Hai từ “dỗ người” sao nhẹ nhàng quá đỗi, như thể chỉ là nhấp khẽ môi.
Tiêu Phục Huyên không nghe rõ, cúi đầu xuống gần hơn nữa. “Cái gì?”
Gương mặt y nghiêng nghiêng, rèm mi rủ hờ như thể chỉ thuận thế kề tai lại gần.
Mái hiên nơi đây bỗng chốc chìm vào bầu không khí riêng tư, đến cả gió cũng né mình thổi bên ngoài mà thôi.
Trong nháy mắt ấy, một tiểu đồng tử đứng dưới sân hỏi thăm, “Thưa đại nhân, sao trên mái nhà có tiếng kiếm vậy ạ, có chuyện gì xảy ra thế ạ?”
Giọng nói ấy xa xăm mà mơ hồ, nhưng vẫn khiến Ô Hành Tuyết cảm thấy phút riêng tư bị người nhòm ngó. Trái tim chàng chợt nhảy
thịch, tiếp đến vỗ nhịp mỗi lúc một nhanh. Khổ nỗi tất cả đều nhuốm trong men say ngà ngà, nên chàng cũng không cử động mà để mặc cho cảm giác ngưa ngứa vô hình ấy sinh sôi.
Chàng nghe Tiêu Phục Huyên trả lời tiểu đồng tử, “Không có gì, ta đang… đãi khách.” Giọng y quá chi trầm khẽ nên tiểu đồng tử hẳn nhiên không nghe rõ, nhưng lời ấy khuấy cồn cào trong hốc tai Ô Hành Tuyết.
Khi nói đến hai chữ cuối, y đã dời tầm mắt nhìn thẳng vào Ô Hành Tuyết.
Giữa nhịp tim đánh dồn mạnh mẽ, Ô Hành Tuyết cất giọng biếng nhác, “Không ai để khách trên mái nhà…”
Ánh mắt Tiêu Phục Huyên soi sâu vào mắt chàng. “Ừm.”
Ô Hành Tuyết nói tiếp, “Huống chi đãi khách cần rượu, mà ngươi không mang rượu lên.”
Bấy giờ, Tiêu Phục Huyên mới chịu nhích môi, nói, “Ngươi uống rượu với người khác rồi.”
Ô Hành Tuyết: “Ta có thể uống tiếp với ngươi.”
Tiêu Phục Huyên: “Không cần.”
Y nói không cần, nhưng giọng điệu không hề lạnh lẽo, mà trái lại gần gũi thân mật đến độ hơi thở họ đan xen.
Ánh mắt Ô Hành Tuyết thoáng chừng mờ mịt. “Vậy phải làm sao để Thiên Túc vui lên đây?”
Tiêu Phục Huyên: “Tại sao muốn ta vui lên.”
Dường như men say đã ngấm, Ô Hành Tuyết li3m nhẹ môi, nói, “Bởi vì…”
Thật ra chàng cũng chưa nghĩ ra nên trả lời thế nào, nhưng rồi chàng cũng không cần phải suy nghĩ nữa.
Vì đương khi híp khẽ bờ mi, chàng bỗng thấy ngón tay mình bị nắm chặt lại, và Tiêu Phục Huyên nghiêng mặt cúi đầu xuống…
Chóp mũi họ chạm nhẹ vào nhau, Tiêu Phục Huyên đỡ cằm và hé mở môi chàng.
***
Rồi chàng mơ về Tước Bất Lạc.
Mới khắc trước, chàng hãy đang được Tiêu Phục Huyên trao hôn trên mái hiên Nam Song Hạ, mà ngay liền đó đã đến bên cửa sổ Tước Bất Lạc. Bởi thế nên Ô Hành Tuyết trong mơ thấy khá mông lung.
Chàng nhìn tuyết đọng bên ngoài cửa sổ, khó lòng không nhớ đến những cành băng trổ đầy trên mái hiên Toạ Xuân Phong. Khác mỗi giờ đây không có tiểu đồng tử hầu chung, và cũng không một người bất chấp màn đêm đến thưởng ngoạn cảnh sắc.
