Sau mùa đông lạnh giá, xuân đến, đầu kỳ học mới, các sinh viên thạc sĩ năm hai đều tất bật với thực tập tốt nghiệp và tuyển dụng, bận rộn cho tương lai trong không khí xuân mới.
Trần Tịch vừa học vừa viết luận văn, vừa tìm kiếm cơ hội thực tập trên mạng. Giáo sư hướng dẫn của cô được điều động tạm thời đến một bệnh viện ở Bắc Kinh để trao đổi chuyên môn, hỏi cô có ý định thực tập ở Bắc Kinh không.
Trần Tịch gật đầu nói có.
Sau đó, cô nhận được thư mời từ vài bệnh viện ở Bắc Kinh, cuối cùng chọn bệnh viện nơi giáo sư đang công tác.
Trên tàu cao tốc đến Bắc Kinh, Trần Tịch lướt Weibo, bất ngờ thấy bài đăng của Giang Vũ Nhu với ảnh cưới nền đỏ áo trắng và một đoạn tâm sự.
“Ngày X tháng X năm 20XX, cuối cùng tôi và bảo bối của tôi đã kết hôn!
Hãy để tôi kể về ấn tượng của tôi về anh ấy.
Trước khi gặp anh, tôi luôn nghĩ mình đủ lạc quan. Nhưng lúc đó, tôi chưa nhận ra, khi đối mặt với khó khăn, thực ra tâm trạng mình rất bi quan và mong manh.
Sau khi gặp anh, tôi mới biết thế nào là người thực sự lạc quan. Dù chịu nhiều bất hạnh từ số phận, anh vẫn giữ được tâm thái tích cực, rạng rỡ và đối xử dịu dàng, tử tế với mọi người.
Điều này thật khó làm được, nên tôi rất khâm phục anh.
Nhưng trong quá trình ở bên anh, một số nét tính cách của anh lại rất trái ngược, khiến tôi vô cùng bất ngờ.
Tôi không ngờ một người vui vẻ rạng rỡ như anh, lại không đủ tin tưởng vào việc mình có thể được ai đó kiên định thích. Anh nói, người hôm nay thích anh, ngày mai có thể không thích nữa.
Vì vậy, mỗi sáng thức dậy, câu đầu tiên tôi nói với anh là, Lâm Kinh Dã, hôm nay em cũng rất thích anh.
Tôi muốn làm người mãi mãi thích anh.
Bố mẹ bảo, dù chúng tôi có gia đình nhỏ, nhưng phải thường xuyên đưa anh về nhà, nhà bốn người sẽ náo nhiệt hơn.
Bố tôi rất thích trò chuyện với anh, nói về triết học Đông Tây, về đọc thơ viết thơ, về những đạo lý lớn trong đời… nổi hứng lên là muốn kéo anh uống vài ly. Tôi đã nói bao nhiêu lần anh không uống được rượu, bố tôi vẫn cứ quên.
Tôi học đại học mới quen anh nên không ít lần tự hỏi, anh lúc nhỏ trông thế nào, anh thời cấp 3 ra sao.
Anh tự luyến bảo từ nhỏ đến lớn luôn là trai đẹp của trường, tôi hỏi, vậy có phải luôn có con gái thích anh không.
Anh bảo đúng, nhưng lại nói, chỉ sau khi gặp tôi, anh mới cảm nhận được mình có thể được thích mãnh liệt.
Cũng sau khi gặp tôi, anh mới bắt đầu muốn hiểu tình yêu, thử yêu một người.
Tóm lại, cảm ơn lời chúc của mọi người. Chúng tôi sẽ mãi bên nhau, mãi mãi.”
Trần Tịch lặng lẽ đọc xong đoạn tâm sự, tắt màn hình điện thoại, nghiêng đầu nhìn cảnh vật mờ nhòe lướt qua ngoài cửa sổ.
Mắt cô nhòa nước, cô kìm cơn đau xót trong mũi, bất chợt nhớ năm nhất thạc sĩ, khi kể với Trình Tư Nhuế rằng Giang Vũ Nhu là cô gái can đảm và nồng nhiệt, cô ấy thích Lâm Kinh Dã nhiều thế nào và thẳng thắn bày tỏ tình yêu với anh bao lần.
Trình Tư Nhuế im lặng rất lâu, rồi nói: “Tiểu Tịch, tớ nói một câu. Có lẽ câu này với cậu hơi tàn nhẫn, mong cậu đừng để tâm.”
“Giang Vũ Nhu là cô gái lớn lên trong môi trường đầy yêu thương, cô ấy quen thuộc và kiên định với việc ‘yêu và được yêu’, đầy tin tưởng. Đó là điểm khác biệt giữa cậu và cô ấy. Điều khó vượt qua nhất với cậu lại chính là điều dễ dàng nhất với cô ấy.”
Trần Tịch biết Trình Tư Nhuế nói đúng. Sự lỡ làng giữa cô và Lâm Kinh Dã là kết cục tất yếu, vì cô khó mà can đảm.
Đã không làm được, phải chịu hậu quả.
