Bảo Vật Giang Hồ

Chương 3

Đến ngày thứ ba, Ngũ Thập Lang cuối cùng cũng được ở trong khách điếm đàng hoàng. Trước cửa khách điếm có treo một tấm biển hiệu sắp rớt, lệch hẳn sang một bên vì bị rơi mất một chiếc đinh. Ngay cả một người vóc dáng tầm thước khi bước qua cửa cũng sẽ bị cộc đầu vào đó, nên tấm biển cứ rung lên liên tục. Trên đó có hai chữ lớn màu đỏ rực được viết một cách cực kì hào sảng: “Quỷ Ốc[1]”. Một cái tên vô cùng gợi hình tượng và sát thực! Bao trùm lên toàn bộ khách điếm là một màn đêm u tối, thỉnh thoảng tứ phía lại lóe lên một luồng sáng màu xanh rùng rợn. Người đi ra mở cửa cầm theo một chiếc đèn dầu nho nhỏ, lốc ca lốc cốc, nặng nhọc cánh cửa được ra. Ánh đèn dầu chiếu rọi lên khuôn mặt của người đó, trông vô cùng đáng sợ và ma mị. “Xin hỏi, khách quan đi mấy người?” Người thủ lĩnh của đám hộ vệ do dự một lúc rồi lên tiếng trả lời: “Ngoại trừ vị tiểu thư này lấy một căn phòng thượng hạng ra thì những người còn lại đều dùng phòng chung hết.” Ngũ Thập Lang suýt chút nữa thì phụt máu mũi. Họ thực sự là những nô bộc quá đỗi tuyệt vời, ra ngoài làm việc công vậy mà vẫn không quên tiết kiệm tiền cho chủ nhân. Vậy nên, cô lại càng quý mến mấy người này thêm một chút. Có điều, Ngũ Thập Lang không hề biết Ngự Kiếm sơn trang sẽ trả cho bọn họ không thiếu một đồng. Tuy nhiên, những người hộ vệ này do trước kia đã từng lăn lộn trên giang hồ một thời gian dài nên thừa hiểu giang hồ hiểm ác thế nào, bởi vậy, họ làm chuyện gì cũng rất thận trọng, hễ nhìn thấy tiền là lại muốn cất đi, có một đồng cũng phải tính toán tiêu làm mười phần, vì thế chi tiêu cân nhắc kĩ càng, vô cùng dè sẻn. Thời gian lâu dần, sống trong môi trường như vậy, trong Ngự Kiếm sơn trang tự giác hình thành một thói quen. Ngay cả mấy vị phu nhân cao quý cũng là những người cực kì tham mua đồ rẻ. Chỉ cần thấy kho vải xả hàng thanh lí là họ lại hóa thân thành các “nữ cường nhân”, mỗi người khiêng về mấy khúc vải lớn rồi để đó dùng suốt mấy năm trời. Chủ nhân đã thế, các hộ vệ trong trang lại càng tiết kiệm hơn, hễ có dịp ra ngoài công cán là tất cả lại tích lũy từng đồng, từng đồng tiền “công tác phí” thừa ra, sau đó gom chỗ ấy lại, để những lúc đêm khuya thanh vắng lấy ra, đếm từng đồng một. Nghe tiếng ngân lượng kêu leng keng trong màn đêm yên tĩnh, ai nấy đều cảm thấy khí thế bừng bừng rồi hứng khởi chìm vào giấc ngủ. Từ đó trở đi, tiết kiệm đã trở thành một thói quen tốt của Ngự Kiếm sơn trang. Chẳng nói đâu xa, ngay công tử Vô Song cũng cả năm trời chỉ thay qua đổi lại mấy chiếc áo khoác dài màu đen, trong cũng vậy mà ngoài cũng thế. Những lúc trên áo không dính bụi thì đó đương nhiên là chất liệu phản quang tuyệt vời, còn nếu như trên đó dính đôi chút bụi thì chỉ cần đưa tay phủi phủi một chút, nó sẽ biến thành thứ vải phát sáng, thần kì vô cùng. Thế nên, chỉ cần một bộ cũng có thể mặc hơn mười tháng trời mà không cần thay đổi. Đó thực sự là thứ quần áo mà người trên giang hồ cần phải có! “Vậy thì xin mời vị tiểu thư này đi theo lão!”. Tay cầm một chiếc đèn dầu tù mà tù mù, bà chủ quán trọ với hàm răng thiếu vài cái nhìn Ngũ Thập Lang, nhoẻn miệng cười. Theo đó, mấy chiếc răng còn sót lại lộ ra, lấp la lấp lánh dưới ánh đèn dầu. Kẽo cà kẽo kẹt, căn lầu càng đi trông lại càng hẹp, đoạn hàng lang tối ngòm như dài thêm trong màn đêm âm u. Ngũ Thập Lang đột nhiên nhớ lại mấy câu chuyện được đăng trên Giang hồ chí số tháng trước nữa. Trong đó có một bài viết khá bổ ích giới thiệu về mấy đặc điểm của các ổ cướp trá hình quán trọ. Thông thường, nếu những quán trọ âm u, tăm tối, chủ nhân trông dị hình dị dạng với khuôn mặt u ám, vừa nhìn là mất cảm tình thì chắc chắn là có vấn đề. Tiếp theo, nếu như đồ dùng trong đó cũ nát, tồi tàn, không khí thoang thoảng mùi máu tanh thì xin được chúc mừng bạn, bởi vì trăm phần trăm bạn đã và đang ở trong một quán trọ trá hình. Quán trọ trá hình một trăm phần trăm! Ngũ Thập Lang vừa đi vừa cảm thấy toàn thân ớn lạnh. Đến bậc thang cuối cùng, bỗng dưng bà chủ quán trọ quay mặt lại, miệng cười hô hô rồi nói: “Cô nương, chỗ chúng tôi đây vô cùng yên tĩnh, vô cùng yên tĩnh…” Chết lặng! Đúng là phí lời, ngoài bọn họ ra, đến một người khách cũng không có thì đương nhiên là yên tĩnh rồi! “Cô nương nghe xem, chẳng có bất cứ tiếng động nào cả.” Đúng lúc ấy, từ dưới chiếc cầu thang bỗng vang lên những tiếng “cót két” đáng sợ, nghe như mấy nhịp gỗ đó sắp sửa đứt đôi ra vậy. Ngũ Thập Lang lập tức quay sang nhìn bà chủ khách điếm với ánh mắt nghi hoặc. Song người phụ nữ đó lại xem chừng vui như trảy hội, cười tít mắt lại rồi nói: “À đúng rồi, tôi quên không kể với cô nương một chuyện…” Ngũ Thập Lang thấy bà chủ kể chuyện cứ lúc ngừng lúc ngắt thì vô cùng chán nản, cô ghét nhất loại người này, chẳng biết nói năng gì cả, rào trước đón sau toàn những lời vớ vẩn, đến lúc cần nói vào trọng điểm thì lại thở không ra hơi. Đáng khinh bỉ, thật là đáng khinh bỉ… Kể một thôi một hồi mà chẳng thấy Ngũ Thập Lang kêu thét hay tỏ vẻ hoang mang, bà chủ quán trọ cụt hết cả hứng, chốt hạ một câu: “Ở đây có quỷ đấy!” Nghe thế, Ngũ Thập Lang bèn há hốc miệng theo phép lịch sự thông thường. Vốn dĩ cô còn định làm mấy bộ dạng hoảng loạn, sợ hãi khoa trương hơn nữa, nhưng ai mà ngờ được, vừa mới há miệng ra, cô đã chẳng thể nào ngăn được cái ngáp bất ngờ ập đến. Ngáp xong, cô đưa đôi mắt long lanh đẫm lệ nhìn vào khuôn mặt vừa xanh vừa đen của bà chủ quán trọ, giọng nói vô cùng hối lỗi: “Xin lỗi nhé, tại tôi thực sự không thể kiềm chế được, chứ lúc đầu, tôi định làm ra bộ dạng hoảng sợ hơn cơ.” Thái độ cực kì, cực kì thành khẩn đó khiến cho bà chủ tức đến nghẹn cả họng, câu chuyện đặc sắc ở phía sau, bà hoàn toàn không còn chút cảm hứng nào để kể nữa. Từ lúc