Tuyết đóng dày dưới mặt sân, nhìn một chốc khiến lòng cũng lạnh lẽo phát hoảng. Mà chàng cũng lạnh thật. Đó là khí lạnh bủa ra từ tận trong xương cốt, cái lạnh mà ôm lò sưởi, đun ấm nước nóng hay đốt chậu than đỏ lửa cũng không cách nào xoa dịu.
Chàng đang khoác một lớp thường phục mỏng manh, tựa lưng ngồi bên cửa sổ, có vẻ chỉ vừa rời giường. Chàng thấy Phương Trữ vội vã chạy vào từ phòng bên cạnh, trên tay còn cầm một tấm áo choàng lông chồn, dường như chiếc áo được ủ trong thứ gì đấy nên chưa khoác lên người mà đã thấy ấm áp mơn man.
“Thưa thành chủ, hay là phủ thêm lớp áo này ạ?” Phương Trữ giũ áo choàng ra.
Ô Hành Tuyết xua tay, trả lời, “Ta không cần, đem nó cất đi.”
Phương Trữ lí nhí, “Nhưng kiếp kỳ lạnh lắm ạ.”
Ô Hành Tuyết nói, “Thế à, ta thấy cũng bình thường.”
Phương Trữ: “…”
Phương Trữ vẫn khuyên, “Hiện tại ngài vừa vào kiếp kỳ chưa tới hai ngày, mấy hôm sau sẽ càng lạnh hơn nữa đấy ạ.”
Ô Hành Tuyết liếc chiếc áo choàng kia, nói, “Lần nào thì ta cần dùng thứ này?”
Phương Trữ run run khoé môi. “Quả thật xưa nay thành chủ không thích mặc dày, thế nhưng…”
Ô Hành Tuyết: “Nhưng cái gì?”
Phương Trữ muốn nói rồi lại do dự, hắn lia mắt lén lút nhìn đầu ngón tay Ô Hành Tuyết.
Chàng thấy thế hạ mắt nhìn theo, thấy ngón tay mình đang xanh nhợt thiếu sắc. Khi chàng nhấc mắt lên lại thì Phương Trữ đã né mắt sang chỗ khác, không dám nhìn lâu hơn.
Ô Hành Tuyết vân vê đầu ngón tay, vận chuyển khí kình trong cơ thể.
Khi bước vào kiếp kỳ, việc vận chuyển khí kình cực kỳ không dễ chịu, từng tấc từng li đều trắc trở ngưng đọng giống một dòng sông đóng băng. Ép buộc lưu thông tạo cảm giác như có cây kim không ngừng đâm thọc vào những huyệt đạo chủ chốt trong kinh mạch.
Đó là cảm giác đau đớn dày đặc…
Nhưng Ô Hành Tuyết không mảy may thể hiện ra ngoài mặt, sau khi vận khí kình xong xuôi một vòng, sắc xanh trên ngón tay thoái lui, thay vào đó là ngón tay trắng ngần tinh tươm, không còn chút dị thường nào.
Chàng xoè tay ra để Phương Trữ nhìn rõ. “Lại nhìn thử xem.”
Phương Trữ ôm áo choàng, không còn gì để nói.
Ô Hành Tuyết nói tiếp, “Mới nãy chẳng qua vừa ngủ dậy mới thế thôi.”
Phương Trữ miễn cưỡng “Ồ” đáp lời, rõ ràng là muốn phản đối nhưng không được.
Khi gặp phải kiếp kỳ, tà ma không muốn để lộ bất kỳ sự yếu ớt nào. Dù sao Chiếu Dạ thành cũng là chốn quần ma tụ hội, nào có phải địa điểm an toàn gì.
Nhưng hiện tại họ đang ở trong phủ trạch, xung quanh Tước Bất Lạc cũng không một bóng người lân la, có thể khoác thêm một lớp áo nữa để giữ ấm mà không ai thấy thì tại sao lại không làm?
Phương Trữ không hiểu.
Nhưng Ô Hành Tuyết quyết tâm không mặc.
Thay vào đó, chàng hỏi Phương Trữ một câu, “Còn rượu không?”