Nhưng Trần Tịch tự ti và nhút nhát, trong những đêm trằn trọc nhớ cậu vẫn không ngừng tưởng tượng, nếu bao năm qua cô dám can đảm hơn.
Nếu cô can đảm hơn, kết cục giữa họ sẽ thế nào?
Liệu có chút khác biệt không?
Tiếc rằng, giờ đây cô chẳng thể nào biết đáp án cho câu hỏi ấy.
Cuộc sống thực tập của Trần Tịch ở bệnh viện đơn giản mà bận rộn. Thỉnh thoảng cô theo giáo sư đi khám ngoại trú, phần lớn thời gian ở văn phòng khoa nội trú, làm các công việc thường nhật như ghi chép hồ sơ bệnh nhân. Cuộc sống cô xoay quanh hai điểm: sáng sớm đi làm, tối về thức khuya đọc tài liệu, viết luận văn tốt nghiệp.
Cuối tháng Ba, một cô gái trông còn trẻ đến văn phòng cô làm thủ tục nhập viện. Trần Tịch không thấy bố mẹ cô gái, người hỗ trợ là một y tá từ khoa khác, tự xưng là hàng xóm của cô bé.
Cô gái mười lăm tuổi, tên Hứa Hạc Thu. Trần Tịch mở sổ bệnh án, cẩn thận hỏi thông tin cá nhân, triệu chứng chính, tiền sử bệnh, dị ứng và các chi tiết cơ bản. Trong lúc cúi đầu ghi chép, cô thoáng thấy ánh mắt e dè của cô bé khi nhìn xung quanh và cơ thể khẽ run khi y tá đeo vòng tay bệnh viện.
“Đừng sợ.”
Trần Tịch dừng bút, ngẩng lên mỉm cười với cô bé.
Hứa Hạc Thu ngẩn ngơ gật đầu.
Hứa Hạc Thu được sắp xếp vào phòng đôi, cùng phòng là một cô gái trạc tuổi tên Chung Khả Nhân.
Khác với Hứa Hạc Thu lẻ loi, Chung Khả Nhân có bố mẹ bên cạnh. Họ thuê một giường kèm, ban ngày cùng ở trong phòng bệnh, tối thay phiên ngủ trên giường kèm. Mẹ Chung Khả Nhân dịu dàng xinh đẹp, cùng con xem video, đuổi theo phim, vừa xem vừa đút trái cây cắt sẵn, thỉnh thoảng chia sẻ trái cây cho Hứa Hạc Thu. Chung Khả Nhân không ăn cơm bệnh viện, vì mẹ cô bé tự làm bữa ăn dinh dưỡng. Một hôm cô bé thèm đồ ăn ngoài, mẹ không cho, nhưng bố trong đêm trực một mình đã lén gọi nhiều món giao tận nơi cho con.
Một buổi sáng, khi Trần Tịch đi kiểm tra phòng bệnh, cô thấy mẹ Chung Khả Nhân ngồi nghiêng trên giường, đeo một lá bùa bình an màu đỏ lên cổ con gái.
“Cái này là mẹ nhờ đồng nghiệp đến chùa trên núi ngoại ô cầu về, rất linh, rất linh, chắc chắn sẽ phù hộ con gái mẹ bình an vô sự, ngày mai phẫu thuật thuận lợi.”
“Thật hay giả? Con không tin mấy thứ này.”
Chung Khả Nhân nhăn mặt chê, nhưng vẫn cong môi, cầm lá bùa v**t v* cẩn thận.
Ánh mắt Trần Tịch lướt qua Hứa Hạc Thu bên cạnh, thấy cô bé ngẩn ngơ nhìn cảnh đó, không biết nghĩ gì.
Chẳng mấy chốc, gia đình ba người Chung Khả Nhân rời phòng đi kiểm tra trước phẫu thuật. Mắt Hứa Hạc Thu đỏ hoe, nhận ra Trần Tịch còn đứng trước mặt, vội quay đi.
“Ăn kẹo không?”
Trần Tịch nói, lấy từ túi áo blouse một viên kẹo Alps đưa cho cô bé.
Hứa Hạc Thu hơi ngẩn ra, nhận kẹo, nói: “Cảm ơn chị Trần Tịch.”
“Lúc trong lòng khó chịu, ngậm kẹo sẽ thấy dễ chịu hơn.”
Trần Tịch cười nói: “Đây là điều một… đàn anh của chị, từng nói với chị, em thử xem nhé.”
Cô bé cúi đầu, xé giấy kẹo, ngậm vào miệng, nở nụ cười hiếm hoi.
Cô bé bất ngờ hỏi: “Chị, em có thể đổi phòng bệnh không?”
“Sao muốn đổi phòng?”
“Vì em ở đây… không vui lắm.”
“Bố mẹ em ly hôn từ lâu, giờ họ có gia đình mới, chẳng ai quan tâm em. Mai em cũng phẫu thuật, nhưng em không được mẹ tặng lá bùa bình an.”
“Chị, thật ra em chỉ…”
Cô bé nói, ngửa đầu hít mũi: “...hơi ghen tị với bạn ấy.”
Trần Tịch im lặng một lúc, nói với cô bé: “Em đợi chị chút.”
