Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên

Chương 83

Đối với người thường mà nói, hơn hai mươi năm đã gần nửa cuộc đời. Quãng thời gian đủ để trẻ nhỏ trưởng thành, để người thành niên dần sang luống tuổi.

Nhưng đối với Tiên Đô, đấy chẳng qua chỉ là chớp mắt.

Trong hai mươi năm đó, chúng tiên vẫn phụng sự làm việc, như cũ đến đi. 

Ô Hành Tuyết vẫn thường nhận thiên chiếu đi chém đứt dòng rối loạn. Chẳng qua có một quãng thời gian rất dài, chàng không còn ghé phố núi Lạc Hoa sau khi xong việc nữa.

Nó tựa như một dạng số mệnh đã định, dù không nhớ rõ những việc xảy ra đêm hôm đó và cũng không nhớ rõ cơn phẫn nộ dâng trào, nhưng trong tiềm thức chàng vẫn muốn tránh né nơi này.

Vả chăng, mỗi đợt chém đứt dòng rối loạn và muốn đến Lạc Hoa Đài thì luôn có việc này việc nọ cản bước khiến chàng phải đổi hướng giữa chừng. Một là trở về Tiên Đô ngay, hai là đi sang nơi khác.

Hai tiểu đồng tử nối gót chàng đến rất nhiều nơi. Và vào những dịp rỗi rãi, chàng với Tiêu Phục Huyên sẽ dịch dung để ngao du cùng nhau.

Bọn họ đến rất nhiều chỗ, rất nhiều địa danh mà… tiên hữu một thuở của họ từng chưởng quản. Đó là những thung lũng Đại Bi, núi Bất Động, Tuyết Trì, Kinh Quan, vân vân.

Đây cũng chẳng phải công việc béo bở gì, những địa danh đó đều hoang vu vắng vẻ hoặc nồng nặc sát khí âm tà. Những nơi này từng trải qua quãng thời gian loạn lạc và từng xuất hiện tà ma hung hiểm cùng cực, kéo theo rất nhiều hoạ loạn.

Nhưng khéo sao, có lẽ vì bạn cũ có linh nên thời điểm họ đặt chân đến, những địa danh này có thể xem như thanh bình yên ổn, chỉ có một số ít hung vật nhơ nhuốc mà chưa cần họ ra tay đã được các gia tộc tiên môn lớn nhỏ ở nhân gian giải quyết ổn thoả.

Tiêu Phục Huyên nói rằng, ấy là những năm tháng yên bình hiếm hoi dưới nhân gian.

Dường như nhân gian luôn như thế đấy. Những năm tháng yên bình vào thời điểm phố núi Lạc Hoa vừa mở cửa đã sớm khuất dạng, tà ma loạn lạc mỗi năm một đông đảo. Cứ cách tầm mười mấy năm hoặc vài thập kỷ, một vấn nạn nghiêm trọng lại xảy ra khiến cả nhân gian lao đao.

Các tiên môn lớn nhỏ đặt san sát nhau, bá tánh thờ nhiều tượng thần hơn, có đến hơn một nửa thần tiên trên Tiên Đô nhận được hương khói đậm nồng hơn xưa.

Tiên môn tiên thuật đông đúc là thế, lẽ ra nhân gian phải được sống trong cảnh phồn hoa. Thế mà sự thật hoàn toàn trái ngược, dân tình ai nấy đều trải qua những tháng ngày điêu linh.

Rõ ràng Tiêu Phục Huyên vẫn thường xuyên nhận thiên chiếu, đáng ra đám ma đầu gây nhiều mối phiền phức đều bị y giết hoặc giáng hình rồi nhốt vào Thương Lang Bắc Vực. Còn những kẻ dễ xử lý hơn thuộc năng lực giải quyết của các tiên môn trong nhân gian, chỉ cần mất chút công sức và thời gian là có thể xử lý ổn thoả.

Trên cơ sở này, sớm muộn gì cũng phải đến thời điểm nhân gian được hưởng thanh bình, không phải ngày ngày lo lắng tà ma tàn sát vô độ.

Có lần, Ô Hành Tuyết bước qua phế tích thành trì của hoàng đô cũ. Khi bước trên những gì còn sót lại của con đường lớn thênh thang, chàng hỏi Tiêu Phục Huyên, “Trước khi được triệu hoán, ngươi có nằm mơ không?”

Tiêu Phục Huyên trả lời, “Không.”

Ô Hành Tuyết có phần ngờ vực. “Không một lần nào sao?”

Tiêu Phục Huyên nói, “Ừm.”

Ô Hành Tuyết thấy lạ. “Người thường ắt phải có nằm mơ chứ, hay là ngươi đã mơ nhưng quên mất rồi.”

Tiêu Phục Huyên nói, “Có lẽ vậy.”

Đoạn, y liếc nhìn Ô Hành Tuyết rồi hỏi, “Sao bỗng dưng lại hỏi chuyện này?”

