Tiểu Ngũ: “Mẫu phi... con không biết ...”
Tống Thái phi: “?!Con còn chưa ôm qua sao?!”
Tiểu Ngũ: ...chưa
Ôn Thái Quý phi hận rèn sắt không thành thép: “Sao con vô dụng như vậy? Tống Mẫu phi con viết bao nhiêu truyện, bao nhiêu chiêu thức như vậy con không học được sao?!”
Tống Thái phi: “Đúng đó! Con sinh ra đã nghe truyện của ta lớn lên rồi mà!!!”
Tiểu Ngũ: “Con đều thử rồi! Con hát liên hoa lạc cho nàng ấy nghe, nàng ấy sợ khóc. Con nhảy từ cửa sổ vào tìm nàng ấy, nàng ấy sợ khóc. Con còn gọi mấy người bạn giả làm kẻ xấu...”
Xong rồi, đứa trẻ ngốc nghếch như vậy chắc chắn xong đời, e là phải độc thân cả đời.
Cuối cùng vẫn là Tống Thái phi đích thân bày mưu, mấy chị em Gia Lạc vắt óc tìm cớ mời cô nương nhà họ Trương "qua phủ một chuyến", gần một năm sau, Tiểu Ngũ mới đắc ý dắt tay vợ mới cưới vào cung cho chúng ta "mở mang tầm mắt".
Thê tử Tiểu Ngũ là một cô gái rụt rè nhút nhát, nói năng nhỏ nhẹ, đứng cạnh Tiểu Ngũ như một tên côn đồ, chúng ta đều không nhịn được mà dặn dò nàng đủ điều: “Nếu Tiểu Ngũ ức hiếp con thì con vào cung nói với chúng ta nha!”
Chúng ta vây quanh tiểu cô nương hỏi han đủ thứ, Thái Đức phi bẻ ngón tay tính toán: “A, con là cháu gái của chị dâu của chị gái của mẹ vợ của em gái ta đó!”
Nàng nâng chén với Ôn Thái Quý phi: “Thông gia khỏe.”
Nữ nhi của Tiểu Tứ đầy ba tuổi, ngọt ngào gọi Thái Đức phi "tổ mẫu", sau đó ngọt ngào hôn bà một cái, Thái Đức phi mãn nguyện, nhắm mắt qua đời.
Nàng ấy vốn dĩ biết đủ thường vui, trước khi lâm chung nói với ta: "Đời ta cũng coi như rất tốt, không chịu khổ sở gì, bình an đến ngày hôm nay, lại có con cháu đưa tiễn, ở trong cung này đã coi như rất tốt rất tốt rồi. Nhưng", bà ấy cười một tiếng, “nhưng ta vẫn nhớ cái sân nhỏ mà ta muốn, kiếp sau chúng ta đừng gặp lại nhau trong cung nữa. Kiếp sau...”
Nàng ấy nói đến đây cười đến mày ngài mắt phượng: “Kiếp sau... ta muốn trồng thường xuân trong sân nhà ta, nếu muội đi qua một cái sân tường đầy thường xuân, nhớ gõ cửa xin ta một bát nước.”
Hình như sợ ta quên, nàng ấy nắm tay ta lặp lại một lần nữa: “Muội đừng quên, đi qua sân nhà ta phải gõ cửa xin nước.”
Năm thứ năm Trường Tư đăng cơ, Uyển Uyển sinh hai nhi tử, ca ca đệ đệ đều được trọng dụng, vững vàng ngồi ở vị trí trung cung, có triều thần đề nghị tuyển tú, kết quả lần tuyển tú này có mấy tú nữ hãm hại lẫn nhau, sinh ra một mạng người, Hoàng thượng giận dữ, hạ lệnh điều tra triệt để, kết quả tra ra có người ngầm hạ độc, có người nhận hối lộ, có người lời lẽ bất kính với Triệu Hoàng hậu... Hoàng thượng lấy cớ này, lôi ra mấy đại thần trong triều, hoặc chém đầu hoặc lưu đày hoặc bãi quan, việc tuyển tú cũng vì thế mà bỏ dở. Triều thần hiểu rõ ý tứ của đế vương, thêm vào đó trung cung có nhi tử, từ đó về sau rất ít người nhắc đến chuyện tuyển tú nữa.
Sau khi Trường Niệm đầy hai mươi tuổi, không hiểu sao, đứa trẻ vốn ngoan ngoãn nghe lời đột nhiên đến tuổi nổi loạn, nhất định đòi ra biên giới tòng quân, huynh tỷ nó không cản được, đến mách ta, ta thở dài nói, tùy nó đi.