Phương Trữ nghe được thì thấy dù không mặc áo khoác thì uống chút rượu ấm cũng được, bèn gật đầu lia lịa và nói, “Có ạ! Thành chủ xin chờ một chút, ta đi lấy rượu!”
Trên đường rời đi, hắn tính mắc áo choàng lông chồn lên giá gỗ trong phòng nhưng bị Ô Hành Tuyết cản lại. “Đừng treo ở đó, lấy ra từ đâu thì trả lại nơi ấy đi.”
Phương Trữ cau có ra mặt nhưng cũng không dám nhiều lời thêm.
Kiếp kỳ hành rất vật vã, đến người hiền hoà không bao giờ bực dọc cũng trở nên u ám khó lường. Phương Trữ đâu dám đánh liều với cơn giận của thành chủ. Thế là hắn đành cun cút đem áo choàng lông chồn về gian phụ rồi ngoan ngoãn cất vào tủ.
Vậy nên nhìn sơ qua, dường như chưa một ai cảm thấy rét lạnh đến khốn quẫn ở Tước Bất Lạc, cũng chưa một ai lấy chiếc áo choàng lông chồn ra khỏi tủ.
Phương Trữ nhanh chóng chuẩn bị hai bầu rượu và chung tới. Trên đường hắn còn châm lửa trong bàn tay để đun ấm rượu lên một chút.
Nên khi Ô Hành Tuyết vừa chạm vào rượu đã thấy vô cùng ấm áp.
Chàng ngước mắt, Phương Trữ lập tức phóng vọt ra sau và lùi tới sát vách, ngập ngừng nói, “Thưa thành chủ, ta… ta nghe nói rượu này uống ấm ngon hơn.”
Ô Hành Tuyết cũng không trách cứ hắn mà chỉ nói, “Thế ngươi có từng nghe rượu này uống ấm dễ say không?”
Phương Trữ hé khẽ miệng, vội vã lắc đầu. “Dạ không biết.”
“Ta sai rồi, thưa thành chủ,” Phương Trữ cúi đầu nhận lỗi.
Ô Hành Tuyết trả chén rượu cho hắn, nói, “Ta không cần thứ này.”
Đây không phải ngọc tử trên Tiên Đô, uống vào đặc sệt chứ không có vị ngọt thanh như ngọc tử. Và ở nơi đây cũng không người chung vui thưởng rượu với chàng bên cửa sổ, nên không cần chung nhỏ nhâm nhi chầm chậm làm chi.
Chẳng qua khi giương mắt nhìn những cành băng ngoài sân và góc mái hiên đằng sau làn sương xanh, chàng bất giác muốn uống rượu mà thôi.
Rượu ở Chiếu Dạ thành đúng là có khác, trước đây chàng nhấm rượu ngọc tử cả buổi sáng cũng chỉ thấy hơi lâng lâng, mà hiện tại mới hai vò đã trở nên lười nhác.
Chàng híp mắt một chút rồi mở ra lại, đôi ngươi chan chứa ánh trăng trong vắt, ánh mắt không hỗn loạn mà đơn giản được bọc dưới một tầng sương nhàn nhạt.
Chàng tựa người bên thềm cửa sổ, chợt mở miệng hỏi Phương Trữ, “Cửa sổ ở Tước Bất Lạc nhìn về phía bắc à.”
Phương Trữ hơi ngạc nhiên, ngẩn người trước câu hỏi không đâu vô đâu này. Một lát sau, hắn mới trả lời, “Thưa phải… hướng phía bắc ạ.”
Những hộ gia đình thường dân ở nhân gian thường yêu chuộng xây nhà “toạ bắc hướng nam” để đón được ánh sáng, nên cửa sổ cũng thường xây về phía nam. Thế nhưng Chiếu Dạ thành dầu gì cũng là Động Ma, cái gì ở đây cũng trái ngược với thế giới loài người.
Chúng tà ma không quan tâm đón sáng được hay không mà chỉ để ý bản thân có thoải mái hay không. Tất cả kết cấu của Chiếu Dạ thành đều trái ngược thông lệ, nên các toà phủ trạch ở đây cũng thường toạ nam hướng bắc.
Ở cực nam nhất chính là Tước Bất Lạc.