ấy, hai người đều im lặng không nói gì, kẻ trước người sau tiếp tục bước đi. Cứ như vậy mãi cho tới khi bước vào căn phòng được gọi là thượng hạng. Biết nói thế nào nhỉ? Ngũ Thập Lang không ngờ nơi cô cư ngụ tối nay lại “thượng hạng” đến tận mức này: Trên giường không hề giăng màn mà thay vào đó là một cái mạng nhện to đùng, lớp nọ đan lớp kia; chiếc bàn chỉ còn mỗi ba chân, chỗ khuyết còn lại được thay thế bằng hai chiếc ghế tròn một to một nhỏ chồng lên nhau. Điều huyền diệu nhất chính là cánh cửa sổ tàn tạ, lỏng lẻo, bị biến hình nghiêm trọng, cứ nhẹ nhàng bay bay theo gió, phát ra những tiếng cót ca cót két. Thực sự là quá đỗi phong cách mà! Mặt bà chủ vẫn xị ra như lúc nãy, lạnh lùng cầm đèn dầu trong tay bước qua chỗ cô, trước lúc ra khỏi phòng còn ra sức bóp đi bóp lại cánh tay của Ngũ Thập Lang như thể cô là một chú dê béo sấp bẫy vậy. “Tiểu cô nương, cô cứ nghỉ ngơi trong phòng này đi, nhất định sẽ rất thú vị đấy!” Bà ấy đi rồi, Ngũ Thập Lang lập tức bộc lộ vẻ mặt hoàn toàn chán nản. Đêm lặng như tờ, gió cứ vi vút tràn vào trong phòng thông qua khung cửa sổ tàn tạ, thê lương. Chẳng có chỗ để ngồi xuống, Ngũ Thập Lang bèn đi tới cạnh cửa sổ, lặng ngắm khung cảnh bên ngoài. Ngoài trời sương giăng mịt mù, bóng đêm âm u, thỉnh thoảng lại có một luồng sáng màu xanh lóe lên nhấp nháy trong không gian. Trên thế gian này hoàn toàn không có ma quỷ! Ngũ Thập Lang không tin có ma quỷ. Tiêu lão gia càng không tin có ma quỷ. Tại sao ư? Để làm rõ điều này thì phải bắt đầu nói từ lịch sử gây dựng cơ nghiệp của nhà họ Tiêu. Lão tổ tông nhà họ Tiêu làm nghề bán bánh bao, bánh bao của Tiêu gia nổi tiếng khắp thành Dương Châu. Nghiệp này được truyền từ đời này sang đời khác, mấy thế hệ nhà họ Tiêu kiếm sống chính bởi bánh bao. Đến đời lão tổ của lão tổ của Tiêu Ngũ Thập Lang, có một năm, trời giáng thiên tai, đừng nói đến bột mì, ngay cả vỏ cây cũng chẳng còn lấy một miếng. Việc buôn bán vì thế mà tiêu điều đến cực điểm. Lão tổ tông nhà họ Tiêu sau mấy tuần liền đóng cửa vắt óc suy nghĩ, cuối cùng đã đưa ra một quyết định vừa vĩ đại vừa sáng suốt, mang tính vượt thời đại. Chính quyết định này đã mở ra tương lai tươi sáng cho Tiêu gia sau này, trực tiếp thoát nghèo, tiến lên phú hộ. Đó chính là… đi đào mộ phần cổ. Ban đầu, mang theo ý chí “cướp của người giàu chia cho người nghèo” nên Tiêu lão tổ tông thường đem một nửa số tài sản đào được từ mộ phần các hộ giàu có chia cho các hộ nghèo, mỗi người một ít. Nhưng sau đó, càng đào lại càng hăng tay, càng đào lại càng có “đạo đức nghề nghiệp”, Tiêu lão tổ tông đã quyết định: giàu nghèo gì cũng “xơi” tất. Trong những đồ vật đào được, có không ít thứ đã truyền lại cho đời sau. Trong số đó, có một thứ mà Tiêu lão gia thích nhất, chính là một miếng ngọc trắng thượng hạng, bởi vì đã ngấm đẫm máu của người chết nên sau nhiều năm, nó biến thành màu đỏ nhạt sáng bóng, tuyệt đẹp. Khi soi miếng ngọc dưới ánh nắng mặt trời, có thể nhìn thấy các vết máu đỏ như những đám mây tản ra hai bên. Năm Ngũ Thập Lang được năm tuổi, lần đầu nhìn thấy, cô đã rất thích miếng ngọc đó, bèn ăn vạ, quấy khóc mãi không thôi, cuối cùng cũng giành được miếng ngọc từ tay của Tiêu lão gia, sau đó đường đường chính chính đeo trên cổ, nghênh ngang khắp chốn. Nhà họ Tiêu đi lên từ việc đào trộm mộ phần của người khác, lúc đầu còn sợ hãi, hoảng hốt, nhưng sau đó thì trở nên siêu phàm thoát tục, duy trì nghề này qua mấy đời tổ tông. Cho nên, Tiêu lão gia không tin có ma quỷ, Ngũ Thập Lang lại càng không tin có ma quỷ. Nghĩ ngợi một hồi, Ngũ Thập Lang cảm thấy mình vẫn nên đích thân chỉnh trang lại chiếc giường đôi chút. Lúc vừa nằm lên đó, nó liền kêu cót ca cót két, thỉnh thoảng còn có mấy chiến sĩ gián bay qua bay lại. Ngũ Thập Lang quyết định cầm luôn đôi giày trên tay để có thể sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào. Từ lúc bỏ nhà ra đi cho đến bây giờ, cô đã càng ngày càng rời xa con đường tươi đẹp, rộng lớn để trở thành yểu điệu thục nữ mà Tiêu lão gia đã vạch ra. Ngủ đến tầm nửa đêm, Ngũ Thập Lang mơ mơ màng màng lật người sang một bên. Nằm một lúc, cô luôn cảm thấy có thứ gì đó đang nhìn chằm chằm vào mình. Khẽ mở mắt ra, Ngũ Thập Lang lập tức toàn thân hóa thạch. Đứng bên đầu giường là một con nữ quỷ mặc áo trắng, mái tóc xõa xượi phủ trước mặt, dài đến bụng, hơi thở thì nặng nề, vang to như gió rít, xì xà xì xồ. Con quỷ mở mắt trừng trừng nhìn Ngũ Thập Lang, dường như bắt đầu muốn nổi hứng “hành nghề”. Nó vừa uốn éo thân người vừa phát ra những tiếng dị thường, quái lạ. Sau đó, miệng nó bắt đầu lè ra một chiếc lưỡi dài, rất dài. Ngũ Thập Lang chậm rãi ngồi dậy, nghiêm nghị mặt đối mặt với con nữ quỷ, hai tay nắm chặt lấy đôi giày vải, khư khư thủ thế, dáng vẻ vô cùng căng thẳng. Con nữ quỷ lại càng thêm đắc ý, liên tục vung vẩy mái tóc một cách hứng khởi, chiếc lưỡi đỏ lòm cũng theo đó mà lắc lư theo, càng lúc càng mạnh. Đột nhiên, “vèo” một tiếng, cái lưỡi dài dài đó bỗng bay vút ra khỏi miệng nữ quỷ, rơi ngay trên đầu của Ngũ Thập Lang, lướt thướt phủ từ đỉnh đầu cho tới phần bụng của cô. Bàn tay càng nắm chặt hơn, cô gạt phăng cái lưỡi đạo cụ rồi trợn tròn mắt lên, thấy nữ quỷ nhìn cô với khuôn mặt ngẩn tò te, rõ ràng là “trò xiếc” đã hoàn toàn thất bại. Nhưng rất nhanh sau đó, nữ quỷ liền khôi phục hình tượng ghê rợn ban đầu, mái tóc lại rủ xuống trước mặt, cất lên giọng nói trầm trầm, run run, quỷ quái: “Ngươi… không… sợ… ta… sao?” Ngũ Thập Lang nhẫn nại nhắm mắt lại rồi mở ra, đôi tay càng ngày càng siết chặt lại, bình tĩnh nhìn thẳng vào mặt nữ quỷ rồi chẳng nói chẳng rằng, tay vung chiếc giày lên cao, xông đến đập nữ quỷ tới tấp. Mẹ kiếp, con quỷ này nhất định phải dùng giọng nói khó nghe đến mức đó để hỏi cô sao? Vừa đánh vừa thở dốc, Ngũ Thập Lang tức khí đùng đùng, phẫn nộ mắng nhiếc: “Thật là kinh tởm, đã lắc lưỡi thì chớ, ngươi lại còn lắc luôn cả nước miếng lên đầu ta hả?” Bị đánh lia lịa, con nữ quỷ kêu la oai oái, chạy quanh chiếc bàn. Vừa chạy, nó vừa quay đầu nhìn Ngũ Thập Lang với ánh mắt hoảng sợ rồi hét toáng lên: “Ngươi còn tới đây, ta sẽ không khách khí nữa đâu đấy!” Chỉ một câu nói ấy thôi, “trò xiếc” đã lộ tẩy hoàn toàn, nữ quỷ chính là bà chủ quán thiếu răng khi nãy. Đuổi mãi mệt người, Ngũ Thập Lang liền thò tay lôi hai chiếc ghế tròn kê bàn ra rồi ném về phía nữ quỷ. “Bụp” hai tiếng, một chiếc trúng lưng, một chiếc trúng đầu, bà chủ giả ma giả quỷ lập tức ngã sõng soài xuống đất, rên rỉ không ngớt. “Mấy huynh đệ ở lầu dưới của ta sao rồi?”