Trường Niệm quỳ trước mặt ta vẻ mặt áy náy, ta thì lại nghĩ thoáng, ta nói với nó: “Đi đi, đi khắp nơi cũng tốt, đến Liêu Tây gặp Chu lão tướng quân, thay ta hỏi thăm ông ấy, ông ấy là cữu cữu của tam tỷ tỷ con, là... là tam ca của Trung Mẫn Hoàng Quý phi của Tiên Đế. Con còn nhớ Trung Mẫn Hoàng Quý phi không? Lúc con còn nhỏ đã làm cho con rất nhiều đồ ăn ngon, lúc nàng đi con mới tám tuổi.”
“Con phải nói với ông ấy, tam tỷ tỷ con rất tốt, rất ân ái với tam tỷ phu con, con đừng quên.”
Nó nói: “Nhớ ạ, con nhất định thay mẫu hậu mang lời đến.”
Hai năm sau, Trường Niệm dẹp loạn có công, khí thế ngời ngời trở về kinh đô, mang theo một cô gái áo đỏ sôi nổi, thương đỏ múa như hổ vồ, luôn miệng líu lo bên cạnh Trường Niệm, Trường Niệm nhìn như không để ý đến nàng, khóe miệng lại luôn cong lên.
Cô gái đó họ Chu, lần đầu tiên vào cung đã tặng ta một con dao găm thượng hạng, lại vây quanh Uyển Uyển la hét: “Ngươi thật là xinh đẹp! Ngươi xinh đẹp như vậy, chi bằng theo ta đến Liêu Tây đi! Ở trong cung có ý nghĩa gì chứ!”
Trường Tư và Trường Niệm cùng nhau đen mặt.
Cuối cùng nàng không đưa Uyển Uyển về Liêu Tây, bản thân lại ở lại kinh đô làm tức phụ của ta.
Năm nữ nhi của Tiểu Tứ tám tuổi, vô tình nhắc đến chuyện biểu ca, Vương Thái phi kéo nó hỏi rất nhiều chuyện về ngoại tổ phụ, biết được nhi tử của họ cũng đã sinh đứa thứ hai, đang chuẩn bị tiệc đầy tháng, vui mừng làm một bàn toàn món bé gái thích ăn.
Sau ngày đó bà liền nằm liệt giường, không dậy nổi nữa.
Mùa xuân, nhìn màu xanh biếc của liễu ngoài cửa sổ, nói với ta và Tống Thái phi: “Chúng ta vào cung vào ngày này ba mươi lăm năm trước đó.”
Ba mươi lăm năm, ngay cả xuân quang cũng đã già rồi.
Giọng Vương Thái phi nhẹ như một cơn gió thoảng: “Gặp được các ngươi ta rất vui. Ngài ấy bây giờ con cháu đầy đàn, ta cũng rất vui.”
Dừng lại rất lâu, nàng lại rất khẽ rất khẽ nói: “Không biết ngài ấy còn nhớ ta không.”
Khóe mắt nàng cuối cùng cũng trượt xuống một giọt lệ.
Ta đột nhiên nhớ ra, nhiều năm trước, khi chúng ta còn trẻ, nàng ấy ở Vị Ương Cung thổ lộ tâm sự với ta, ngẩng cao đầu, ngay cả một giọt lệ cũng không chịu rơi.
Vương Thái phi vừa đi, Tống Thái phi người thân thiết nhất với bà ấy cũng ngã bệnh, đến mùa thu, nàng ấy cười híp mắt nói với ta: “Xin lỗi nha, ta chết coi như xong, còn để lại một quyển truyện chưa viết xong cho các ngươi, các ngươi không được giận đó.”
Ôn Thái Quý phi tức giận véo má nàng ấy một cái: “Chết rồi còn làm yêu, nha đầu chết tiệt này.”
Ta nói, nương nương viết xong truyện rồi hẵng đi, có được không.
Nàng ấy khép mắt lại, đột nhiên hỏi: “Mọi người biết không, trong cung nhiều tỷ muội như vậy, ta ngưỡng mộ ai nhất?”
“Ta ngưỡng mộ nhất Vương gia tỷ tỷ, đến chết vẫn có một người trong lòng để vương vấn.”
“Thâm cung này bao nhiêu người, cả đời không kịp yêu người khác, cũng không kịp được người khác yêu, cứ như vậy mà đoạn tuyệt cuộc đời mình.”
“Truyện của ta có kết thúc hay không thì có sao... Thâm cung này bao nhiêu người, bản thân ngay cả một câu chuyện cũng không có, đã kết thúc rồi.”