Ô Hành Tuyết đáp “À” rồi giải thích, “Sáng nay lúc chúng ta đến ngoại thành, ngươi đi vào núi thì ta chợt nghe người ta tán gẫu trong quán trà ven đường, người đó bảo vừa có một giấc mơ đẹp. Mơ rằng tất cả tà ma trên thế gian bị thanh trừ sạch sẽ không còn một mống, và không lại xuất hiện đột ngột từ thinh không nữa.”

Tiêu Phục Huyên lắng nghe, hồi sau thấp giọng tiếp lời, “Thế thì Tiên Đô cũng không cần tồn tại nữa.”

Ô Hành Tuyết nói, “Người đó mơ thấy như thế thật. Cậu ta bảo trên đời không còn ma đầu, cũng không còn tiên, thế gian không có thứ gì lửng lơ trên đầu, sương mù vờn quanh mây núi. Chẳng phải chúng bá tánh vẫn thường lo rằng nhỡ đâu có một ngày Tiên Đô gặp nạn mà sụp đổ thì sẽ đè lên đầu bọn họ đấy sao? Cậu ta cũng bảo không còn tiên nữa thì sẽ không cần phải lo lắng chuyện ấy.”

Tiêu Phục Huyên nhướn mày.

Ô Hành Tuyết nói rồi quay sang hỏi y, “Nghe xong ngươi cảm thấy thế nào?”

Tiêu Phục Huyên ngẫm nghĩ rồi nói, “Thật ra cũng không tệ.”

Ô Hành Tuyết nghe y trả lời thế thì thoáng sững sờ, đoạn bật cười vui vẻ. Nét cười tan vào đuôi mắt cuối mày. Chàng cầm chiếc mặt nạ vân bạc trên tay rồi duỗi ra sau lưng, ngẫu hứng gõ ngón tay lên chiếc mặt nạ khiến nó lắc lư không theo nhịp điệu.

Chàng nói, “Ta cũng thấy không tệ, tốt hơn nhiều so với hiện tại đấy chứ. Thế gian này không còn Tiên Đô cũng không còn Động Ma, rồi toà thành chủ sẽ mở một khu chợ còn tấp nập hơn cả phố núi Lạc Hoa, hoa rộ khắp thành, đường xe rộng thoáng, không cần phải bước ba bước cài một cấm chế, năm bước đặt một kết giới. Và ai cũng có thể yên giấc về đêm.”

Tiêu Phục Huyên lắng nghe chàng nói rồi tiếp lời như đang tán gẫu, “Nếu hoa rộ khắp thành hẳn sẽ có rất nhiều chim tước.”

Ô Hành Tuyết mường tượng đến khung cảnh ấy, cười nói, “Thêm phần rộn rã, thế lại càng hay. Không phải nhân gian cứ luôn yêu thích thay đổi tên các thành trấn và niên hiệu đấy sao. Biết đâu chừng tên của toà thành chủ có nhiều chim tước sẽ đổi theo đấy.”

Tiêu Phục Huyên: “Đổi thành tên gì?”

Dù biết đang nói giỡn thôi, song Ô Hành Tuyết vẫn đưa ra ý kiến nửa thật nửa đùa. Chàng nói, “Dân chúng yêu thích điềm cát lành, ắt rằng nếu có thể nhìn thấy hỉ thước (1) khắp cả thành thì ai cũng vui cười tít mắt, chẳng bằng đặt tên là Thước Đô. Thế có được không?”

(1) Chim hỉ thước còn có tên là chim khách, được coi như loài chim mang lại may mắn, niềm vui cho con người. Tương truyền rằng đêm rằm tháng 7 (thất tịch) có bầy chim hỉ thước bắc cầu cho Chức Nữ qua sông gặp Ngưu Lang.

Tiêu Phục Huyên nói, “Không biết bá tánh nghĩ sao chứ có thể thấy rõ ngươi rất thích tên này đấy.”

Ô Hành Tuyết tặc lưỡi thành tiếng, phóng mình ra trước. Chàng vẫn giữ mặt nạ phía sau lưng, đầu ngón tay khỏ nhẹ từng hồi lên bề mặt để nó loé ra tia sáng cuối xuân.

Tiếc thay, chẳng một dấu hiệu nào cho thấy “Thước Đô” trong câu chuyện vui cười hôm ấy sẽ trở thành sự thật.

Nhân gian vẫn đầy tai ương hỗn loạn, dẫu thi thoảng có vài năm yên ổn không hoạn nạn như đang có chiều ngả về giấc “mộng đẹp” kia, thì đến một năm nào đấy lại xuất hiện tà ma quấy rối chẳng biết từ đâu ra.

Tiêu Phục Huyên quét sạch Côi châu, bình định cánh đồng Gia Minh, vượt qua Xích cốc, bước xuyên biển Vô Đoan thênh thang. Nhưng ở nơi nào cũng chẳng yên ổn được ít lâu, tà ma mới cứ thế lại xuất hiện. Chẳng ai hiểu vì lý do gì mà cứ như vĩnh viễn không thể dọn sạch chúng, vĩnh viễn không thể triệt để trừ khử ngọn nguồn.

Họ không tìm được ngọn nguồn bắt đầu nơi đâu, như thể trời sinh đã thế.