. Bây giờ, điều mà Ngũ Thập Lang lo lắng nhất chính là đám người dưới nhà. Tuy nhìn bề ngoài, họ có vẻ oai phong, uy dũng lắm nhưng trên thực tế thì ngu ngốc vô cùng. “Bọn người dưới nhà đang bị lão già nhà ta giả quỷ hù dọa”. Vừa mới mở miệng nói chuyện, số phấn trắng trát dầy cộp trên mặt bà chủ quán trọ đã rơi rụng lả tả. Hả? Lại còn giả ma giả quỷ có tổ chức, có kế hoạch nữa chứ! Ngũ Thập Lang liền lấy dây trói bà chủ quán trọ lại rồi hét lớn: “Đi xuống, dẫn đường… nhanh!”. Không còn cách nào khác, đám huynh đệ kia chắc phải chờ cô đến cứu thôi. Sờ mó loạng choạng suốt dọc đường, khó khăn lắm, cô mới đi hết được cầu thang. Dưới sảnh tiếp đón trước quán trọ chỉ thắp đúng một ngọn đèn dầu mờ mờ ảo ảo. Trong ánh đèn lập lòe đó, Ngũ Thập Lang phát hiện bà chủ quán đang đảo con ngươi liên xòng xọc, phần miệng thì lấp lánh sáng. Bỗng linh cảm thấy điều chẳng lành, cô đưa tay qua bóp miệng bà chủ, quả nhiên dưới lưỡi của bà ta đang giấu một mảnh dao vừa mỏng vừa sáng. Cái lưỡi cuộn vào, ôm trọn lấy mảnh dao đó. “Bốp”, Ngũ Thập Lang tức giận tát cho bà chủ quán một cái thật mạnh, sau đó một tay bóp chặt lấy miệng của bà ta, một tay lần trong chiếc tay nải tùy thân mà mấy người hộ vệ đưa cho, móc ra một miếng đậu phụ thối nhỏ như móng tay rồi ấn luôn vào miệng bà ta. “Ngươi đã nuốt phải độc dược của môn phái chúng ta rồi, ngoan ngoãn dẫn đường cho ta mau!”. Ngũ Thập Lang hét lớn. Số đậu phụ đó vốn dĩ đã cực kì thối, lại bị mấy tên hộ vệ kia xách đi mấy ngày trời nên đã thiu từ lâu, đừng nói là ăn, chỉ cần ngửi qua thì cũng nôn mửa suốt cả ngày trời. Bà chủ quán trọ bị ép phải nuốt số đậu phụ thối đó, nước mắt nước mũi đầm đìa, cuối cùng cũng từ bỏ việc phản kháng, sau đó hoàn toàn khuất phục dẫn Ngũ Thập Lang tới phòng ở chung của đám hộ vệ nọ. Đến trước căn phòng chung, không khí im lìm, tĩnh lặng, Ngũ Thập Lang đưa chân đạp thẳng vào lưng của bà chủ quán trọ. Tay vẫn đang bị trói nên bà ta lăn lông lốc, đập thẳng vào cánh cửa đánh “rầm” một tiếng. Cửa phòng mở bật ra, trong phòng, ánh trăng dịu nhẹ chiếu sáng lên một đám hộ vệ to cao lực lưỡng đang đứng thu lu, co ro trong góc tường, bàn tay cầm chăn run lẩy bẩy. Toàn thân mồ hôi nhễ nhại, bỗng nhiên nhìn thấy Ngũ Thập Lang xuất hiện với một con nữ quỷ áo trắng bị trói, người nào người nấy đều lấy lại được hồn phách, chỉ ra ngoài cửa sổ, thét lớn: “Tô cô nương, ngoài cửa sổ vẫn còn một con nữa, mặt xanh nanh vàng, đứng đó đòi ăn thịt hết chúng tôi.” Ngũ Thập Lang lại đạp một cước, làm cho bà chủ quán lăn lông lốc một lần nữa, rồi lên tiếng trấn an: “Đừng lo, nó đã ăn phải bùa chú của ta, không thể nào ăn thịt người được nữa đâu. Mọi người hãy xông lên, lóc hết thịt trên người nó cho ta!” Câu nói của cô khiến cho đám hộ vệ kia an tâm hơn nhiều, bọn họ đứng bật dậy, đi ra khỏi xó tường, tay lăm lăm đao, hung hãn xông tới. Thấy thế, con quỷ mặt xanh bên cửa sổ vội vàng ném một thứ vào trong phòng. Sau đó, “bùm” một tiếng, căn phòng chìm trong màn khói mù mịt. Ngũ Thập Lang bịt chặt mũi lại, khói xộc vào mắt khiến cô mặt mũi đẫm lệ. Phải mất đúng một tuần trà, màn khói kia mới hoàn toàn tan hết. Lúc này, cô mới có thể nhìn rõ khuôn mặt của những người còn lại trong phòng. Bà chủ quán trọ đã biến mất, trên mặt đất chỉ còn lại đoạn dây thừng mà một đầu vẫn còn đang buộc trên cổ tay Ngũ Thập Lang. Đột nhiên đám hộ vệ quỳ rạp xuống, dập đầu đầy sùng bái: “Tô cô nương, cô đúng là cao thủ bắt ma diệt quỷ. Ngự Kiếm sơn trang của chúng ta có hi vọng rồi”. Những ánh mắt đó long lanh như thể họ vừa nhìn thấy Bồ tát hiển linh trong chùa vậy. Khóe miệng Ngũ Thập Lang không ngừng co giật, nghĩ một lúc lâu, cô vẫn chẳng thể nào nhịn nổi, lại lắp bắp giải thích: “Thực ra thì… ta thực sự không phải là Tô cô nương.” Thấy tất cả mọi người đều gật đầu lia lịa, tỏ vẻ vô cùng tin tưởng những gì cô nói, Ngũ Thập Lang vui mừng khôn xiết, hứng khởi bảo: “Cuối cùng, các người đã chịu tin ta không phải là Tô cô nương rồi.” Nhưng đám hộ vệ đang quỳ dưới đất nhất loạt lắc đầu nguầy nguậy với khí thế ngút trời. Một trong số họ dõng dạc tuyên bố: “Mọi người nghe cho rõ đây, sau này, chúng ta tuyệt đối không được gọi Tô cô nương là Tô cô nương nữa! Tô cô nương không thích bị gọi là Tô cô nương thì chúng ta phải phục tùng theo một cách vô điều kiện. Nhớ nhé, sau này, không được phép gọi Tô cô nương là Tô cô nương nữa…” Một bài diễn thuyết dài miên man, lê thê được nói ra vô cùng thuận miệng như mây trôi nước chảy… Những người còn lại lập tức gật đầu như gà mổ thóc. Ánh mắt kiện định không đổi, nhìn chăm chăm vào Ngũ Thập Lang với vẻ ngưỡng mộ và sùng kính tột độ. Khóe miệng giật giật, Ngũ Thập Lang mím môi, không nói tiếng nào. Đúng là bó tay, tất cả đám người này không có bất cứ ai bình thường hết… Thực ra, cô còn định bổ sung thêm một câu nữa, đó là “Hai con quỷ vừa rồi kì thực không phải là quỷ”, có điều, nhìn tình hình này, xem ra những người ở Ngự Kiếm sơn trang rất