Ảnh Đế Thành Song

Chương 10

Tiểu Hách lập tức phản ứng trước lời nói của Lục Dĩ Quyến: “Cậu đóng phim thì đóng đi… Cướp miếng cơm của tôi làm gì!”

Cậu là trợ lý mới vào nghề, mới đang tập tành quen thuộc với các thói quen của Dung Đình, vừa nãy đặt nhầm đồ ăn bị Dung Đình ghét bỏ đã khiến cậu rất khẩn trương, lúc này bị Lục Dĩ Quyến nói như vậy khiến Tiểu Hách càng trở nên thấp thỏm.

Tiểu Hách và Lục Dĩ Quyến bằng tuổi nhau, bởi vậy mà hai người có rất nhiều tiếng nói chung. Dù cho mới gặp nhau không đến vài ngày nhưng hai người đã nhanh chóng quen nhau, thầm trêu chọc nhau rất nhiều, cũng sớm theo dõi weibo, trao đổi wechat.

Giờ phút này, Lục Dĩ Quyến trợn trắng mắt, khác hẳn với sự cẩn thận khi đối mặt với Tạ Sâm, Dung Đình, vui vẻ trạc vào chỗ đau của Tiểu Hách: “Bát cơm cậu cậu bưng không được, trách tôi làm gì?”

Tiểu Hách tức giận nghiến răng, không chút do dự cãi lại: “Cậu chê tôi không bưng được bát cơm của mình, tôi còn chưa chê cậu vua NG đâu.”

Nào ngờ, Tiểu Hách vừa nói ra khỏi miệng, mặt Dung Đình liền trầm xuống.

“Tiểu Hách.” Anh liếc nhìn về phía trợ lý, không biết là tức thật hay chỉ vì ngại với Lục Dĩ Quyến ở đây, “Nói vớ va vớ vẩn.”

Dung Đình vừa mở miệng, Lục Dĩ Quyến và Tiểu Hách đều im miệng.

Vẻ mặt Tiểu Hách có chút bất an, Lục Dĩ Quyến thì giống như ngồi trên đống lửa, không khí xấu hổ bao trùm lấy cả ba người, cuối cùng, Lục Dĩ Quyến mở miệng trước: “Tiền bối, em và Tiểu Hách nói đùa thôi… Với cả, chuyện NG… Cậu ấy cũng không nói sai.”

“Tôi biết.” Ngữ khí của Dung Đình vẫn thản nhiên, chỉ là, ánh mắt của anh dừng lại trên mặt Lục Dĩ Quyến lại thêm vài phần sắc nhọn: “Bởi vì chuyện NG mà cậu không muốn làm diễn viên?”

Bị Dung Đình nhìn chằm chằm, Lục Dĩ Quyến bỗng nhiên thấy thật khẩn trương, cậu hít sâu một hơi, cố gắng nở nụ cười tự nhiên nhất có thể: “Không đâu, tiền bối đừng hiểu lầm, vừa nãy em nói như vậy chỉ là nhớ tới một phỏng vấn cũ của thầy mà thôi.”

Tính cách của Lục Dĩ Quyến tuy rằng hay vui đùa, nhưng cậu phân biệt được rất rõ ràng, giống như vừa nãy bỗng dưng nói không muốn đóng phim, hiển nhiên là Dung Đình sẽ cho rằng cậu muốn bỏ cuộc, hoặc là bất mãn với Tạ Sâm. Lúc này thà rằng mất mặt một tí, bị Dung Đình cho rằng mình là fan cuồng, cũng tốt hơn để lại ấn tượng lỗ mãng kiêu căng.

“Em nhớ rõ tiền bối là người Hồ Bắc, rất thích ăn cay, thế nhưng Tiểu Hách làm trợ lý lại không biết nên em mới đùa một câu, tuy rằng em không học biểu diễn, quy củ khi đóng phim em vẫn biết rõ, thầy yên tâm, vài cảnh quay không qua được mà thôi, không ảnh hưởng gì được đến em.”