Và câu nói “không còn tiên cũng không còn ma, chỉ còn Thước Đô vạn sự an lành” dường như sẽ mãi mãi chỉ là lời đùa giỡn.

Có đôi khi vào một quãng thời gian nào đó, Ô Hành Tuyết bất chợt nhớ về phố núi Lạc Hoa mà ngờ ngợ mình đã bỏ lỡ điều gì. Thế nhưng chàng mau chóng bị chuyện gì đó khác dời đi sự chú ý…

Rồi ngày qua ngày.

Suốt hơn hai mươi năm, họ vẫn giữ mối quan hệ qua lại với các tiên trên Tiên Đô. Những vị tiên hữu đời trước lần lượt qua đời, và những người còn ở lại thì không mấy thân quen.

Họ vẫn tách biệt nhiệm vụ với Linh đài, đôi bên không làm phiền lẫn nhau.

Nghe đâu Linh đài vẫn không thay đổi gì, họ lắng nghe những nguyện vọng của người trần nhưng không thường can thiệp quá nhiều, chỉ đôi khi sẽ ban phước theo lời dặn dò của thiên chiếu. Từ vết xe đổ của chư tiên đời trước, về sau càng hiếm có ai tái vi phạm thiên quy.

Đã thật lâu Phế Tiên đài không còn hoạt động, dần dà những người trên Tiên Đô gần như quên mất trước đây từng có những vị tiên bị phế, bị đoạ xuống trần gian. Nó tạo nên cảm giác xưa giờ Tiên Đô vẫn luôn như vậy, ngàn xưa muôn thuở, chẳng bao giờ đổi thay.

Thế nhưng thật ra không phải Tiên Đô ổn định trong suốt quãng thời gian đó. Có biến cố phát sinh vào gần cuối của hơn hai mươi năm kia. Chỉ trong một đêm mà toàn thể chúng tiên đều kinh hãi không thôi.

Không biết vì lý do gì, đêm hôm đó vòng xoáy cực hung sát bị áp chế bên dưới Nam Song Hạ bỗng dưng lơi lỏng. Có người đồn rằng Thiên Túc bị thương nặng nên ảnh hưởng đến khả năng trấn áp, không chặn được hoàn toàn sát khí bên dưới kia.

Thế là Tiên Đô chấn động một lúc lâu như vách núi treo cao rung chuyển dữ dội, khiến ai nấy đều thất kinh hồn vía.

Mà tình cờ thay đúng ngày hôm ấy, Ô Hành Tuyết không hay biết gì sự cố này, vì lúc ấy chàng đang phong bế toàn bộ năm giác quan để tĩnh toạ sau khi hoàn thành thiên chiếu trở về.

Thiên chiếu lần này cũng muôn phần rườm rà, dòng rối loạn đan xen phức tạp nên tổn hao nặng nề sức khoẻ chàng. Hơn nữa, số lượng người vô tội bị kéo vào dòng rối loạn ấy nhiều đến kinh hoàng.

Lần này khác với dòng rối loạn của tán tu lúc trước, Ô Hành Tuyết không phải nhìn một người sinh ra rồi chết đi hết lần này đến lần khác. Thế nhưng nó liên luỵ đến rất nhiều người, mà việc phải lần lượt tẩy sạch toàn bộ vẫn không khỏi đẩy Ô Hành Tuyết vào trầm mặc trong một khoảng thời gian rất lâu.

Sau khi ra khỏi dòng rối loạn, chàng không hé miệng nửa lời mà bước thẳng về Toạ Xuân Phong và ngồi lên trường kỷ để nhắm mắt tĩnh toạ.

Hai tiểu đồng tử cũng hốt hoảng, bèn vội vã chạy lại bên chàng, cẩn trọng sờ lên cổ tay chàng mới phát hiện lạnh buốt như băng.

Đây không phải lần đầu chúng thấy chuyện này xảy ra. Hai đứa cũng hiểu đây là thương tổn mà Linh Vương phải nhận sau khi hoàn thành thiên chiếu, khổ rằng có lẽ thương tổn lần này rất nghiêm trọng nên mới ra nông nỗi.

Những lần trước, Ô Hành Tuyết từng giải thích với chúng, bảo đụng phải tình huống này thì không cần hốt hoảng la lối om sòm, cứ đi giải quyết tốt việc của bản thân là được, còn chàng tĩnh toạ an dưỡng rồi sẽ hồi phục trở lại.

Dù chàng đã nhắc lại chuyện này nhiều lần, nhưng khi chúng nhìn thấy sắc mặt đại nhân nhà mình trắng bệch như tờ giấy vẫn sẽ thảng thốt, vẫn sẽ đau lòng.

Mà cậu tiểu đồng tử anh không dám làm phiền đến Ô Hành Tuyết, bèn kéo tay em mình đến bên cạnh cửa. Hai đứa đứng trông bên ngoài cửa nhằm vừa có thể để mắt đến đại nhân nhà mình vừa không ồn ào làm phiền người ấy.