thích mấy trò mê tín dị đoan, e rằng trong khoảng thời gian ngắn ngủi, đôi câu ba câu sẽ chẳng thể khiến bọn họ tin ngay lập tức. Ngũ Thập Lang ngẩng đầu nhìn trời cao cảm thán, mắt buồn đẫm lệ. Phụ thân ơi, mẫu thân hỡi, con gái của hai người hoàn toàn sa sút rồi… Không ngờ bảo bối của Tiêu gia cũng có ngày phải giả làm nữ thần để lừa ăn lừa uống… Trong màn nước mắt long lanh, mấy người Ngũ Thập Lang lại tiếp tục lên đường tiến về phía Ngự Kiếm sơn trang. Đại hội thưởng kiếm vô cùng náo nhiệt, đông vui. Vốn dĩ năm nào cũng thế chẳng có điều gì lạ thường hết. Nhưng vào phút cuối cùng, tất cả các thiếu nữ đến tham dự đại hội thưởng kiếm lần này đều sung sướng tột độ, vui mừng vô song, bởi vì ba đại công tử đứng đầu bảng xếp hạng mĩ nam trên giang hồ đều tụ hội về đây. Đoạn Thủy Tiên sắc sánh mẫu đơn, Lãnh Vô Song lạnh tựa băng sương, cùng với Lạc Cẩm Phong đạm như lan sầu. Ngay lúc vừa xuất hiện, ba chàng thiếu hiệp đã lập tức đánh gục trái tim của biết bao cô gái đang thời xuân sắc. Những anh hùng hào kiệt khác nếu như không phải đến để thưởng kiếm thì quả thực trước tình hình trước mắt có lẽ sẽ chẳng còn tâm trạng nào mà tham dự đại hội võ lâm lần này nữa. Ba vị đại công tử kia sở dĩ có thể khiến cho mọi người hồn phách điên đảo là vì trước nay, họ chưa bao giờ tham gia những đại hội võ lâm kiểu này. Bình thường quả thực rất khó gặp cùng lúc ba người như thế này. Lãnh Vô Song là vì không thèm, Lạc Cẩm Phong là do quá lười, còn Đoạn Thủy Tiên thì là bởi chẳng có ai để đọ sắc cùng nên cũng chẳng có mảy may cảm hứng nào hết. Thế nên, không ai ngờ rằng đại hội lần này lại có thể cùng lúc tập hợp được cả ba người bọn họ. Không cần nghĩ cũng biết những đại hiệp có mặt tại đây trong lòng đang ưu phiền, suy sụp đến mức độ nào. Ngoại trừ Lãnh công tử, hai người còn lại đều tỏ ra không mấy quan tâm đến đại hội thưởng kiếm. Ngó trước ngó sau, nhìn lên nhìn xuống, sau khi quan sát khắp một lượt, Đoạn Thủy Tiên bỗng nhiên sa sầm sắc mặt, chán nản than thở cùng anh chàng hộ vệ áo xanh: “Vô vị quá đi mất, không ngờ cô ấy lại chạy đến chỗ khác chơi.” Người nên đến thì chẳng đến, người không nên đến thì lại ùa tới đông chật như nêm. Đoạn tiểu thiếu gia vừa u sầu phe phẩy quạt vừa không quên biểu lộ vẻ đẹp khuynh quốc khuynh thành của mình. Nâng khuôn mặt lên tầm bốn mươi lăm độ, khẽ nở nụ cười, để lộ ra hàm răng trắng đều, chàng rủ mắt nhìn lướt bóng mình phản chiếu trong ly trà. Quả nhiên là một công tử khôi ngô, tuấn tú, tài giỏi không chê vào đâu được. Thực ra, xét về tướng mạo, Đoạn Thủy Tiên không hề kém cỏi so với Lãnh Vô Song xếp thứ nhất và Lạc Cẩm Phong xếp thứ hai. Nhưng do Đoạn tiểu thiếu gia xuất thân là con nhà thương nhân, lại không hay hành tẩu giang hồ nên tự nhiên bị thiệt thòi hơn đôi chút, đành phải cam phận đứng hàng thứ ba. Tuy rằng ngoài miệng luôn nói không quan tâm chuyện thứ hạng, nhưng thực sự trong lòng Đoạn Thủy Tiên vô cùng để tâm đến vấn đề đó. Chán ghét cảnh đông đúc, ồn ào ngoài đại sảnh, thêm vào đó, đôi kiếm cổ lại chưa được đem ra trưng bày vào ngày đầu khai mạc nên Lãnh Vô Song chỉ xuất hiện thoáng qua rồi nhanh chóng biến mất tăm mất dạng. Lúc này, trong đại sảnh chỉ còn mỗi Lạc Cẩm Phong đệ nhị mĩ nam trên giang hồ đang cau mày nhăn mặt, đưa mắt nhìn xung quanh, càng nhìn càng ảo não, càng nhìn càng thất vọng. Trong khi đó, Đoạn Thủy Tiên ngồi ở một góc, ánh mắt đánh qua đánh lại, liếc nhìn hết lần này đến lần khác, vừa soi hình ảnh của mình trong ly trà vừa lặng lẽ so sánh dung mạo với Lạc Cẩm Phong. Cuối cùng, sau lần thứ một trăm Đoạn Thủy Tiên nhìn qua, Lạc Cẩm Phong cũng bùng nổ tức khí. Áo bào bay phần phật, Lạc Cẩm Phong từ từ bước lại gần, vừa nhếch mép cười vừa nghiến răng ken két hỏi: “Đoạn huynh, phải chăng trên mặt tại hạ có chỗ nào thất lễ, khiến cho Đoạn huynh phải để ý nhiều lần đến vậy?” Vốn dĩ không tìm thấy bóng dáng của tiểu nha đầu Ngũ Thập Lang, tâm trạng đã bừng bừng lửa giận rồi, vậy mà cái tên Đoạn Thủy Tiên đáng ghét với bộ dạng dâm tà này lại dùng ánh mắt gian xảo nhìn qua nhìn lại không biết bao lần, ngọn lửa trong lòng Lạc thiếu gia càng được thể mà bùng cháy cực độ. Đoạn Thủy Tiên ngây người đôi chút rồi nhanh chóng trấn tĩnh, nở nụ cười tươi rói, nói: “Lạc huynh đã nghĩ nhiều quá rồi. Chẳng qua tiểu đệ thấy Lạc huynh cứ liếc bên này bên kia, loanh quanh tứ phía, hình như đang tìm kiếm ai đó, thái độ vô cùng căng thẳng, thế nên mới nhất thời bồng bột nhìn qua, chỉ là quan tâm đôi chút thôi”. Phẩy chiếc quạt đang gập trong tay ra, Đoạn Thủy Tiên tiếp tục mỉm cười. “Không biết Lạc huynh đang tìm kiếm ai vậy? Tam đại công tử võ lâm chúng ta vốn dĩ phải đồng khí tương lân, thế nên, nếu như Lạc huynh có gì cần giúp đỡ, tiểu đệ xin hiến chút sức mọn hết lòng tương trợ.” Lời nói cực kì hợp tình hợp lý, cộng thêm ánh mắt long lanh, chan chứa tình cảm của Đoạn Thủy Tiên khiến cho Lạc Cẩm Phong không khỏi sởn gai ốc. Nghe nói trên giang hồ có không ít nam nhân lẳng lơ, nhìn thấy đàn ông đẹp trai là sẽ sán lại gần, ra sức nịnh nọt, dụ dỗ. Nhìn vị Đoạn tiểu thiếu gia này, dáng vẻ thì phong lưu, đôi mắt đầy tình ý, lại bỗng dưng đối xử tốt với mình, Lạc Cẩm Phong lập tức liệt người đối diện vào loại đàn ông biến thái kia. Mới nghĩ đến đây, Lạc Cẩm Phong bất giác ớn lạnh cả sống lưng. Thấy Đoạn Thủy Tiên đang mở to đôi mắt ướt át, tình sâu ý nặng nhìn mình chớp chớp, chàng lại càng củng cố suy đoán vừa rồi. Thế nên, Lạc Cẩm Phong chẳng muốn đối diện với Đoạn Thủy Tiên thêm dù chỉ một giây nữa, chàng nhanh chóng đưa tay lên, nói: “Đa tạ ý tốt của Đoạn huynh, tiểu đệ xin lĩnh tâm ý của huynh”. Lời nói vừa dứt, người đã bay xa tầm mấy chục mét, nhanh chóng rời khỏi chốn lao xao. Đoạn Thủy Tiên chẳng