chết vì cứu tôi…” Khúc Linh Nhi hoảng loạn gào khóc: “Tôi không còn nhà nữa, Tô ca ca không về nữa rồi…”
Kỳ Lâm siết chặt người trong lòng, mặc cho nước mắt nước mũi của y thấm ướt vạt áo mình. Hắn hôn lên bên trán sưng phù, thầm cảm thấy may mắn vì y vẫn còn sống, may mà y không sao hết.
…
Vỗ về Khúc Linh Nhi xong, thấy người nọ thiếp đi trong cơn nấc, Kỳ Lâm mới ra ngoài tìm Lý Thích.
Hắn biết Vương gia không dễ biểu lộ cảm xúc, nhưng bình tĩnh như hôm nay thì lại hơi lạ thường, bỗng chốc hắn không dám chắc “đạo hạnh” của Vương gia sâu hơn rồi, hay thật sự nghĩ rằng chết rồi không thể sống lại, nghĩ nhiều vô ích.
Khi hắn đến, Lý Thích đang trò chuyện vui vẻ với các thân sĩ dưới ánh đèn dầu.
Các thân sĩ cố ý viết một đôi câu đối ca ngợi công đức của Ninh Vương, cảm tạ Ninh Vương cứu dân chúng Từ Châu giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng.
Vế trước là: Choàng can đảm, cứu sinh linh, hào quang chiếu nhật nguyệt.
Vế sau rằng: Cứu nghiệp nước, trợ xã tắc, công đức ghi ngàn đời.
Lý Thích mừng rỡ, thậm chí còn không tiếc mực quý tự viết hoành phi ban tặng, bốn chữ lớn uyển chuyển mà đanh thép, nét bút như giao long, nét nào nét ấy hoàn hảo:
Vui buồn cùng hưởng.
Hay cho một cảnh đẹp vui hưởng cùng dân.
Kỳ Lâm lại cảm thấy bất an, hắn không bình thường, cực kỳ không bình thường. Tuy Vương gia ít thể hiện cảm xúc nhưng tuyệt không phải người vui chơi qua đường, dù hắn có coi nhẹ sống chết của Tô Sầm cũng không có chuyện bỏ ra sau đầu nhanh vậy được.
Mấy thân sĩ này cảm ơn Lý Thích hết lời, nửa canh giờ mới rời đi, ý cười trong mắt Lý Thích lụi tắt, lạnh lẽo thấu xương.
Kỳ Lâm bước lên: “Vương gia…”
Lý Thích đứng dậy: “Ra kiểm tra lều nạn dân ngoài hành cung lần nữa, đêm xuống sương dày, đừng để có chuyện gì.”
“Vương gia.” Hiếm có khi Kỳ Lâm không nghe lời: “Ngài nghỉ ngơi trước đã.”
Lý Thích lau tay, từ từ bước ra từ sau bàn, vừa đi được hai bước hắn đã khựng lại, khạc ra một búng máu đen.