Tính tình cậu em hấp tấp hơn, gặp vấn đề cũng dễ hốt hoảng hơn. Cậu lấm lét nhìn Ô Hành Tuyết mấy lần rồi hạ thấp giọng hỏi anh mình, “Sao đại nhân nhìn như đau đớn hơn tất cả những lần trước vậy.”

Cậu anh nói, “Chắc vì dạo này người thường xuyên nhận thiên chiếu quá.”

Cậu em “Ồ” gật gù, một hồi lâu sau lại hỏi tiếp, “Mà sao mấy năm gần đây nhiều thiên chiếu quá vậy? Em nhớ hồi trước đại nhân có nói là người xử lý vài vấn đề tồn đọng thôi mà. Nếu đã là tồn đọng thì xử lý xong một việc phải bớt một việc đúng không?”

Cậu anh không phản đối, miệng lẩm bẩm theo, “Đúng vậy, nhưng em hỏi anh, anh hỏi ai? Hiện tại đại nhân cũng có quan tâm đ ến ai đâu.”

Cậu em vẫn còn vô cùng lì lợm, bèn nói tiếp, “Vậy… em chờ đại nhân tỉnh dậy sẽ hỏi.”

Cậu anh đâu bịt được miệng em mình, chỉ đành nói, “Tuỳ em, nhưng đừng có chọc giận đại nhân đi đó.”

Mỗi khi Ô Hành Tuyết tĩnh toạ đều sẽ phong bế toàn bộ năm giác quan, thúc đẩy quá trình hồi phục bằng cách giảm thiểu tối đa hao tổn, tránh dẫn đến những mối lo ngại ngoài ý muốn. Thế nên chàng không nghe được đoạn đối thoại của hai tiểu đồng tử. Nhưng những lời chúng đàm luận cũng là điều mà chàng thường trăn trở mấy năm trở lại đây.

Thứ mà chàng chém đứt là những mối rối sinh ra từ tham niệm của người đời năm xưa, lúc họ mượn sức thần mộc để mở ra dòng thời gian rối loạn. Trên lý thuyết, sau khi chàng phong ấn thần mộc rồi thì không phát sinh thêm nữa.

Nếu chàng chém đứt những mối rối tồn đọng, vậy vì sao đã rất nhiều năm rồi mà chúng không hề giảm đi?

Không chỉ không giảm đi mà thiên chiếu mấy năm gần đây còn xuất hiện thường xuyên hơn.

Suy nghĩ dạng này đôi khi lại ngẫu nhiên trỗi dậy, nhưng rất khó nắm bắt và cũng khó lòng kiểm nghiệm. Bởi thế nên dù trong lòng từng có nghi ngờ nhưng Ô Hành Tuyết vẫn hành sự theo chiếu chỉ.

Có điều, mối nghi ngờ này dần tích luỹ từ ngày này qua tháng nọ, năm này qua năm nọ, mỗi lúc một nghiêm trọng hơn. Rồi đến hôm nay đã lên đến đỉnh điểm.

Bởi thiên chiếu lần này xuất hiện quá nhiều dòng rối loạn, liên luỵ đến quá nhiều người.

Chàng không còn lý do để thuyết phục bản thân, đã làm Linh Vương phụng mệnh thiên chiếu hơn trăm năm mà đến giờ dòng rối loạn vẫn còn nhiều như thể những mối rối tồn đọng kia chưa hề biến mất.

Nhưng nếu đó không phải tồn đọng thì là gì?

Còn có thể là… cái gì?

Trong lúc mất hoàn toàn năm giác quan, ngồi tĩnh toạ trên trường kỷ, Ô Hành Tuyết không nghe được thắc mắc của tiểu đồng tử, không hay biết biến cố trên Tiên Đô, cũng chẳng nhận ra gió đêm đang mơn man lướt qua Toạ Xuân Phong luôn san sẻ khí hậu với nhân gian.

Giữa bóng đêm thăm thẳm và sự tĩnh lặng phủ trùm hết thảy, câu hỏi kia nảy nên liên tục —

Nếu không phải tồn đọng thì là gì?

Là gì…

Là ai…

Những câu hỏi này quấn rịt chàng như tâm ma, mỗi khi chàng tự hỏi thêm một câu thì tâm trạng u uất và xót xa càng trĩu nặng. Nó tựa như một vũng lầy vô biên, còn chàng đang lún sâu bên trong, chỉ có thể buông mắt nhìn bản thân bị nhấn chìm từng chút một.

Và khi càng chìm sâu xuống dưới, cái lạnh rét thấu xương và cơn đau âm ỉ lại càng trở nặng, nghiêm trọng đến độ chàng có thể cảm giác rành rành dù đã phong bế năm giác quan.

Cứ như thể cảm xúc ấy không đến từ thân thể hay xương tuỷ mà bắt nguồn từ trái tim, từ linh phách, mà chàng không cách nào tránh né được.

Trước đây, khi mấy đồng tử lo lắng, chàng thường giải thích với chúng là: “Đây là gánh nặng Linh Vương cần phải nhận.”