Cô quay ra khỏi phòng bệnh, lục trong ngăn kéo bàn làm việc lấy một tờ giấy đỏ và bút dạ đen, làm một lá bùa bình an đơn giản rồi quay lại phòng, đưa cho Hứa Hạc Thu.
“Đây, chị làm cho em.”
Hứa Hạc Thu ngẩn ngơ nhận lá bùa, mắt lấp lánh vui mừng, tò mò nhìn ngắm kỹ lưỡng.
“Dù lá bùa chị làm hơi thô, nhưng chị học từ một đại sư. Lá bùa này rất linh, rất linh, chắc chắn sẽ phù hộ bạn Tiểu Thu phẫu thuật thuận lợi, bình an.”
Hứa Hạc Thu phấn khích hỏi: “Chị, chị học từ đại sư nào vậy?”
Trần Tịch khựng lại, ánh mắt nhẹ nhàng nhìn xa xăm: “Một đại sư rất giỏi.”
Hứa Hạc Thu nói: “Cảm ơn chị, chị Trần Tịch.”
Trần Tịch cười đáp: “Không có gì.”
Hứa Hạc Thu bất ngờ chớp mắt hỏi: “Chị, chị có bạn trai chưa? Hay đã kết hôn rồi?”
Trần Tịch ngẩn ra, lắc đầu cười: “Chưa, chị còn độc thân.”
Cô hỏi: “Sao tự nhiên hỏi vậy?”
“Không có gì… Em chỉ thấy chị thật sự rất xinh, lại tốt bụng, dịu dàng, đúng là nữ thần của em! Em nghĩ, không biết chàng trai thế nào mới xứng với chị bác sĩ tuyệt vời như chị.”
Trần Tịch cười, má hơi ửng hồng.
Hứa Hạc Thu hỏi tiếp: “Chị, chị có người mình thích không?”
Trần Tịch ngẩn ra, im lặng.
Thấy cô không đáp, Hứa Hạc Thu dò hỏi: “Hoặc là… trước đây từng có không?”
Trần Tịch gật đầu.
“Anh ấy đẹp trai không? Là người thế nào?”
“Khá đẹp trai.”
Trần Tịch nghĩ ngợi: “Cậu ấy là người rất tốt.”
“Anh ấy có biết chị thích anh ấy không?”
Trần Tịch trả lời: “Không biết.”
Hứa Hạc Thu lo lắng: “Sao chị không nói với anh ấy?”
“Trước đây không dám.”
“Giờ cậu ấy đã kết hôn rồi.”
Trần Tịch cười nhạt: “Chị còn nói thế nào được?”
“Nhưng chị… nhưng chị còn chưa kịp nói lời tạm biệt tử tế với anh ấy.”
Hứa Hạc Thu cau mày.
“Không tạm biệt nữa.”
Trần Tịch nhìn ra cửa sổ, ánh mắt dịu dàng, bình thản rơi trên những tán lá xanh xào xạc trong gió.
Cô nói: “Không tạm biệt nữa, chúc cậu ấy bình an.”
Tối tan làm, Trần Tịch ngồi trên xe buýt, lặng lẽ nhìn cảnh phố lùi mờ ngoài cửa sổ, bất chợt nhớ câu hỏi Hứa Hạc Thu sáng nay.
Cô bé hỏi: “Chị, anh trai chị thích, anh ấy là người thế nào?”
Xe buýt chạy qua Tây Tam Hoàn, vô tình đi ngang cổng trường Đại học R. Trong lúc đợi đèn đỏ, Trần Tịch nhìn ra cửa sổ, thấy dưới ánh hoàng hôn cam rực, đàn bồ câu trắng tinh khôi đang bay lượn trên trung tâm thương mại đối diện.
Van ký ức mở ra trước cảnh ấy, trong đầu cô bất chợt hiện lên hình ảnh một chàng trai từ rất lâu trước.
Cô nghĩ, nếu trả lời chi tiết cho Hứa Hạc Thu, có lẽ cô sẽ nói thế này…
“Cậu ấy rất đẹp trai, da trắng, cao, hay mặc quần áo màu sắc rực rỡ.”
“Thành tích học tập của cậu ấy rất tốt, sau đại học được tuyển thẳng tiến sĩ, học ngành Triết học cậu ấy yêu thích. Sở thích lớn nhất là đọc và viết thơ.”
“Cậu ấy rất trưởng thành, nhìn vấn đề thấu đáo, giỏi dùng những triết lý tự ngẫm để động viên và khai sáng người khác.”
“Cậu ấy có vẻ ngỗ ngược, khó gần, nhưng thực ra rất tốt bụng, dịu dàng. Sức khỏe không tốt, nhưng trong cậu ấy toát lên sức sống mạnh mẽ, lạc quan, yêu đời, có lòng yêu thương, thích chăm cây, đối tốt với mọi động vật nhỏ.”
“Cậu ấy có một cô gái rất yêu thương mình, là bạn đại học. Cô ấy tuyệt vời, xinh đẹp, ấm áp, đáng yêu, dám thẳng thắn bày tỏ tình yêu và rất yêu cậu ấy.”