“Ta thật ngưỡng mộ nàng ấy, ta thật sự rất ngưỡng mộ nàng ấy!”
Cả đời nàng ấy viết rất nhiều truyện, cho mỗi cô gái đều an bài một tình yêu oanh oanh liệt liệt, mà nàng ấy thì chẳng có gì cả, chỉ có một tiếng kêu bi thương lúc lâm chung.
Người quen cũ trong cung lần lượt ra đi, Trường Tư sợ ta và Ôn Thái Quý phi cô đơn, không chỉ ngày ngày cùng Uyển Uyển và hài tử đến dùng bữa với ta, còn thường xuyên cho ca ca tỷ tỷ của nó đến cung ở tạm. Các cháu trai cháu gái chạy tới chạy lui trước mặt chúng ta, cãi nhau rồi lại làm lành, chúng ta chỉ mỉm cười nhìn, nhìn rồi chúng lớn lên, không biết từ ngày nào, chúng bắt đầu gọi ta là "lão tổ tông".
Ôn Thái Quý phi đến chết vẫn không buông bỏ kim chỉ.
Đêm trước khi nàng qua đời, trăng rất đẹp, nàng cho ta xem tác phẩm mới nhất của nàng, là một bức bình phong thêu hai mặt lớn, tám thiếu nữ trẻ tuổi thần thái khác nhau, sống động như thật.
Giữa bức tranh, Tiên Hoàng hậu ôm một tiểu cô nương dựa vào ghế nằm, mỉm cười chăm chú, dường như đang lắng nghe, bên cạnh Hiền phi ngồi trên ghế đá, tay cầm một quyển sách. Bên phải Thục phi tay cầm khay, trên khay rõ ràng là món tủ của nàng ấy đầu sư tử sốt cua, Vương Thái phi khom lưng đang bày biện, còn ta thì đang nhìn Thục phi cười, ánh mắt sáng như sao. Bên trái Tống Thái phi hai tay chắp sau lưng, rõ ràng là dáng vẻ kể chuyện thường ngày của nàng ấy, Đức phi vẻ mặt gấp gáp, tay còn kéo tay áo Ôn Quý phi, Ôn Quý phi quay lưng về phía chúng ta, chỉ có thể thấy tay nàng ấy cầm khung thêu, hơi ngẩng đầu nhìn Tống Thái phi.
Góc trên bên phải của bình phong thêu một hàng chữ nhỏ:
"Chàng nằm dưới suối xương tan rã,
Thiếp sống trần gian tóc phủ sương."
Tuyết đầy đầu, tóc mai của hai chúng ta đã sớm bạc trắng. Chúng ta trong bức thêu này thật là trẻ trung!
Nàng ấy chỉ vào bức bình phong này cười nói: “Nếu trăm năm sau, đem tất cả đồ thêu của ta treo trong một gian phòng cho người đời chiêm ngưỡng, hậu nhân nhất định khen ta là thiên tài.”
Đêm nàng ấy ngủ, còn dặn cung nữ thân cận giúp nàng ấy phân loại chỉ, nàng ấy ngày mai tỉnh dậy sẽ dùng.
Nàng ấy không bao giờ tỉnh lại nữa.
Ta nghĩ, đây là sự dịu dàng lớn nhất của ông trời dành cho nàng ấy, để nàng ấy không chịu chút đau khổ nào. Cũng là sự dịu dàng lớn nhất dành cho ta, ta có thể tự nhủ rằng nàng ấy ngủ rồi, nàng ấy vẫn còn.
Lại không biết bao nhiêu năm trôi qua, ta càng lớn tuổi càng thêm lẫn lộn, bắt đầu gọi nhầm tên các cháu, có một ngày, ta chỉ vào Gia Lạc kinh hãi kêu lên: “Thục phi nương nương, sao tỷ già rồi? Tỷ có tóc bạc rồi?!”
Năm đó Gia Lạc sáu mươi mốt tuổi, đã sớm làm tổ mẫu, nàng ấy tưởng ta đang đùa, tùy tiện đáp: “Con già rồi.”
Ta không vui, ta kéo tay áo nàng ấy làm nũng: “Tỷ sẽ không già đâu! Tỷ đẹp lắm đẹp lắm đẹp lắm!”
Nàng ấy lúc này mới nhận ra sự khác thường của ta, nàng ấy hỏi: “...Mẫu hậu, ngài gọi con là gì?”
Ta nói: “Thục phi nương nương, tỷ ngốc rồi sao? Chúng ta dẫn Gia Lạc đi tìm Hoàng hậu nương nương có được không?”