Người thường không nên đi lại giữa “quá khứ” và hiện tại, chàng lại tới lui tự nhiên đến vậy nên cần phải trả một cái giá đau đớn, thương tổn ở một mức độ nào đấy. Đây âu là lẽ thường tình, giống như Tiêu Phục Huyên giết tà ma sẽ có lúc bị thương hoặc bị tà ma khí ăn mòn vậy.

Mọi người có trọng trách của riêng mình, có gánh nặng của riêng mình.

“Nhưng không cần cau có,” chàng thường an ủi hai đứa nhóc lúc sợ hãi lúc la hét, nói, “vẫn còn có bù đắp cơ mà, này, đại nhân của các ngươi có thể tự lành lặn đấy thôi.”

Chàng luôn phải chịu đựng cái đau đớn lạnh buốt này, nhưng bù lại chàng luôn có thể tự lành lặn. Việc này khác với những tiên nhân khác phải cần lập trận, phải cần uống canh thuốc hoặc đan dược. Tuy vậy, vẫn khó tránh khỏi tổn thương mỗi lúc một nặng nề hơn.

Thường chàng chỉ cần tĩnh toạ qua một hai ngày là cơn đau buốt vì lạnh trên cơ thể sẽ tự động biến mất mà không để lại hệ quả gì. Chàng cũng hay đùa rằng, đây có lẽ là một điều phúc báo chỉ dành riêng cho mình Linh Vương.

Tuy nói những lời này để dỗ dành tiểu đồng tử, nhưng trong lòng chàng đây chớ hề là một niềm an ủi. Sau những lần quay về từ dòng rối loạn, có đôi khi chàng chìm vào mê mang không biết mình rốt cuộc là tiên hay là ma.

Là tiên… thì chẳng phải nên ban phước lành hay sao? Chẳng phải nên diệt trừ tà ma hay sao? Tại sao chàng toàn xuống tay giết người sống vậy?

Là ma… vậy lý do gì chàng lại ở trên Tiên Đô, mang trên mình phong hào “Chiêu” ngời ngời chói loá?

Những khi tĩnh toạ, chàng vẫn thường lâm vào nỗi cô liêu này, mãi cho đến khi sức mạnh tự lành trỗi dậy bao bọc khắp cơ thể như làn nước ấm rót lên mặt nước đã thành băng.

Vào khoảnh khắc ấy, dòng nước ấm phủ kín nỗi cô liêu khiến nó dần hoà tan rồi phai nhạt.

Và chàng sẽ cười tự giễu trong lòng, thầm nghĩ: Nhìn xem, vẫn còn phúc báo.

***

Nhưng hôm nay không như thế.

Có lẽ vì không cách nào tránh thoát khỏi những câu hỏi tự vấn, hoặc vì hôm nay cái lạnh thấu xương trở nặng hơn bao giờ hết, nặng đến độ khả năng tự chữa lành kia cũng dường như không áp chế nổi…

Bởi vậy, cái lạnh rét này rạch xuyên năm giác quan gián đoạn, tràn vào linh phách, xương tuỷ, trái tim… xuyên qua hết thảy mọi nơi đặng đổ ào về phía chàng, khiến chàng lạnh lẽo đến mức cứng đờ cả đầu ngón tay.

Khoảnh khắc nào đó, Ô Hành Tuyết chợt nhớ về vài đoạn thoại nghe được giữa lúc hàn huyên…

Người ta nói những tà ma giết chóc vô độ dưới nhân gian cũng có điều kiêng kỵ chứ không sống cả đời sung sướng. Chúng cũng trải qua những lúc gian nan, và quãng thời gian khốn khổ đó được gọi là “kiếp kỳ”.

Nghe đồn kiếp kỳ của tà ma mang đến cơn đau mà người thường khó lòng mường tượng nổi.

Cơ thể chúng trở lạnh, cái lạnh lẽo không phải như đứng giữa trời đông dài dẵng, đó là cái lạnh do những âm hồn đầy oán hận đã chết dưới tay chúng bám lên thân thể mà thành. Nó giống như thứ ung nhọt ủ không ấm và xua không tan, sinh sôi từ xương tuỷ và không ngừng lan tràn trong cơ thể tà ma.

Chúng cũng sẽ đau đớn. Đó không phải cơn đau xác th1t, mà là sự phản phệ của những oan hồn chết thảm không cam lòng đã gặm nhấm trên linh phách của tà ma suốt đêm ngày, khiến chúng đau đớn.

Nếu tà ma vượt qua được kiếp kỳ, oan hồn sẽ tạm thời ngủ đông không hoạt động cho đến khi oán khí tích tụ đầy đủ mới trỗi dậy lần nữa.

Nếu tà ma không tìm được cách vượt qua an toàn, chúng sẽ cảm thấu một cái chết đau khổ cùng cực — bị sương giá đóng băng xương tuỷ, linh phách bị cắn nát không còn gì.

Khi nhớ đến những lời này, Ô Hành Tuyết bất giác dấy lên một ý nghĩ nực cười —

Chàng nghĩ thầm… không phải mình cũng như thế sao?