Lục Dĩ Quyến nói đầy nghiêm cẩn, sắc mặt Dung Đình cuối cùng tốt hơn, anh nhìn cậu có chút đăm chiêu, một lúc sau mới nói: “Kì thật cậu không cần gọi tôi là tiền bối, gọi tên của tôi cũng được.”

Lục Dĩ Quyến lập tức thốt lên: “Gọi bằng tên? Không thích hợp lắm thì phải…”

Dung Đình lúc này lại trở nên thân thiện hơn: “Không sao, không thì cậu có thể gọi tôi là sư ca, dù sao chúng ta cùng học một trường.”

“A, vậy thì gọi là sư ca!” Lục Dĩ Quyến hớn hở nói.



Người Trung Quốc thích nói chuyện làm ăn trên bàn cơm, kì thật rất có đạo lý.

Thèm ăn chính là một trong những dục vọng tối nguyên thủy của con người, lúc ăn cơm, con người thường có thể để lộ ra rất nhiều bản tính, cũng dễ làm thân hơn. Giống như bây giờ, sau khi cướp đi 2 xiên cà nướng từ tay Dung Đình, Lục Dĩ Quyến đã không có sự câu nệ như lúc ban đầu, đề tài nói chuyện của hai người kéo từ trường học cũ Ương Ảnh cho đến tận bộ phim mới nhất của Dung Đình.

Lục Dĩ Quyến vừa cắn thịt gà vừa nói: “Em xem trên weibo còn rất nhộn nhịp, công chiếu nhiều ngày như vậy mà vẫn có đề tài mới, tiếc là em không có thời gian đi ra rạp chiếu phim… hiện giờ phòng bán vé thế nào rồi ạ?”

Tướng ăn của Dung Đình nhã nhặn hơn một chút: “Ừ, lúc tuyên truyền đã bỏ ra rất nhiều tiền, đội ngũ cũng khá tốt, về phòng bán vé… Vì đúng dịp Thất tịch cho nên phòng bán vé trong tuần được khoảng 300 triệu.”

Nghe Dung Đình nói ra con số 300 triệu đầy bâng quơ, cả người Lục Dĩ Quyến đều muốn quỳ, quay phim bận rộn làm cậu không còn thời gian xem weibo, bởi vậy mà không chú ý đến số liệu của phòng bán vé, nhưng lúc này không cần nghĩ nhiều, có thể kiếm được 300 triệu, chắc chắn là quán quân phòng vé, “Dung ca quả nhiên là vũ khí phòng vé! Nhà sản xuất chắc là kiếm bội tiền.”

“Đâu có liên quan gì đến anh.” Dung Đình không chút để ý lau đi dầu ăn trên đầu ngón tay, “Bạch Oanh nổi tiếng hơn anh, phim này đầu tư rất lớn, Bạch Oanh chuẩn bị lấy phim này tranh ngôi Ảnh Hậu.”

Bạch Oanh là nữ chính trong phim điện ảnh này, là một ngôi sao nổi tiếng từ khi còn nhỏ tuổi, vừa mới tốt nghiệp Học viện Hí kịch Thượng Hải năm trước. Không giống với nhiều diễn viên nhỏ tuổi khác, lúc mới đầu đều là hình tượng đáng yêu muốn chết, càng lớn lại càng hỏng, những năm gần đây Bạch Oanh càng ngày càng xinh xắn, mặt trái xoan, ngực tấn công mông phòng thủ, chỉ bằng khuôn mặt của cô cũng đủ để xua đuổi vô số anti fan. Bởi vậy, Dung Đình nói cũng không hẳn là khiêm tốn.

Nhưng Lục Dĩ Quyến hoàn toàn không chú ý đến vị mỹ nữ này, cậu chỉ hỏi: “Vậy Dung ca thì sao? Liên Thành nổi tiếng như vậy, anh có tin tưởng rằng mình sẽ được giải không?”

Động tác của Dung Đình lập tức chậm lại: “Giải thưởng? Bây giờ còn có người mong chờ nhìn đến tôi nhận giải sao?”