nói chẳng rằng, ngồi lặng một hồi lâu, rồi đột nhiên quay sang nhìn người hộ vệ áo xanh đứng bên cạnh, vẻ mặt vô cùng sầu muộn, cất tiếng hỏi: “Ngươi nói xem, hắn ta trông tuấn tú hơn hay ta trông tuấn tú hơn?” Người hộ vệ áo xanh lập tức đỏ bừng cả mặt, mãi một lúc sau mới ngần ngại lên tiếng trả lời: “Thiếu gia, cả hai người đều vô cùng tuấn tú ạ.” Đoạn Thủy Tiên đập mạnh lên bàn, nộ khí xung thiên. Không được, phải quay về thay một bộ trang phục diễm lệ hơn nữa, nếu không, cứ thế này mà so bì thì vị trí của mình trên bảng xếp hạng mĩ nam giang hồ càng không thể nào phổ cập gần xa được! Vừa nghĩ đến đây, Đoạn tiểu thiếu gia lập tức không còn chút hứng thú thưởng trà nào nữa, tay áo vừa phật một cái, thân hình đã hào sảng, phiêu linh bay ra ngoài. Đáng thương thay cho người hộ vệ áo xanh, khinh công của anh ta sao bằng được Đoạn thiếu gia, thế nên, chủ rập rờn bay trước, tớ chạy thục mạng theo sau như chó cái đang mùa động đực, miệng không ngừng thở hồng hộc. Sang ngày thứ hai, đại hội thưởng kiếm chính thức bắt đầu, Đoạn Thủy Tiên khoác ngoài chiếc áo màu đỏ tươi, trên vai vẫn đeo đôi kiếm bạch ngọc, theo mỗi bước đi mà phát ra tiếng động vui tai, đầu đội mũ vàng, tóc buộc gọn gàng, trên tay cầm chiếc quạt tơ có phun bụi vàng, càng làm nổi bật khí chất phong lưu, hào hoa vốn có. Vừa đi vừa nhẹ nhàng lắc lắc đầu, tự nhận thấy mình phong độ ngất trời, chàng tự tin bước vào đại sảnh. Phía bên trong, mọi người đã đến đầy đủ, khuôn mặt ai nấy đều vô cùng hứng khởi. Lão trang chủ của Tô Châu đệ nhất trang đã sớm tuyên bố cùng thiên hạ quần hùng rằng nếu ai có thể rút được một trong hai thanh kiếm cổ thì cả đôi Linh Tê bảo kiếm sẽ thuộc về người đó luôn. Nhưng tâm tư của Đoạn Thủy Tiên hoàn toàn không nằm ở đôi Linh Tê bảo kiếm. Sau khi đưa mắt tìm kiếm một hồi, chẳng thấy bóng dáng của Lạc Cẩm Phong trong bộ y phục trắng như tuyết đâu cả, chàng không khỏi thất vọng. Nhưng vừa hay, Đoạn thiếu gia lại nhìn thấy Lãnh Vô Song – người được mệnh danh là đệ nhất mĩ nam giang hồ – với bộ trang phục màu đen đang cao ngạo đứng ngay phía trước. Lưng đeo một thanh kiếm màu vàng nhạt, cả chiếc áo bào dài thêu đúng một đóa tuyết liên bằng sợi vàng ở góc dưới, hai mắt sáng như sao đêm, đôi lông mày rậm, cặp môi đỏ hồng mím chặt lại, chỉ búi một phần tóc trên đỉnh đầu và dùng một chiếc trâm bạch ngọc đơn giản giữ cố định, số tóc còn lại mềm như tơ buông xõa sau lưng, người khoác áo đen, toàn thân Lãnh Vô Song toát ra khi chất lạnh lùng mà cao ngạo. “Tiểu Vệ, ta đẹp trai hay là Vô Song công tử đẹp trai?”. Đoạn Thủy Tiên vừa lấy chiếc gương đồng ra vừa nhìn sang phía Lãnh Vô Song, bất giác hỏi người hộ vệ áo xanh đứng bên cạnh. Nghe thấy thế, ánh mắt của người hộ vệ áo xanh lộ rõ vẻ sợ hãi cùng hốt hoảng. Tối qua, công tử nhà mình cũng hỏi vu vơ một câu tương tự, ngay sau khi nhận được đáp án thì dùng khinh công bay lượn suốt một canh giờ như điên như dại, hại mình chạy theo phía sau, mệt đến mức lè lưỡi thở hồng hộc như chó già chờ chết. Càng nghĩ lại càng thấy kinh hồn, người hộ vệ áo xanh ngẫm một hồi lâu rồi mới thận trọng lên tiếng: “Dạ bẩm thiếu gia, người với Lãnh công tử mỗi người có một nét đẹp riêng ạ.” Không ngờ lại nhận được đáp án kiểu này, Đoạn Thủy Tiên tức giận giơ tay đập vỡ gương, lạnh lùng quay sang nhìn Lãnh Vô Song. Sao có thể dùng mỗi một câu “mỗi người có một nét đẹp riêng” để “an ủi” kẻ đang đứng ở vị trí đệ tam mĩ nam giang hồ như chàng chứ? Thật quá không công bằng! Bị Đoạn Thủy Tiên nhìn chằm chằm đến mức toàn thân sởn ốc, Lãnh Vô Song không nói tiếng nào, chỉ nhìn sang phía Đoạn Thủy Tiên với ánh mắt lạnh như băng cộng thêm chút nộ khí. Trong giây lát bốn mắt nhìn nhau, Đoạn Thủy Tiên bất giác ớn lạnh toàn thân, suy nghĩ một lúc rồi vận công bay ra ngoài. Vừa bay, chàng vừa nhủ thầm: ““Mỗi người có một nét đẹp riêng”, vậy thì Đoạn Thủy Tiên ta cũng sẽ diện một bộ màu đen như Lãnh Vô Song, như vậy người đời tự nhiên mới có thể nhận ra… ta với đệ nhất mĩ nam giang hồ, ai mới thực sự là người đẹp trai, tuấn tú hơn.” Càng nghĩ càng đắc ý, Đoạn Thủy Tiên càng tăng thêm lực dưới chân, bay vụt trên đường chẳng khác nào như chú đại bàng tung cánh. Người hộ vệ áo xanh muốn khóc mà chẳng ra nước mắt, lại chạy lẽo đẽo theo phía sau công tử nhà mình, mệt mỏi rã rời, hơi thở như muốn đứt đoạn. Trái tim của thiếu gia sâu tựa biển cả, khó lòng mà đo đếm được… Đợi đến lúc Đoạn Thủy Tiên thay xong bộ trang phục màu đen, khí thế ngất trời quay lại đại sảnh thì đại hội thưởng kiếm đã kết thúc từ lâu. Công tử Vô Song cũng đã rời khỏi đó từ bao giờ không hay. Để lại không biết bao nhiêu anh hùng, hiệp khách vẫn đang vô cùng tiếc nuối, luyến lưu. Đoạn Thủy Tiên cũng vô cùng lưu luyến, nuối tiếc. Tuy rằng lí do khiến họ tiếc nuối không hề giống nhau, nhưng nhìn chung, ai nấy trong sảnh đều sầu muộn, ưu phiền cả. Đôi Linh Tê bảo kiếm kia bén ngọt vô song nhưng cũng cực kì lạ lùng, cổ quái. Tuy có rất nhiều người khát khao đoạt được bảo kiếm, nhưng nếu không phải là chủ nhân thực sự của chúng thì chẳng thể nào rút được nó ra. Tất cả mọi người đều đã lên thử một vòng, dốc hết toàn lực mà vẫn chẳng một ai có thể làm được. Người cuối cùng lên rút bảo kiếm chính là công tử Vô Song của Ngự Kiếm sơn trang. Những ngón tay thon dài, trắng trẻo kia vừa chạm vào vỏ thì hai thanh Linh Tê bảo kiếm kia lập tức phát ra những tiếng kêu dị thường. Mới dùng chút sức lực, công tử Vô Song đã rút ngay được thanh kiếm Hùng Thanh (tượng trưng cho linh hồn nam nhân) trong đôi Linh Tê bảo kiếm ra. Thanh kiếm mỏng không khác gì tờ giấy, búng nhẹ tay vào, thanh âm liền ngân vang. Quả nhiên là một thanh kiếm cổ thượng hạng! Giữa bao nhiêu ánh mắt đang nhìn mình chăm chăm, tiểu công