Ô Hành Tuyết tất nhiên phải biết chuyện này, vì vậy câu hỏi thốt lên bất ngờ khiến người nghe thấy thật kỳ lạ.
Phương Trữ ngờ ngợ hỏi, “Sao thành chủ tự dưng nhắc đến chuyện này? Có gì kỳ quái à?”
Ánh mắt Ô Hành Tuyết vẫn hướng ra ngoài cửa sổ, chàng đáp, “Không có gì kỳ quái cả, ta sực nhớ vài chuyện nên tiện nhắc tới thôi.”
Trước đây, chàng rất hiếm khi chủ động đề cập đến những vấn đề này với người khác, mà hiện tại chắc hẳn là… do men say. Chàng lặng người một chốc, dời ánh mắt từ ngoài sân đến dưới thềm cửa sổ, bất chợt thả nhẹ giọng, “Phương Trữ, dưới cửa sổ ngươi có thứ gì đặc biệt không?”
Phương Trữ lắc đầu. “Thưa không có, dưới cửa sổ ta chỉ có đất bùn, cây hoa thân thấp, đá sỏi, ngoài ra không có gì đặc biệt.”
Ô Hành Tuyết uống thêm một ngụm rượu, nuốt vào rồi mới rủ mắt nhìn đám cỏ thâm thấp bên dưới và nói, “Thế tại sao lại có người thương nhớ bên dưới cửa sổ vậy.”
Phương Trữ nghẹn cả họng trước câu hỏi này, không phải tại vấn đề khó đến độ nào, mà việc thành chủ nhà hắn hỏi ra một câu hỏi như vậy mới kỳ dị và hiếm gặp cực kỳ.
Hắn suy tư một lúc lâu mới trả lời, “Chuyện này… chắc là vì ở trên cao nhỉ.”
Ô Hành Tuyết bật cười thành tiếng mà không buồn ngoái đầu, cảm thấy câu trả lời của hắn quá thừa thãi và vô nghĩa.
Phương Trữ cắn răng nói tiếp, “Nếu ở trên cao sẽ có những thứ khác bên dưới cửa sổ, bởi lia mắt nhìn từ cửa sổ có thể thấy nhiều và xa hơn. Biết đâu những thứ ấy có thể tạo thành khung cảnh nào đó, khi ấy việc thương nhớ cũng không phải chuyện lạ gì.”
Ô Hành Tuyết lắng nghe, bất giác nghĩ đến chút tâm tư mơ hồ.
Tâm tư ấy chỉ nhen lên chớp nhoáng, nhanh đến mức chàng cũng chưa kịp nhận ra, thế nhưng nét cười trên mặt đã dần phai. Chàng cầm miệng bầu rượu bằng bạch ngọc và thẩn thơ đứng bên khung cửa sổ.
“Ở trên cao…”
Chàng mấp máy môi.
Vào thời khắc đó, chàng tưởng như lại nhìn thấy màn sương mù mịt mờ không tan biến, giữa sương mù là là một nấm mồ khổng lồ và một toà tháp cao cao.
Ở nơi ấy, có người phóng mình l3n đỉnh tháp, tay cầm đèn đứng bên khung cửa sổ nhìn về phía này. Chàng không rõ người người nọ đang nhìn mình hay đang nhìn về thành trấn yên bình ở nơi xa…
Rồi sau đó, ánh đèn dầu tản ra trong màn sương, và bóng người kia nâng tay đánh vang chuông cổ.
Đinhhh —Tiếng chuông nọ như vang vọng trong đầu chàng.
Khoảnh khắc ấy, Ô Hành Tuyết thấy bản thân nhắm mắt lại, cơn đau và rét buốt trên cơ thể trở nặng nhanh chóng, tưởng như kiếp kỳ đột ngột bước vào giai đoạn khốn khổ nhất.
Năm đó kiếp kỳ nặng nề cùng cực, khiến chàng đau đớn hơn bất kỳ năm nào, cái lạnh trên cơ thể cũng tồi tệ hơn bất kỳ năm nào. Bởi vậy có một đoạn thời gian, Ô Hành Tuyết gần như mất hoàn toàn tri giác, không còn cảm thấy gì nữa.