Vẻ mặt anh có chút lạnh, khăn giấy bị anh vo thành một nắm ném vào thùng rác, Lục Dĩ Quyến không ngờ phản ứng của Dung Đình lớn như vậy, cậu đành phải ngắc ngứ giải thích: “Tại sao lại không chờ mong? Kĩ xảo biểu diễn của anh được mọi người công nhận…”

Dung Đình nhìn về phía Lục Dĩ Quyến, có lẽ anh cũng nhận ra được mình phản ứng hơi quá, bởi vậy miễn cưỡng giải thích: “Liên Thành là phim thương mại, trình độ nghệ thuật không cao, khả năng lấy được giải thưởng cá nhân trong liên hoan phim là rất thấp, thế nhưng phía nhà sản xuất vì muốn kéo dài nhiệt độ nên chắc chắn sẽ đưa tin một số đề cử, sau đó khiến bên pr tập trung vào một giải thưởng nhất định, cậu cảm giác, tôi và Bạch Oanh, sẽ là ai?”

“Là anh.” Lục Dĩ Quyến thốt ra, “Em xem trailer, nhân vật công chúa của Bạch Oanh chủ yếu là làm màu mà thôi, nếu nhân vật như thế mà có thể lấy được Ảnh hậu, có lý nào lại không cho anh Ảnh đế.”

Thái độ chắc như đinh đóng cột của Lục Dĩ Quyến khiến Dung Đình tạm thời không biết phải tiếp lời như thế nào, hai người ngồi đối diện nhìn nhau giằng co vài giây. Dung Đình bỗng nhiên nở nụ cười: “Cảm ơn cậu đã tin tưởng, nhưng anh vẫn phải nói thay cho Bạch Oanh vài câu, kĩ xảo biểu diễn của cô ấy không kém anh chút nào, trước kia anh và cô ấy chưa từng hợp tác với nhau nên anh không biết rõ, nhưng sau lần này, anh quả thật học được rất nhiều điều từ phía cô ấy, nhà sản xuất lựa chọn Bạch Oanh cũng có lý do của họ cả.”

Rõ ràng cả đương sự cũng cam tâm tình nguyện rời khỏi cạnh tranh, nhưng Lục Dĩ Quyến vẫn không phục: “Sao có thể thế được, dù cho kĩ xảo biểu diễn của Bạch Oanh tốt, nhưng xét cho cùng Liên Thành vẫn là một bộ phim thiên về nam chính.”

May mà bữa cơm đã ăn được lửng dạ, cuộc đối thoại kịch liệt này cũng không ảnh hưởng đến cảm xúc của hai người, Dung Đình thấy Lục Dĩ Quyến còn uất ức hơn cả mình, bỗng dưng nghĩ ra một điều: “Dĩ Quyến, em có muốn xem Liên Thành không?”

“Có chứ!”

“Vậy nào, tính tiền, Tiểu Hách, đi gọi điện đến rạp chiếu phim gần nhất, thuê cả phòng.”

“???” Lục Dĩ Quyến kinh ngạc, “Anh nói là hiện tại? Em còn chưa qua được cảnh của mình đâu…”

Dung Đình rút di động ra, vừa quay số điện thoại vừa trả lời: “Dù sao cậu không tìm được cảm giác, lại quay cũng chỉ phí thời gian, vừa lúc Tạ đạo vẫn nói muốn xem, anh gọi điện thoại cho ông ấy, mời cả đoàn làm phim cùng xem luôn.”

Vì thế, Lục Dĩ Quyến liền được cảm nhận trực quan cái gọi là “sức hút phòng vé”.

Sau khi gọi điện thoại cho Tạ Sâm được 10 phút, Dung Đình liền nhận được cuộc gọi của Tạ Sâm: “Tiểu Dung à, mọi người ai cũng muốn xem, tổng cộng có hơn hai trăm người, cậu phải tiêu pha nhiều rồi.”

Lục Dĩ Quyến đứng cạnh Dung Đình nghe vậy liền rống lên: “Làm sao thế được! Rõ ràng có rất nhiều người đã xem rồi!”

Hơn 200 người… Nếu đổi thành tiền vé thì phải bao nhiêu chứ!