tử Lãnh Vô Song tự nhiên như chốn không người, gỡ dây buộc kiếm trên lưng xuống rồi cắm đôi Linh Tê bảo kiếm vào, sau đó buộc lên lưng mình với dáng vẻ vô cùng nho nhã, từ tốn. Sau khi chỉnh đốn lại hành trang, y phục, Vô Song công tử không quên vuốt lại mái tóc, cuối cùng không nói bất cứ lời nào, hai chân khẽ nhún, vút bay lên khỏi đại sảnh. Thần tốc không khác nào tia chớp, khiến cho tất cả mọi người đều kinh ngạc, lặng người ngồi đó. Lão trang chủ đã chuẩn bị kĩ càng lời tuyên đang chuẩn bị bước lại tuyên bố cuối cùng cũng đành đứng ngây người trên đài ngoạn kiếm, câm lặng mãi không cất nên lời. Sau phút ngơ ngẩn, ai nấy đều không khỏi trào dâng niềm cảm khái trong lòng: Vô Song công tử đúng là lạnh tựa băng sương… Quả nhiên là danh bất hư truyền. Danh bất hư truyền! Bầu trời xám xịt bao trùm khắp nơi, những rặng liễu bên đường phần phật lay động theo từng trận gió thổi, giống như ma quỷ đang gọi hồn. Càng tới gần Ngự Kiếm sơn trang, bầu trời lại càng thêm u tối, ảm đạm. Bọn người Ngũ Thập Lang bụi trần vượt vạn dặm, mắt người nào người nấy đều hiện rõ những quầng thâm vì thiếu ngủ. Từ sau khi gặp phải quán trọ trá hình, đám hộ vệ kia liền kiên quyết dựng trại ngủ trong rừng, đêm nào cũng ngồi xếp bằng, quây thành một vòng lớn, lấy Ngũ Thập Lang làm tâm, báo hại cô trước khi ngủ, chẳng dám uống một giọt nước nào. Trong niềm ai oán ngút trời, đi rồi lại nghỉ, dừng rồi lại đi, cuối cùng, bọn họ cũng tới được Ngự Kiếm sơn trang. Ngay từ xa, cô đã ngửi thấy mùi máu tanh lòm. Cửa lớn của sơn trang bị người ta xối đầy máu tươi, nay đã khô lại. “Cô nương, đây chính là Ngự Kiếm sơn trang”. Người thủ lĩnh đám hộ vệ vừa nói vừa nở nụ cười mệt mỏi. Tuy nơi họ về nguy hiểm đang rình rập nhưng nói cho cùng thì cảm giác được về nhà vẫn ngọt ngào, ấm áp vô cùng. “Á, thế tại sao trước cửa lại treo lễ trắng thế kia?”. Ngũ Thập Lang chỉ vào chiếc đèn lồng trắng treo trước sơn trang. Nhìn theo hướng tay cô chỉ, người thủ lĩnh lập tức toàn thân run rẩy, nhanh chóng sải bước lại gần sơn trang, miệng hét lớn: “Hộ vệ Trương, hộ vệ Lý, trong trang đã xảy ra chuyện gì thế?” Ngay sau đó, một đám người ở phía trong lũ lượt kéo ra, ai nấy đều đeo khăn trắng, đôi mắt đỏ mọng. “Tam phu nhân qua đời rồi”. Một nam nhân mặt mày thanh tú ảo não cất tiếng, không ngước mắt lên nhìn người thủ lĩnh đám hộ vệ. “Sao lại thế được chứ?” Nam nhân kia vẫn cúi đầu, không trả lời mà hỏi lại: “Thế huynh đã mời được Tô cô nương về chưa?” Người thủ lĩnh gật gật đầu rồi lặng lẽ đứng sang một bên, nhường đường cho Ngũ Thập Lang bước lên trình diện trước mặt mọi người. Chiếc váy màu tím phiêu linh khi trước bây giờ đã biến thành màu tím pha đen, mái tóc dài được tùy tiện buộc túm lại phía sau lưng, đôi mắt linh lợi, trong sáng, dáng vẻ tinh nghịch, hoạt bát khiến Tiêu Ngũ Thập Lang trông cực kì nổi bật. “Tô tiểu thư…”. Đôi mắt của nam nhân thanh tú sáng rực lên, bộc lộ rõ thái độ cầu cứu, chỉ còn thiếu mỗi nước xông đến, ôm chặt lấy Ngũ Thập Lang khóc lóc ỉ ôi mà thôi. “Xin cô hãy thu dọn thứ quỷ quái đó giúp chúng tôi!” “Ta… nhất định sẽ tận sức tận lực”. Lần này đến lượt mí mắt của Ngũ Thập Lang lên cơn co giật. Nhìn thấy bỗng dưng lại xuất hiện thêm không biết bao nhiêu người đặt niềm tin lên mình một cách vô điều kiện như thế, cô lại đưa ra lời giải thích thứ một ngàn lẻ một như mọi khi: “Thực ra… ta không phải là Tô cô nương.” Những người hộ vệ đứng bên cạnh đồng loạt đánh mắt về phía cô, phát ra cùng một tín hiệu, nó có nghĩa là: “Tô cô nương, tại sao cô lại như thế rồi?”. Thôi bỏ đi, có giải thích cũng vô dụng! Ngũ Thập Lang thở dài một tiếng rồi đi theo mấy người hộ vệ kia vào Ngự Kiếm sơn trang. Ngự Kiếm sơn trang cực kì rộng lớn. Ngoài những khoảng cỏ cây tươi tốt, trong sơn trang còn có cả một ngọn núi nhỏ. Cây cối, hoa lá hai bên đường đi đều được cắt tỉa gọn gàng, chăm sóc đâu vào đấy. Tất cả mọi thứ đều quy củ, nề nếp. “Tô cô nương, đây chính là biệt viện của ba vị phu nhân”. Đại ca mặt mày thanh tú dẫn đường quay đầu lại, chỉ tay về phía một trang viện nhỏ nhắn. Ngũ Thập Lang khẽ gật đầu, ra vẻ thâm sâu khó đoán. Tiếp đó, người kia lại dẫn cô tới một trang viện sạch sẽ, giới thiệu: “Tô cô nương, đây là biệt viện của thiếu gia nhà chúng tôi.” Ánh mắt Ngũ Thập Lang sáng lấp lánh như sao trời, khuôn mặt tỏ rõ vẻ sùng bái. Thần tượng của ta, thần tượng xuất kiếm một chiêu Hoàng Sơn vỡ đôi, ôi… Lượn đi lượn lại quanh biệt viện mấy vòng, lúc sau, Ngũ Thập Lang mới thẹn thùng cất tiếng hỏi: “Lúc này… công tử Vô Song có trong biệt viện không?” Đoàn người nhất loạt im lặng, không ai bảo ai mà cùng nhìn về phía Ngũ Thập Lang, sau đó nở ra những nụ cười tươi như hoa. Lần đầu tiên trong đời, Ngũ Thập Lang thẹn thùng đến mức đỏ bừng cả mặt. Mấy người hộ vệ đi cùng cô bấy lâu nay ai nấy đều gật gù, ra vẻ ta-đây-đã-hoàn-toàn-thấu-hiểu, vị đại ca khuôn mặt thanh tú dẫn đường còn nheo nheo mắt nhìn Ngũ Thập Lang, mỉm cười rồi nói: “Thiếu gia nhà chúng tôi sắp về đến trang rồi, khoảng mấy ngày nữa, kiểu gì cô nương cũng sẽ có cơ hội gặp mặt thôi.” Hừm… Rõ ràng là đám người này đã hiểu lầm lòng ngưỡng mộ thần tượng đơn thuần, trong sáng của Ngũ Thập Lang. Chán nản, buồn rầu, Ngũ Thập Lang không nói lời nào, nhanh chóng bước đi, bỏ lại mọi người ở phía sau. Việc cô chạy đi như bay trong mắt của những người còn lại đương nhiên lại mang một tầng ý nghĩa khác. Đầu lĩnh đại ca trực tiếp hộ tống Ngũ Thập Lang về Ngự Kiếm sơn trang quay đầu lại, vẻ mặt nghiêm nghị, lớn tiếng tuyên bố: “Các người tuyệt đối không được đem chuyện Tô cô nương thích thiếu gia nhà chúng ta nói ra đâu đấy! Da mặt Tô cô nương mỏng, nếu như để Tô cô nương thẹn thùng, xấu hổ quá mà bỏ đi mất thì ta sẽ lột da các ngươi!” Khí huyết chảy ngược, Ngũ Thập Lang suýt chút nữa là chạy đến chỗ chậu hoa ven đường, dùng tay ngắt từng cành, từng cành một để xả cơn giận. Trớ trêu thay, mấy tên đầu heo đằng sau lại vô cùng hứng chí, trịnh trọng tuyên thệ: “Chúng tôi nhất định sẽ không tiết lộ việc Tô cô nương thích tiểu gia nhà chúng ta ra ngoài. Nếu trái với lời thề thì sẽ như cái cây này…” “Xoạt! Xoạt! Xoạt!