Cái gọi là “gánh nặng của Linh Vương” và “kiếp kỳ” của tà ma có khác gì nhau đâu? Đó cũng là buốt giá thấu xương, là cơn đau khi linh phách vỡ tan từ trong sâu thẳm, rồi cả… cũng từng giết qua cơ man người.

Chàng thậm chí còn nghĩ, nếu mình cũng là một tà ma dưới nhân gian thì số người mình từng giết là ít hay nhiều?

Chỉ e trên tay tà ma cũng không bám nhiều máu bằng mình đâu.

Một khi ý nghĩ này nhen lên thì tìm cách xua nó đi còn khó hơn lên trời.

Điều làm chàng khốn đốn nhất là việc chính bản thân chàng cũng không nghĩ ra một lý do nào để xua ý nghĩ này đi.

Vì chàng là Linh Vương? Vì chàng là một vị tiên?

Vì chàng không còn sự lựa chọn nào, bị buộc phải làm vậy?

Chàng không nhớ mình đã từng nói với ai đó rằng, tà ma giết người, một số hiệp khách trong tiên môn cũng từng giết người. Nhưng khác nhau ở chỗ tà ma giết người nhằm mục đích tu hành, chúng làm thế suốt đời, liên tục không ngừng nghỉ. Còn những vị hiệp khách tiên môn phải rơi vào đường cùng mới làm như thế, và cũng chỉ giết vài lần thôi.

Còn chàng thì sao…

Liệu chàng có điểm kết không?

Chàng đã từng đoan chắc rằng chỉ còn một số ít dòng rối loạn còn thừa lại mà thôi, rồi sẽ có một ngày chàng sẽ cắt đứt toàn bộ những dòng rối loạn đó, và sau đấy mọi chuyện đều chấm dứt.

Nhưng hiện tại, chàng không cảm thấy tin chắc được nữa…

Nếu chuyện này không có hồi kết, nếu cuộc đời này, chỉ cần chàng còn làm Linh Vương một ngày thì phải đảm đương công việc này một ngày. Nếu số lượng người chết dưới tay chàng chỉ mỗi ngày thêm chồng chất, vậy chàng và tà ma khác nhau ở đâu?

Ngay bản thân chàng cũng không tách biệt rạch ròi được.

Chàng cần một câu trả lời rõ ràng…

***

Khi đứng run cầm cập ngoài cửa, hai tiểu đồng tử mới nhận ra trong phòng lạnh đến mức độ nào. Khí lạnh trên người Linh Vương không đường che giấu, lan ra đến tận bọn chúng.

Lạnh quá đi mất!

Tiểu đồng tử đưa mắt nhìn nhau rồi hớt hải chạy vào trong phòng, nghiêng đầu xem thử thì thấy trên ngón tay Linh Vương đã bọc một lớp trắng xoá lạnh lẽo.

Đây là… sương giá.

Tình huống này thật sự khiến chúng hoảng hốt, chúng bèn vội vã nắm lấy ngón tay Linh Vương lay lấy lay để. “Thưa đại nhân —”

Tiếp sau đó, Linh Vương đột ngột mở mắt ra.

Tiểu đồng tử mừng húm trong lòng, thốt, “Thưa đại nhân, người tỉnh rồi ạ, doạ bọn ta —”

Chữ “sợ” còn chưa thành tiếng, chúng đã thấy ánh trắng loé lên trước mắt. Chiếc trường kỷ hoàn toàn trống không, chỉ còn sương mù đạm nhạt lạnh lẽo.

Tiểu đồng tử lao ra cửa sổ, hô to, “Thưa đại nhân! Người đi đâu thế ạ?”

Lát sau, chúng mới nghe giọng Ô Hành Tuyết truyền vào trong gió, đượm chút nghẹn ngào vô cớ giữa mênh mang. Chàng nói, “Phố núi Lạc Hoa.”

***

Chàng cần một ít bằng chứng để có thể thuyết phục bản thân rằng thần mộc đã hoàn toàn bị phong ấn, không còn bị người lợi dụng sức mạnh tạo ra những rắc rối mới, thuyết phục bản thân rằng sự giết chóc và nỗi bất lực của bản thân rồi sẽ có hồi kết.

Thuyết phục bản thân rằng những gì chàng đã và đang làm là điều hữu ích.

Chàng muốn đến phố núi Lạc Hoa.

Nơi đó là địa điểm nhộn nhịp và bình yên muôn thuở giữa thế gian loạn lạc, đó là cấm địa phong ấn thần mộc. Chàng muốn đến xem một lần.

Song khi chàng dừng chân giữa phố núi Lạc Hoa, ánh đèn lồ ng trải dài mười hai dặm không khiến chàng cảm thấy chút nhộn nhịp bình yên nào. Đó là vì trên đường đi giữa dòng người trên phố núi, chàng tình cờ gặp phải một chuyện…

Chàng đứng trước cửa một nhà trọ, đưa mắt nhìn đám người đang tụ tập cách đó không xa, lắng nghe tiếng người thảo luận xôn xao, ngửi mùi son phấn nồng nặc đến phát sặc trong gió đêm, mà trái tim như sa vào hầm băng.