Dung Đình nhún vai đầy vẻ “đã sớm biết”, sau đó bảo Tiểu Hách gọi thẳng cho người đại diện Thiệu Hiểu Cương: “Hỏi hỏi xem có thể mua được giá bên trong không.”

Sau nửa giờ, nhân viên vốn còn đang ỉu xìu trong trường quay giờ đã đầy mặt sáng láng ngồi trong rạp chiếu phim.

Trong phòng chiếu, đèn chuyển tối, tiếng nhạc mở đầu dần vang lên.

Trên màn ảnh rộng, tiếng vó ngựa vang lên dồn dập, đạo diện đưa màn cận cảnh đầu tiên cho Dung Đình, áo giáp màu đen, áo choàng màu đỏ, giữa màn ảnh với gam màu trầm, sự xuất hiện của Dung Đình lập tức hấp dẫn ánh mắt của tất cả người xem.

Có rất nhiều hình ảnh Dung Đình mặc trang phục thời cổ đại, nhưng Dung Đình lạnh lùng phóng khoáng như bây giờ lại là lần đầu tiên. Trên màn ảnh, khuôn mặt Dung Đình như đao khắc, ánh mắt lạnh lẽo, vó ngựa vẫn dồn dập nhưng anh đã thả người nhảy xuống, rời khỏi yên ngựa đầy lưu loát. Sự nhanh nhẹn mà bình tĩnh của anh lập mang đến cho người xem ấn tượng — đây là một đại tướng quân với kinh nghiệm sa trường phong phú, chiến công hiển hách.

Mà giờ phút này, trong đầu Lục Dĩ Quyến chỉ có suy nghĩ:

Đẹp, đẹp muốn chết, đẹp muốn liếm màn hình… Vì sao đều là nam giới mà Dung Đình lại có thể đắp nặn được một người đàn ông man đến vậy!

Theo màn ảnh càng lúc càng gần, Dung Đình cũng được cắt đặc tả thêm vài cái, người xem, từ già trẻ lớn bé đều bị Dung Đình kích thích đầy hưng phấn.

Lục Dĩ Quyến nghe thấy tia lý trí cuối cùng trong đầu mình phân tích — màn ảnh được dựng phim rất nhanh, mới mở đầu liền đẩy nhanh tiết tấu của phim, vô cùng hợp để thay đổi cảm xúc của người xem, tạo nên không khí đầy khẩn trương.

Đây là cách dựng phim điển hình của phim thương mại, dùng thủ pháp cắt cảnh montage* cơ bản nhất, bằng việc phối hợp và sắp xếp các cỡ cảnh: Toàn, trung, cận, đặc tả… tạo nên một màn ảnh rộng lớn, kết hợp với sự biểu diễn đầy sức dãn của Dung Đình lập tức khiến cho người xem bị cuốn vào nội dung bộ phim.

Bộ phim này do Hãng phim Tinh Vũ chế tác, bản thân kịch bản không có gì mới mẻ, nội dung là một quốc gia bị đặt dưới sự cai trị của một tên hôn quân, đại tướng quân không cam lòng nhìn quốc gia đi xuống vực thẳm, một mình xâm nhập vào sào huyệt của quân địch, cuối cùng chiến thắng. Phim ca ngợi anh hùng này đã vô cùng quen thuộc ở trong nước, Liên Thành cũng không trông đợi vào việc thu hút người xem từ nội dung phim, ngay từ lúc tuyên truyền ban đầu cũng đã tập trung chủ yếu vào diễn viên.

Lựa chọn của Hãng phim Tinh Vũ rất chính xác, Dung Đình quả thật có thể gánh được đề tài này, dù là kỹ năng diễn xuất cho đến khuôn mặt hoàn mỹ không tì về của anh, một khi đưa lên màn ảnh rộng đều có thể khiến người xem tình nguyện ngồi trong rạp hai tiếng đồng hồ, huống chi, anh đắp nặn một cách sinh động nhân vật sinh không hợp thời, không thể đền nợ nước, cố chấp làm theo ý mình, cuối cùng giành được thắng lợi.