…”, kiếm vung liên tiếp, bên đường rơi rụng không biết bao nhiêu cành cây vô tội. Sự việc xảy ra quá đột ngột khiến cho lão Lưu làm vườn ôm đầu nằm sượt ra đất, miệng ngáp ngáp, người run lẩy bẩy một hồi lâu, khó khăn lắm mới nuốt hết được số nước mắt vào trong. Tất cả những cây “bị hại” đều là cây cổ châm vừa mới được chuyển về từ đầu hạ năm nay, một chậu giá cũng lên tới cả trăm lạng bạc. Vèo vèo ánh kiếm vung lên, số cây mới chuyển về này đều trở thành củi đun lò hết. Đúng là bi kịch thảm thương… Một trận gió lạnh vô tình vút qua, Ngũ Thập Lang im lặng, ngẩng đầu nhìn trời cao, trong lòng dâng trào cảm xúc. Mười bảy, mười tám đại trượng phu thô kệch, khí thế hùng hồn tuyên thệ, giọng nói to một cách quá đáng, dọa cho lũ chim trong rừng bay vút đi rất xa. Trong phạm vi trăm dặm, chỉ cần là người tai không hỏng thì đều biết cả rồi. Ngũ Thập Lang… đã phải lòng Lãnh Vô Song. Vô Song công tử, người có thể một chiêu chém Hoàng Sơn thành hai mảnh. Lần mất mặt này thực sự là quá lớn, quá hoành tráng! Đi tham quan hết cả sơn trang mất đúng hai canh giờ, Ngũ Thập Lang tuy đã quá quen thuộc với việc chạy chơi khắp nơi nhưng cũng chẳng thể nào chịu nổi cuộc dạo chơi dài lê thê này. Bữa trưa được sắp xếp ở sảnh Tụ Hiền của sơn trang. Vì vụ việc của Bích Hà nên nơi dùng cơm trước kia đã khiến người ta không thể nuốt nổi thức ăn ở đó nữa. Bởi vậy, đại phu nhân quyết định chuyển phòng ăn lớn sang đại sảnh chuyên dùng để tiếp đón các nhân sĩ trên giang hồ. Đại phu nhân khoác trên người bộ xiêm y màu nâu nhạt, đứng trước cửa vào sảnh Tụ Hiền, chờ đám hộ vệ đưa Ngũ Thập Lang đến. “Tô cô nương, đây chính là đại phu nhân của Ngự Kiếm sơn trang”. Vị đại ca dẫn đường mặt mày thanh tú nói. Cuối cùng, Ngũ Thập Lang đã biết họ của người này, thì ra đây là hộ vệ Trương của sơn trang. Bình thường, anh ta không nói chuyện nhiều, khuôn mặt lúc nào cũng trầm lặng, bình tĩnh. Nhìn thấy Ngũ Thập Lang gật đầu, hộ vệ Trương tiếp tục nói: “Đây cũng chính là mẫu thân của Vô Song công tử. Thế nên, Tô cô nương à, cô phải đối xử tử tế với phu nhân đấy!” Anh ta vừa dứt lời thì đám hộ vệ ở phía sau nhất loạt gật đầu, tỏ vẻ tán đồng ý kiến, nhanh nhảu đưa lời góp chuyện: “Đúng thế, đúng thế, đại phu nhân rất hiền từ, phúc hậu, sau này chắc sẽ đối xử tốt với con dâu thôi.” Giọng nói to như sét đánh sấm giật. Đại phu nhân đứng rất gần đó, nghe thấy mọi người nói vậy bèn nở nụ cười thân thiện, nhìn Ngũ Thập Lang từ trên xuống dưới. Khuôn mặt tựa đóa phù dung, thái độ thẹn thùng, ngượng ngập của Ngũ Thập Lang tạo cho bà một cảm giác vô cùng thân thiện, gần gũi. Đại phu nhân liền bước xuống thềm, mỉm cười nắm lấy tay Ngũ Thập Lang và nói: “Tô cô nương tướng mạo thực xinh đẹp quá! Trông giống hệt như búp bê bằng sứ vậy.” Ngũ Thập Lang vẫn còn xấu hổ nhưng trong lòng lại vô cùng hân hoan. Lớn đến từng này tuổi rồi song đây là lần đầu tiên cô được người khác khen là búp bê bằng sứ. Xưa nay, cô toàn bị người ta mắng là “heo con”, “khỉ đột”, thậm chí có kẻ còn réo cô là “ngói nát”. Thế nên, chỉ một câu khen này thôi đã đủ để khiến Ngũ Thập Lang vui mừng khôn xiết rồi. Ngũ Thập Lang nắm chặt bàn tay của đại phu nhân, cười tươi như hoa: “Đại phu nhân đúng là nhân từ, phúc hậu, lời nào lời nấy thật thà, chân chất.” Nhị phu nhân cầm chuỗi tràng hạt đứng phía sau đại phu nhân, nghe thế thì khóe miệng co giật một hồi lâu, khó khăn lắm mới nhếch miệng lên cười nổi, cố gắng đưa lời phụ họa theo: “Đúng vậy, đúng vậy! Tô cô nương không chỉ giống búp bê bằng sứ mà còn như được làm từ đậu phụ, mềm mại tựa nước vậy.” Trên đời này, Ngũ Thập Lang ghét nhất là đậu phụ, dính dáp, ghê ghê, lại còn trắng bệch, nhão nhoét. Cho nên, ngay sau khi nghe thấy lời tán tụng của nhị phu nhân, mặt cô tối sầm lại, trong lòng vô cùng tức giận, chỉ muốn tung chân đá cho nhị phu nhân một cước. Không khí đột nhiên lặng hẳn xuống. Trớ trêu thay, nhị phu nhân – một người vốn không có chút óc hài hước nào hết – lại tiếp tục nói thêm: “Trông cô nương vô cùng đáng yêu, nếu như Phật tổ mà nhìn thấy, chắc chắn người sẽ cảm thấy cô nương rất xứng đáng làm Ngọc Nữ đứng cạnh bên Kim Đồng.” Khóe miệng Ngũ Thập Lang càng co giật mãnh liệt hơn, nộ khí lập tức bừng lên hừng hực. Làm Ngọc Nữ chẳng phải sẽ trở thành ni cô sao? Nghĩ tới đây, Ngũ Thập Lang liền chán nản ngậm miệng, không nói thêm lời nào nữa. Nhận thấy không khí đang chùng xuống, đại phu nhân bèn nắm lấy bàn tay cô kéo đi, dắt luôn vào phòng. Một đoàn người vui vẻ, hớn hở đi theo phía sau. Vừa mới ngồi xuống, đại phu nhân đã than ngắn thở dài: “Tô cô nương, đó là một con quỷ vô cùng lợi hại. Liệu cô có thể thu phục được nó không?” Ngũ Thập Lang đang định mở miệng đáp thì đám hộ vệ phía sau đã tranh lời nói trước: “Đại phu nhân, phu nhân yên tâm, bản lĩnh thu phục ma quỷ của Tô cô nương vô cùng cao cường. Trên đường bọn tiểu nhân hộ tống cô nương về đây, cô ấy đã thu phục được hai con quỷ…” Ngũ Thập Lang lập tức mím môi thật chặt, chán nản không nói thêm bất cứ điều gì. Đối với những người đang sùng bái một cách mù quáng thì chẳng thể giải thích cho họ hiểu bằng bất cứ lý do nào cả. Đôi mắt của đại phu nhân lập tức sáng lên ánh nhìn thân thiết, bà vỗ nhẹ vào bàn tay của Ngũ Thập Lang, miệng cười tươi rói, đưa lời hứa hẹn: “Tô cô nương, cô đúng là đại ân nhân của Ngự Kiếm sơn trang chúng tôi. Nếu lần này, cô nương có thể thu phục được con quỷ ác độc ấy, ta sẽ bảo Vô Song múa kiếm cho cô nương xem cả đời.” Ngũ Thập Lang càng thêm bí bách, mắt rưng rưng nhìn đám hộ vệ mặt hớn mày hở, cười nhăn nhở phía sau, chẳng biết đáp lại tấm thịnh tình đó thế nào cho phải, đành chuyển chủ đề: “Đại phu nhân, là cái gì đã tác oai tác quái ở đây thế?”