Chàng thấy một tiểu nhị ốm tong teo leo lên chiếc xe bị lật, dõng dạc giải thích với những người đang ồn ã, “Xin các chư vị khách quan chớ vội, khoan hãy mắng, mong mọi người tạm thời bình tĩnh chút. Nhà Lý Ký bên cạnh vừa đem phấn mặt ra khỏi quán, không may va phải đá lở lật xe, làm mấy hộp son phấn mỹ phẩm đổ ra trên đất. Hiện tại đã thu dọn xong xuôi hết rồi ạ.”

Thời khắc đó, bột phấn mặt thốc lên vì gió.

Ô Hành Tuyết khép mắt lại.

Chỉ cần người tiểu nhị ốm tong kia nói câu đầu tiên là trong đầu chàng đã có thể nảy ra câu tiếp theo. Bởi hơn hai mươi năm về trước, chàng từng nghe thấy câu thoại y hệt đúng tại nơi này.

Khi đó chàng tình cờ gặp Tiêu Phục Huyên, rồi sau còn gửi thư cho tiểu đồng tử bảo chúng đừng đến với lý do là chiếc xe này bị lật làm đổ son phấn ra ngoài.

Cùng một cảnh tượng, cùng một người, cùng một một câu nói.

Nhân gian không có loại luân hồi này, thứ duy nhất có thể tồn tại truyền đời như vậy, chỉ có trói — xuất hiện khi linh phách con người bị rút sống rồi trói vào một vùng đất nhất định. Khi đó thể xác họ sẽ hoá thành trói, giữ chân họ ở vùng đất này mãi mãi, mỗi hơn hai mươi năm lại luân hồi một lần.

Trẻ nhỏ trưởng thành, người thành niên dần sang luống tuổi. Quá trình này sẽ không ngừng lặp đi lặp lại mỗi một ngày một.

Trước đây chàng đến nơi này khá thường xuyên, chỉ tầm vài tháng là ghé một lần, cách lâu lắm cũng chỉ cỡ một hai năm. Mà mỗi lần ghé đến đều tập trung ngắm dòng người qua lại giữa núi đồi, hoặc… chẳng nhìn cụ thể một ai mà chỉ đơn thuần chiêm ngưỡng khói lửa nhân gian.

Thế mà vào lúc này, vừa khéo lại qua hơn hai mươi năm, vừa khéo để phố núi Lạc Hoa xoay tròn một vòng luân hồi.

Đây ắt cũng là số mệnh định sẵn.

Số mệnh định sẵn rằng Linh Vương cầm trường kiếm trên tay sẽ đến đây và gặp phải cảnh tượng này. Và rồi chàng ta sẽ choàng tỉnh khỏi cơn đại mộng khi trông thấy cảnh tượng đó.

Chàng ta sẽ phát hiện ra nhộn nhịp của miệt núi này là giả, phố núi Lạc Hoa mà chàng ta tấm tắc ngợi ca với bao người đã vắng hơi người sống từ lâu.

Những người nói cười vui vẻ, nhộn nhịp rộn ràng đó đã sớm chỉ là xác rỗng, không khác gì những con hát chàng nặn ra bằng bùa để tạo không khí sôi động.

Sự thật là, chàng đang đứng giữa nơi rộn rã nhất nhân gian, song biết rõ nơi này chỉ là một vùng đất chết.

***

Ô Hành Tuyết chẳng còn nhớ mình tiếp cận nhà trọ kia thế nào và làm sao tìm được cửa vào cấm địa ở sân sau. Chàng chỉ nhớ rõ mồn một khung cảnh hiện ra khi chàng đứng bên trong cấm địa, trước mắt là vô vàn những linh phách treo ngược không đếm xuể bên trong ngôi đền giữa khoảnh đất hoang cằn cỗi trải dài mấy trăm dặm. Cảm giác đau thương và ngang trái hoàn toàn nhấn chìm chàng vào trong.

Nhìn mà xem, những người từng nói chuyện với chàng ở phố núi Lạc Hoa đều đang mắc kẹt thành chùm nơi này. Trong khi thể xác họ tươi cười bên ngoài phố núi Lạc Hoa, linh phách họ đang khóc rền nơi đây.

Đây không phải cấm địa chàng lập nên, đây là cấm địa được thiết lập lại sau này mà chàng không hề hay biết.

Thế nhưng…

Có ai trên đời có khả năng đặt phong ấn vào cấm địa này lần nữa mà không để bất kỳ ai hay biết?

Không có ai.

Bởi dầu gì đi nữa, Thiên đạo Linh đài cũng sẽ biết.

Vậy tại sao lại xuất hiện phong ấn lần hai?

Bởi vì cấm địa thần mộc vẫn bị người lọt vào, vẫn bị người lợi dụng cho mục đích riêng.

Vô luận ai là người đã thực hiện việc này, vô luận người nọ đã tung những loại thuật pháp che mắt nào hay bày ra bao nhiêu rào cản đánh lạc hướng đến độ có thể che mắt tất cả mọi người, tránh được sự chú ý của chàng, thì cũng không thể trốn thoát khỏi Thiên đạo Linh đài.