Chàng không biết mình đã bỏ bầu rượu thế nào, cũng không nhớ mình đã nói gì để Phương Trữ rời khỏi, rồi sau đó đóng cửa sổ và thiết lập cấm chế lên căn phủ ra sao. Cấm chế được thiết lập theo hai phía, người ngoài không vào được, và bản thân chàng cũng không ra ngoài được để tránh gây ra cơ sự khó cứu vãn trong lúc mất đi ý thức.
Nhưng chàng nhớ rõ ngay khoảnh khắc cấm chế vừa hoàn thành, bỗng dưng có một hơi thở xuất hiện từ đằng sau. Có một ai đó âm thầm bước vào sân, thậm chí bước cả vào nhà mà không gây bất kỳ một sự chú ý nào.
Theo bản năng của tà ma, chàng lập tức vươn tay chộp vũ khí. Ngặt nỗi hiện tại trong phòng không có đao cũng chẳng có kiếm. Thứ duy nhất chàng nắm được vào tay chỉ còn mỗi chuông mộng.
Ngày xưa, sau khi chặt đứt quá nhiều dòng rối loạn ở Kinh Quan, cành thần mộc trong những dòng nọ đều rơi vào tay chàng, ban đầu chàng định sẽ phá bỏ toàn bộ, không giữ lại một mẩu. Nhưng đến cuối cùng, chàng nấn ná trong giây lát, cuối cùng quyết định lột lớp bạch ngọc phủ bên ngoài những cành gãy nọ xuống để tạo món “chuông mộng” be bé này.
Chiếc chuông với hình dạng thể theo chuông trên toà tháp cao ấy.
Từ sau lúc ấy, mỗi lần chặt đứt dòng rối loạn nào, chàng vẫn luôn rung chuông bạch ngọc vào thời điểm chót cùng hết cả và tạo một giấc mơ đẹp cho những người bị chôn vùi bởi những dòng rối loạn ấy.
Cả những người không nên xuất hiện trên đời, và những người đã định phải lìa đời.
Chàng đã tạo giấc mơ cho rất nhiều người, khiến họ quên đi một số chuyện hoặc trao niềm tin vào một số chuyện.
Giống như tiếng chuông ngân trên đỉnh tháp thuở nào, một khi vang lên sẽ giúp người không còn đau đớn, vạn sự bình yên… ít nhất là trong mơ.
Còn vào thời điểm hiện tại, chuông mộng bạch ngọc nằm trong tay Ô Hành Tuyết với những gờ nhọn đâm vào da khi chàng siết lại, mang đến cái lạnh và cơn đau âm ỉ giúp chàng tỉnh táo một chút khỏi mê man trong kiếp kỳ.
Chàng cảm nhận tinh chất ngọc và hít vào hơi thở của người đến phía sau. Chàng thân thuộc với hơi thở ấy hơn bất kỳ ai, dù có nhắm mắt quay lưng cũng có thể nhận ra.
“Tiêu Phục Huyên…”
Chàng giữ chuông mộng và xoay người lại.
Tiêu Phục Huyên đang đứng bên cạnh cửa, đôi ngươi đen thẳm nhìn chàng đăm đăm.
“Đây là Chiếu Dạ thành,” Ô Hành Tuyết nói.
Đây là Động Ma Chiếu Dạ thành, không phải mái sân bên ngoài cổng Toạ Xuân Phong để người muốn đến lúc nào thì đến.
Chàng còn muốn nói tại sao ngươi lại chọn đến vào lúc này. Nhưng nói ra như vậy lại có cảm giác yếu ớt sao đó nên chàng không thích. Bởi vậy chàng quyết định mím chặt môi không nói gì.
Tiêu Phục Huyên vẫn nhìn chàng đăm đăm, nói, “Ta biết đây là Chiếu Dạ thành, ta cũng biết ngươi đặt cấm chế, nhưng ta vẫn vào được.”