Đương nhiên, có câu anh hùng khó qua ải mĩ nhân. Bất cứ một phim thương mại về anh hùng nào cũng sẽ không quên đắp nặn cho vị anh hùng ấy một chuyện tình đầy duy mỹ.

Dung Đình sở dĩ có cơ hội dẫn dắt quân lính xâm nhập vào sa mạc chính là mượn danh nghĩa đưa công chúa sang cầu hòa.

Mà trên đường cầu hòa, Dung Đình lại yêu phải vị công chúa khuynh quốc khuynh thành ấy.

Vai diễn của Bạch Oanh không nhiều, nhưng mỗi lần xuất hiện đều rất bắt mắt, từ mâu thuẫn không muốn gả cho người đến cuối cùng vì đất nước mà hy sinh, cô và Dung Đình yêu nhau, lại đều biết sứ mệnh bản thân phải gánh vác cho nên không dám có hy vọng xa vời được chung sống đến cuối đời.

Hai diễn viên xinh đẹp làm người xem đau lòng hết lần này tới lần khác, khiến cho nội dung phim vốn đơn giản bỗng trở nên đầy bi tráng.

Đương nhiên, bi tráng nhất chính là cái chết của Bạch Oanh.

Ngày Dung Đình tấn công thành trì quân địch, Bạch Oanh đang múa hát cho Thiền vu liền trở thành con tin mà Thiền vu uy hiếp Dung Đình.

Trên màn ảnh, ánh mắt Dung Đình thay đổi rất nhiều, từ do dự, đau lòng, dứt bỏ, rời xa, đâm thẳng đến góc mềm mại nhất của con tim người xem.

Nhưng, Dung Đình không buông tay chiến thắng dễ dàng này, anh cài tên kéo cung, mũi tên bay đi, đâm thẳng vào Bạch Oanh và Thiền vu.

Máu Bạch Oanh nhuộm đỏ ngực cô, Dung Đình ném cung tên xuống, chạy về phía cô… thế nhưng tất thảy đều đã muộn.

Trong màn ảnh, ngọn lửa ngập trời, đốt cháy toàn bộ thành trì.

Màn ảnh cắt sang cảnh khác, Bạch Oanh được Dung Đình ôm vào trong ngực.

Trên khuôn mặt tái nhợt của cô, không có thất vọng, không có đau đớn.

Trong mắt cô thậm chí còn hiện lên sự vui mừng, thoải mái: “Nguyện… Giang sơn còn mãi, thiên hạ thái bình.”

Màn ảnh chầm chậm lên cao, cả chiến trường vang lên tiếng hoan hô đầy thắng lợi trước cái chết của Thiền vu, nhưng mà, giữa đầy trời khói lửa, người chết, người sống, buồn vui khó phân biệt.

Trong hình ảnh nhuốm đầy khói bụi, chỉ có màu áo choàng đỏ thắm của Dung Đình là điểm sáng duy nhất, Bạch Oanh từ từ nhắm hai mắt nằm trong lòng anh, màn ảnh tĩnh cuối cùng, không biết chạm đến đáy lòng của biết bao người.

Tiếng nhạc ngày một lớn, là giọng hát của chính Bạch Oanh.

Trong rạp chiếu phim, ngọn đèn sáng lên.

Mọi người không hẹn mà cùng nhìn về phía trung tâm có Dung Đình, Tạ Sâm, Lục Dĩ Quyến, đúng lúc này, bọn họ kinh ngạc phát hiện… Lục Dĩ Quyến khóc?!



Montage là việc dựng phim của người dựng phim sau khi đã quay phim xong. Đạo diễn người Mỹ Spike Jonze thì ca ngợi montage như sau: “Có một nghịch lý thú vị trong điện ảnh là: Cấu trúc phim không ngừng tiến hóa qua những nhảy cóc thời gian, bối cảnh, nhân vật, ý tưởng… Nhưng chính sự tự do hoàn toàn của nghệ thuật montage lại làm nên mối liên kết vô cùng chặt chẽ.
Bình Luận (0)
Comment