. Cô hoàn toàn không tin vào chuyện ma quỷ tồn tại nên ngay tức khắc hỏi là đang có thứ gì tác oai tác quái. Thái độ của đại phu nhân bỗng nghiêm nghị hẳn lại, mở to đôi mắt u buồn, sầu thảm nhìn lên trần nhà. Sau khoảng một tuần trà, bà đột nhiên nghiến chặt răng, vẻ mặt cực kì hình sự, nói với ngữ khí vô cùng nghiêm trọng: “Là ma quỷ! Là bọn ma quỷ vô cùng ghê gớm!” Thế thì có khác gì so với không nói cơ chứ? Ngũ Thập Lang đành tiếp tục đặt câu hỏi: “Vậy tam phu nhân đã chết kiểu gì?” Cô vừa dứt lời, nhị phu nhân liền khóc òa lên, tay đập bàn liên tục, dáng vẻ đau khổ như mẹ đẻ vừa mới qua đời. Thấy vậy, Ngũ Thập Lang không khỏi xúc động. Xem ra, tình cảm giữa tam phu nhân và nhị phu nhân rất thân thiết. Kì thực thì hoàn toàn không phải như vậy. Đại phu nhân liếc nhìn nhị phu nhân đang khóc lóc đau khổ rồi chán nản quay sang nói với Ngũ Thập Lang: “Thi thể của tam phu nhân hiện vẫn chưa được tìm thấy. Di vật duy nhất mà muội ấy để lại là ở bát canh hạt sen của nhị phu nhân.” Một ngón tay thon dài, trắng trẻo cùng chiếc nhẫn mã não màu đỏ mà tam phu nhân thích đeo nhất được ngâm trong bát canh hạt sen của nhị phu nhân. Nếu không phải hôm đó, miệng nhị phu nhân bị nhiệt nên phải ăn uống vô cùng chậm rãi như thục nữ thì ngón tay ấy đã chẳng tìm thấy được, bởi lúc bình thường, nhị phu nhân toàn nâng cả bát lên, làm một hơi hết sạch, e rằng khi ấy, ngay cả một cái móng tay cũng chẳng còn sót lại. Nguyên nhân thực sự khiến cho nhị phu nhân khóc như bò rống là vì bà không cẩn thận nuốt phải chiếc nhẫn mã não, đến tận hôm nay mà vẫn ăn uống không ngon miệng, bụng dạ chẳng lành. “Vậy nên, Tô cô nương, tới tối mai là đúng ba ngày sau khi xảy ra chuyện, ta sợ thứ ác quỷ đó lại mò tới đây. Chúng ta phải làm thế nào bây giờ, Tô cô nương?” Gần đây, đại phu nhân kiếm bất li thân, hễ hơi lo lắng, căng thẳng một chút là tay bà lại nắm chắc thanh kiếm đó. Ngũ Thập Lang than ngắn thở dài. Thực lòng, cô chẳng thể nào nghĩ ra cách nào cả. Bản thân lại không biết lấy một chút võ công, cứ mơ mơ hồ hồ bị lôi tới đây, giải thích thế nào cũng không một ai tin. Nếu nói đến chuyện phòng bị thì bản thân cô mới chính là người sẽ gặp nguy hiếm nhất. Thế nhưng, cô lại không nỡ lòng nào mà rút lui bỏ chạy, vì nói cho cùng, cô chính là tia hi vọng cuối cùng của họ. Nếu cô cứ như vậy mà lén lút bỏ đi thì chắc chắn mọi người sẽ suy sụp, sầu thảm chết mất. Ngũ Thập Lang đã từng trải qua sự việc tương tự. Hồi đó, cô còn rất nhỏ, bị kẻ xấu bắt cóc tống tiền, bị bịt mắt và nhốt trong một chiếc rương suốt ba ngày ba đêm, không có bất cứ một khe hở nào để trốn thoát. Ở cùng cô còn có một đứa bé trai lớn hơn cô đôi chút. Tuy cậu bé ấy không nói gì nhiều, nhưng lại khiến Ngũ Thập Lang cảm thấy an tâm một cách kỳ lạ, trong mấy ngày đen tối đó, cậu bé đã trở thành tia hi vọng cuối cùng của bản thân cô. Dù không được ăn uống gì trong mấy ngày trời, đám thổ phỉ kia cũng đã từng nghĩ đến chuyện giết con tin bịt đầu mối, nhưng Ngũ Thập Lang lúc ấy chưa lúc nào từ bỏ hi vọng. Bởi vì bên cạnh cô có một người có thể để cô nương dựa dẫm. Khi đó, Ngũ Thập Lang vô cùng hoang mang, cứ nắm chặt lấy vạt áo của cậu bé không chịu buông. Một đứa trẻ năm tuổi tính ỷ lại vốn dĩ rất cao, huống hồ lại còn ở trong tình cảnh khốn khổ đó nữa. Nhưng chỉ một lời hứa rất giản đơn đã giúp Ngũ Thập Lang bình tĩnh lại một cách thần kì. Cô mãi mãi nhớ rằng ngay cả khi đã giằng đứt được dây trói nhưng cậu bé ấy đã vì cô mà ở lại, không trốn đi trước. Cô vẫn nhớ cả đêm hôm đó nữa… Đêm hôm đó, sao trời sáng lấp lánh, ánh trăng chiếu xuyên qua kẽ rương, nhưng ánh mắt của cậu bé đó còn sáng hơn cả sao, cương nghị và chín chắn lạ thường, hoàn toàn không giống với một cậu bé ở tầm tuổi đó chút nào. Cậu ấy đã nhấn mạnh từng chữ hứa với Ngũ Thập Lang rằng: “Ta sẽ không bỏ muội lại một mình đâu. Nếu chỉ một người có thể thoát thân thì muội sẽ là người đầu tiên đi ra khỏi nơi này.” Cậu bé đó vốn rất ít lời, trong suốt mấy ngày hôm đó, những lời cậu ấy nói ra chưa đến hai chục từ. Chỉ duy có câu nói trên là dài nhất, lại còn mang theo một cảm giác vô cùng an toàn, đáng tin cậy, khiến cho Ngũ Thập Lang lập tức cảm thấy an tâm hơn rất nhiều. Thế nên bây giờ, nhìn thấy già trẻ lớn bé trong Ngự Kiếm sơn trang, người nào người nấy đều cực kì hoang mang, hoảng loạn, Ngũ Thập Lang thực sự đồng cảm với họ, thực lòng chẳng thể nhẫn tâm đến mức lén lút trốn đi một mình được. “Tô cô nương, cô nương sẽ giúp đỡ chúng ta chứ?” Không gian tĩnh lặng tới mức có thể nhận thấy chuỗi tràng hạt của nhị phu nhân đang chuyển động một cách bất an. Ngũ Thập Lang khẽ mỉm cười rồi chậm rãi nói: “Ta chắc chắn sẽ không bỏ mặc mọi người đâu. Tuyệt đối là không!” Hơn nữa vài ngày sau, Vô Song công tử cũng sẽ quay về, có một người võ công lợi hại như vậy ở bên cạnh, chắc chắn mọi người sẽ không còn mơ hồ, hoảng loạn. Còn mình, cô sẽ cố gắng ở lại cùng những con người đang vô cùng căng thẳng, sợ hãi này, đợi cho tới khi công tử trở về. Lời hứa của Ngũ Thập Lang chẳng khác nào cơn gió xuân ấm áp thổi thẳng vào trái tim đang run lên vì hoảng sợ, thất kinh của mọi người. Toàn bộ mọi người trong sơn trang lúc này đều thở phào nhẹ nhõm như vừa trút được một gánh nặng, như thể đã tìm ra một ngọn núi vững chãi để dựa vào. Bầu không khí trong sơn trang lập tức trở nên thoải mái hơn trước rất nhiều.
Bình Luận (0)
Comment