Không chỉ vào được mà còn không bị thương tổn chút nào. Dường như tất cả cấm chế đều né tránh chứ không tấn công y. Còn Ô Hành Tuyết lập cấm chế giữa lúc ý thức mơ màng nên hoàn toàn thực hiện theo bản năng…
Lời này của y đã trắng trợn mở ra những thứ mịt mờ trong tiềm thức, có muốn giấu cũng không được mà muốn chối cũng không xong. Bởi vậy Ô Hành Tuyết không nói gì nữa. Chàng siết chặt thứ đang cầm trong tay và đấu tranh âm thầm với người đứng ở cửa.
Nháy mắt ấy như kéo dài vô tận, cả hai người đều đứng lặng thinh trong những rối ren ám muội, phảng phất khiến người ta nhớ về khung cảnh trên mái hiên ở Nam Song Hạ năm nào…
Nhưng nay đã khác xưa.
Năm xưa chàng là Linh Vương, hiện giờ là một ma đầu.
Chàng phải vượt qua kiếp kỳ mà bất kỳ tà ma nào cũng phải gánh chịu, nhưng chàng không muốn trải qua trước mặt Tiêu Phục Huyên.
Làm sao cũng được, nhưng không thể là Tiêu Phục Huyên.
Vậy nên chàng lập tức muốn nhả ra những lời thật hung hăng để khích người kia tức giận bỏ đi. Chàng bóp chặt chuông mộng bằng bạch ngọc phía sau lưng, nở nụ cười và nghiêng đầu nhìn người kia. “Ngươi có biết tà ma có kiếp kỳ không? Ngươi có biết ma đầu trong kiếp kỳ sẽ như thế nào không?”
“Ngươi từng nghe qua tà ma coi trọng d*c vọng chưa?”
…
Chàng hiểu rõ, Tiêu Phục Huyên tiếp xúc với tà ma nhiều nhất, giết tà ma nhiều nhất và cũng giáng hình với tà ma nhiều nhất.
Nhắm mắt cũng biết Thiên Túc thượng tiên ghét bỏ thứ gì nhất — đó chính là những đặc điểm cố hữu của tà ma, sự hoành hành không kiêng dè, thói hoang dâm vô độ…
Chàng nói nói nói câu nào cũng xoay quanh những chuyện đó để chờ Tiêu Phục Huyên đanh nét mặt và bỏ đi.
Muốn chọc Thiên Túc không vui dễ dàng lắm, chàng đã từng nửa đùa nửa thật trêu chọc người này không biết bao nhiêu lần trước đây rồi.
Mà khốn ngay lần này…
Tất cả những lời chàng nói ra đều là những thứ đến chàng cũng căm ghét, vậy mà Tiêu Phục Huyên không nhúc nhích một bước, chỉ giữ nguyên ánh mắt trầm nặng đăm đăm nhìn chàng. Một lúc lâu sau, y mới nói, “Nghe qua hết rồi.”
Ô Hành Tuyết bỗng chốc lặng thinh.
Chàng chỉ im một thoáng, lại nói tiếp, “Nếu ngươi đã nghe qua hết rồi tức là biết rõ cả rồi, mà còn cố tình chọn ngày hôm nay để tới —”
Ánh đèn dầu trong phòng hắt vào trong mắt Tiêu Phục Huyên chợt lay động, đôi đồng tử vỡ oà thành một quầng sáng.
Ô Hành Tuyết thoáng ngừng, né mắt sang một bên, đoạn hất cằm chỉ về phía giường và nói tiếp, “— là muốn làm khách ghé loan phòng của ma đầu ta đây ư?”
Gian phòng hoàn toàn yên ắng.
Một lát sau, Tiêu Phục Huyên cất giọng trầm thấp.
Y nói, “Đúng vậy.”
Ta tới làm khách ghé loan phòng.Con tim Ô Hành Tuyết đánh
thịch.
Thật khó lòng tả rõ cảm nhận trong giây phút ấy, chàng giật thót mình một lúc lâu mới thình lình quay đầu lại nhìn. Vừa thấy một làn gió nhẹ thổi qua, Tiêu Phục Huyên đã đứng ngay trước mắt.