Chìm giữa cảm giác trái ngang và đau thương xuyên trời thấu đất, Ô Hành Tuyết chợt giật mình nhớ đến một vài sự việc mình đã quên mất lúc trước, ví dụ như dòng rối loạn do nhà họ Phong phát động nên.

Khi đó chàng bị dòng thời gian rối loạn kia đẩy ra ngoài và mất đi ký ức, sau khi trở về Toạ Xuân Phong với lòng đầy hiềm nghi nhưng không xác định được đáp án…

Giờ nghĩ lại mới thấy, có lẽ không phải chàng không xác định được đáp án mà đã tránh né đáp án trong vô thức.

Bởi đáp án đó quá đỗi nặng nề, không một ai có thể chấp nhận nổi.

Ngay cả chàng cũng không thể chấp nhận nổi.

Thế nhưng hiện tại, khi chính chân chàng tìm đến nơi này, có muốn tránh cũng không thể tránh được nữa.

Còn có ai khác có thể xoá sạch ký ức của Linh Vương, khiến Linh Vương quên đi dòng rối loạn này.

Chỉ có thể là Thiên đạo.

Thiên đạo Linh đài có liên kết đặc biệt với chàng, có thể nói là cùng nguồn cùng cội, cùng sinh ra từ thần mộc.

Khi thần mộc bị phong ấn, phần sinh tử luân hồi hoá quy về trời, trở thành Thiên đạo Linh đài của đời sau. Còn phần nhận được phàm nhân cảm mến hoá sinh thành chàng, triệu hoán thành Linh Vương trên Tiên Đô, ban tự là Chiêu.

Dù cả hai cùng nguồn cùng cội, nhưng về bản chất không giống nhau.

Thiên đạo vô hình vô trạng, vô tâm vô dạng, đè nặng bên trên toàn bộ Tiên Đô.

Nó không hỏi về sống chết, mà chỉ bàn về mối quan hệ giữa thiện và ác, giữa phúc và hoạ. Nếu thế gian này có tiên, hiển nhiên cần phải có ma. Đã có người ra đời, ắt phải có người chết đi. Mà tiên càng nhiều thì ma càng đông. Sinh tử càng nhiều thì những người sống không cam lòng lại càng đông.

Nếu nhân gian còn tồn tại những tham lam, sân hận, si mê, và thần mộc hãy còn đấy thì luôn luôn sẽ có người nghĩ ra cách tìm được lỗ hổng. Bởi suy cho cùng, nơi cuối những dòng rối loạn còn có một Linh Vương trấn thủ.

Vì vậy…

Dẫu cho chàng đã chém đứt vô số dòng rối loạn nhưng vẫn không ngừng nhận tiếp thiên chiếu mới.

Vì vậy, chỉ cần thần mộc còn tồn tại một ngày, con đường chàng dấn bước sẽ không có điểm dừng, người chết dưới tay chàng không bao giờ hết.

Ô Hành Tuyết suýt bật cười vào khoảnh khắc đó.

Chàng ngẩng đầu.

Bầu trời cấm địa không xanh trong bao la như trên Tiên Đô, khung trời nơi đây đen thẳm không nhìn thấu, hệt như sương mù dày đặc dai dẳng quanh năm.

Đôi mắt dài nheo lại, tròng mắt đã hoen đỏ. Chàng nhớ về những gương mặt trong dòng rối loạn, những gương mặt lạ lẫm, hoảng sợ, bất lực, và quá đỗi bi thương…

Dẫu là nét mặt nào đi nữa thì khi từ giã cõi đời cũng đều trở nên trống rỗng vô hồn. Qua trăm năm, chàng đã nhìn không biết bao nhiêu ánh mắt đột ngột vô hồn như thế.

Chàng nhìn bầu trời dõi hoài không thấy, đôi môi khẽ mấp máy.

Chàng muốn nói…

Ngươi có biết, họ đều là những người còn đang sống không?

Ngươi biết trăm năm qua, ta đã giết hết thảy bao người như thế không?

Chàng cười thật khẽ.

Linh Vương…

Được trời ban danh tự “Chiêu”. “Chiêu” giả, huy hoàng rạng rỡ (2).

(2) 昭者,光辉灿烂。: chữ “giả” ở đây là giả trong “học giả”, ý chỉ người – giải nghĩa cả câu: người có tên là Chiêu là người sáng ngời rực rỡ.

Chàng có chỗ nào huy hoàng rạng rỡ, chàng có cách nào đảm đương bốn chữ Linh Vương Tiên Đô?

Bằng những vong hồn ấy thôi đã đủ để chàng trở thành ma đầu đáng chết nhất thế gian.



Lời tác giả:

Ngủ ngon QAQ, tui quỳ đây

Cá:

Em thấy tác giả quỳ mà em muốn quỳ theo khóc lóc kêu bả đứng lên đi chứ không là em sẽ đọc truyện trong nước mắt đó. Mấy nay em up truyện chậm vì mấy chương này làm em trầm cảm quá, gõ hai câu là bắt đầu sụt sùi… 
Bình Luận (0)
Comment