Ô Hành Tuyết mấp máy môi nhưng không nói tiếng nào. Chàng xuất chiêu gần như đồng thời với hành động của Tiêu Phục Huyên, khí tà ma phóng ra ngùn ngụt, hung hãn như cơn thét gầm của biển Vô Đoan rộng lớn. Cuồng phong bọc trong sương lạnh mang theo sát khí lồ ng lộng quét qua, dẫn đến rung chấn khiếp người. Nhưng hết thảy đều bị dồn ép trong không gian căn phòng vì bị ngăn trở bởi cấm chế.
Đây là một góc cấm chế do chính tay thành chủ Chiếu Dạ thành thiết lập, là nơi hung hiểm nhất thế gian, và cũng là nơi riêng tư nhất. Ấy vậy mà, những luồng sát khí đủ sức chém lìa thân xác kia đều ngừng bặt trong nháy mắt ngay khi chạm đến Tiêu Phục Huyên. Và nháy mắt ngừng bặt đó đã đưa đến cái kết —
Trời đất vẫn quay cuồng, kiếm khí vẫn lướt qua những nơi trí mạng trên cơ thể, và chàng vẫn cận kề bên chúng mà không chịu một chút thương tổn.
Dường như bọn họ vẫn luôn như vậy.
Khác mỗi khi xưa Linh Vương bị đè trên mái nhà, còn hiện tại ma đầu bị đè trên trường kỷ.
Kiếm khí vẫn gần kề bên cổ Ô Hành Tuyết, tràn đầy hơi thở thuộc về riêng Thiên Túc, thật sắc bén nhưng không nguy hiểm. Tiêu Phục Huyên cũng trong tư thế chống một gối như năm xưa, cúi đầu nhìn Ô Hành Tuyết và đan ngón tay mình vào những ngón tay chàng.
Ánh mắt Tiêu Phục Huyên đổ dọc theo cánh mũi, giọng phát ra thật trầm thấp, “Ngươi muốn khích ta bỏ đi.”
Khí kình trên tay Ô Hành Tuyết còn chưa rút về, hơi thở lạnh cùng cực men theo đầu ngón tay tuôn ra ngoài, một lớp sương mỏng trắng nhợt vờn quanh đầu ngón tay Tiêu Phục Huyên.
Thật rõ là sát khí mà cảm giác như khắng khít thân mật khôn tả.
Ô Hành Tuyết mấp máy môi, nói, “Ta đang chờ ngươi đi đây.”
Tiêu Phục Huyên nhìn chàng, lát sau mới trầm giọng nói, “Chờ ta đi rồi, ngươi muốn tìm ai để trải qua kiếp kỳ?”
Con tim Ô Hành Tuyết giật thót khe khẽ. Giống như có ai vừa đâm nhè nhẹ bên trong, chỉ nháy mắt đã dấy lên cảm giác khó tả rõ và bao trọn con tim. Thốt nhiên, chàng chẳng nói nên lời.
Mãi lâu sau, chàng mới khép mắt lại và nói, “Không một ai.”
“Không có ai khác cả,” chàng nhỏ giọng thì thầm câu nữa.
Ngay khi câu này vừa thốt ra, sương lạnh trên ngón tay cũng dần dà tan biến, khí kình Tiêu Phục Huyên len vào đầu ngón tay và mạnh mẽ tràn vào bên trong.
Ô Hành Tuyết cảm giác như có ai vừa bắt một lò lửa đỏ, ánh lửa thiêu đốt bừng bừng nhưng ấm áp biết bao. Luồng khí kình ấm áp ấy dịu êm chảy xuôi trong huyết mạch, những nơi nó chạm đến đều không còn lạnh lẽo tái tê nữa mà dần ửng hồng sắc máu.
Chàng đang nhắm mắt nên càng mẫn cảm hơn bao giờ hết.
Chàng nghe giọng Tiêu Phục Huyên nói, “Ngươi uống rượu.”
Không biết vì cớ gì mà chỉ ba chữ giản đơn bỗng xui chàng ngây ngất, bất giác không còn nhớ rõ hôm nay là ngày nào. Sao cứ như lúc chàng còn ở Tiên Đô, nếu uống rượu đã chuẩn bị từ sớm với người khác sẽ khiến Thiên Túc không vui.
Rồi chàng đến tận nơi tạ tội dỗ xuôi người ta, và bị đè trên mái hiên ngói ngọc ở Nam Song Hạ và hôn đến nghẹn ngào.
Khí kình của Thiên Túc men theo mạch máu chảy vào tim.
Bên dưới lớp áo mỏng tang, làn da Ô Hành Tuyết cũng bắt đầu hồng hào sắc máu, có thể thấy rõ nó lan dần lên phía trên, qua cánh cổ rồi chạm đến tận bờ môi.
Chàng nhớ về khi trước, li3m viền môi và hé mở đôi mắt.
Chàng gọi, “Tiêu Phục Huyên.”
“Ừm.”
Đối phương vừa khéo chạm vào môi dưới chàng, khép hờ mắt và cúi đầu hôn xuống.
Giữa hơi thở vấn vít đan xen, Ô Hành Tuyết hé môi, chợt nghe giọng Tiêu Phục Huyên vang lên từ giữa viền môi mình.
Người ấy thủ thỉ với chàng, “Ô Hành Tuyết, đêm qua ta mơ thấy ngươi…”
***
Rất lâu về trước, dân tình trên Tiên Đô đều nói họ không nằm mơ.
Vì những người như họ luôn bước vào giấc mộng của người phàm, luôn hồi đáp những ước nguyện của thường nhân, họ hiểu rõ những cảnh trong mơ đều chỉ là giả dối, và bản thân họ phải đề phòng những giả dối hơn bất kỳ một ai.
Về sau, họ lại thường nói nếu ban ngày nghĩ gì thì ban đêm sẽ mơ thấy c@i ấy, đại khái là vì công đức họ đã đủ đầy nên tâm tư không đủ sâu, không đủ nhiều, không đủ nặng.
Lại về sau nữa, cuối cùng bọn họ cũng thừa nhận, có lẽ một khi đã thành tiên sẽ không còn mơ thấy gì nữa. Dẫu cho tâm tư có vô vàn đến đâu, sâu sắc đến đâu, nặng nề đến đâu đi nữa thì cũng bằng thừa mà thôi.
Đối với họ, có lẽ chỉ duy mỗi khi chiếc chuông bạch ngọc kia lên tiếng mới có thể đưa họ vào một giấc mộng đẹp.
Ô Hành Tuyết hiểu rõ chuyện này hơn bất kỳ người nào.
Thần tiên trên thế gian không có giấc mơ, mà Tiêu Phục Huyên vừa nói: Ta mơ thấy ngươi.
︎
Lời tác giả:
Độ dài chương này còn ngắn hơn gộp hai chương một chút, nhưng tới chỗ phải ngắt chương rồi, ngày mai tui lại cố gắng nhiều hơn nha nha QAQ
Cá: Tui giải thích chút xíu:
Trước đây Ô Hành Tuyết từng thắc mắc không biết Tiêu Phục Huyên đặt tên cung phủ của mình tên “Nam Song Hạ” (
bên dưới khung cửa sổ ở hướng nam) là có ý nghĩa gì.
Sau đến chương 61, Ô Hành Tuyết mới biết Tiêu Phục Huyên đã từng sống ở Kinh Quan, nơi có ngọn tháp cao đặt giữa mộ địa.
Đến chương này, Ô Hành Tuyết hỏi Phương Trữ “
Thế tại sao lại có người thương nhớ bên dưới cửa sổ vậy.”, Phương Trữ trả lời “
Nếu ở trên cao sẽ có những thứ khác bên dưới cửa sổ, bởi lia mắt nhìn từ cửa sổ có thể thấy nhiều và xa hơn. Biết đâu những thứ ấy có thể tạo thành khung cảnh nào đó, khi ấy việc thương nhớ cũng không phải chuyện lạ gì.”. Khi này, Ô Hành Tuyết mới nhớ về căn tháp cao ở Kinh Quan và người tán tu luôn đứng trên đỉnh tháp nhìn về phía chàng. Là lúc Ô Hành Tuyết nhận ra có lẽ Tiêu Phục Huyên chính là người tán tu và người mà Tiêu Phục Huyên thương nhớ là Linh Vương.