Trong nồi đang chưng khoai lang đỏ và khoai tây, mùi thơm tỏa ra từng đợt. An Cát ngồi trước bếp nhìn lửa, nghêu ngao hát: "Nhiều năm sau liệu có ai còn nhớ đến ta không..." Hát xong, lòng nàng dâng lên một chút buồn phiền. Ai, nói nhiều cũng chỉ là nước mắt! Nàng đã hồn xuyên đến nơi này từ một tháng trước.
Trước đây, nàng là sinh viên của học viện Trung Y, từ nhỏ đã không có chí hướng gì lớn lao. Trước khi vào đại học, ý định của nàng là sau khi tốt nghiệp sẽ về quê làm bác sĩ nông thôn, giống như ông nội của nàng, trở thành một thầy thuốc được dân làng kính trọng. Nhưng ai ngờ vì trời quá nóng, nàng đã vào ngân hàng để tránh nóng, vừa ngồi xuống chơi điện thoại một lúc thì gặp phải cướp, bị đâm một nhát, tỉnh lại thì đã thấy mình ở nơi này.
Người chủ trước của thân thể này cũng tên là An Cát. Nàng không rõ người này đã chết như thế nào, nhưng sau khi kiểm tra cơ thể thì không thấy có gì bất thường. Chủ nhân cũ là nữ hộ trong làng, tức là người phụ nữ tự mình đăng ký hộ khẩu tại nha môn, thường là những gia đình không có con trai. Để không bị tuyệt hương khói và kế thừa đất đai trong gia đình, phụ nữ sẽ đăng ký làm nữ hộ.
Cha mẹ của thân thể này đã qua đời ba năm trước. Cha của nguyên chủ, An Đại Hà, đã chết một cách bi thảm, bị người ta đánh đến chết. Trước đây, An Đại Hà là một thầy thuốc không chuyên, trong làng ai bị đau đầu nhức óc đều tìm đến ông để chữa bệnh. An Đại Hà tự học y thuật qua sách vở nhờ biết chữ, các bệnh đau đầu nhức óc không phải là bệnh nặng, chỉ cần kịp thời chữa trị và uống chút thuốc thảo dược thanh nhiệt thì phần lớn đều khỏi bệnh. Nhiều năm như vậy, ông cũng có chút danh tiếng trong làng.
Tục ngữ có câu: "Thường đi bên bờ sông làm sao tránh khỏi ướt giày," An Đại Hà đã chữa bệnh cho gia đình Vương Nhị Ma Tử ở thôn Nhị Hà, nhưng sau hai mũi kim, người bệnh đã chết. Kết quả là An Đại Hà chưa kịp rời khỏi thôn Nhị Hà đã bị người ta đánh chết ngay tại chỗ.
Khi vụ việc được đưa lên nha môn, kết quả cuối cùng là: Mặc dù An Đại Hà đã chết, nhưng ông bị phán tội chữa chết người và phải chịu phạt 10 lượng bạc. Gia đình Vương bị xử có tội nhưng vì có lý do chính đáng nên chỉ có Vương Đại Lang bị phán ba năm tù, còn những người khác chỉ bị phạt bạc rồi thả về. Cuối cùng, số bạc từ cả hai gia đình đều vào túi vị huyện lệnh!
Vợ của An Đại Hà, tức là mẹ của nguyên chủ, bà Lâm, đã không chịu nổi sự bất công của phán quyết, và chỉ ba tháng sau bà cũng qua đời. Từ đó, chỉ còn lại nguyên chủ một mình sống nhờ vào chút danh tiếng xấu mà cha để lại. Dù phần lớn dân làng An đều mang họ An, không ai dám khinh thường nàng.
Nguyên chủ tuy biết chữ và có thể chữa được một số bệnh vặt, nhưng vì danh tiếng của cha nàng, không ai đến nhờ nàng chữa bệnh. Do đó, ý định trở thành thầy thuốc trong làng của nàng cũng bị dập tắt. Đương nhiên, nàng cũng chỉ là một tay ngang, không có chứng chỉ hành nghề, chưa từng thực tập ở bệnh viện. Kinh nghiệm thực tập duy nhất của nàng là theo ông nội đi khám bệnh cho dân làng. Nàng thi vào học viện y học cũng là do ảnh hưởng từ ông nội, nhưng với danh tiếng như vậy, nàng không dám mạo hiểm chữa bệnh cho ai, sợ rằng kết cục sẽ giống như cha của nguyên chủ.
Thực ra, trong lòng nàng vẫn nghi ngờ về việc cha nguyên chủ đã chữa chết người. Làm sao có thể chỉ với hai mũi kim mà khiến người ta chết? Có lẽ người bệnh đã mắc phải bệnh cấp tính nào đó, và cha của nguyên chủ chỉ vô tình xui xẻo gặp phải mà thôi.
Nguyên chủ năm nay mười sáu tuổi, chưa lập gia đình, gia sản có ba gian nhà ngói, hai mẫu đất và 508 đồng tiền. Một nửa số tiền đó là do nàng trong một tháng qua lên núi hái thảo dược, phơi khô rồi bán kiếm được. Hai mẫu đất nằm sau nhà, trồng khoai tây và khoai lang đỏ, vì hai loại cây này là cây nông nghiệp có sản lượng cao. Hai mẫu đất trồng khoai lang đỏ và khoai tây này đủ để nuôi sống nguyên chủ suốt một năm và vẫn còn dư.
Những thứ này tuy là đồ vật rẻ tiền, nhưng lại đặc biệt rẻ mạt ở nơi đây, chỉ một văn tiền đã có thể mua được mấy cân. Phía sau nhà còn có một khu vườn rau và một giếng nước, trong vườn trồng một ít rau, phần lớn là cải trắng.
Điều duy nhất đáng mừng là bản thân nàng vốn là con nhà nông, nên cuộc sống ở nông thôn không làm khó được nàng. Sau khi đến đây, ít nhất nàng cũng không bị đói. Trong suốt một tháng tự cung tự cấp, thỉnh thoảng nàng cũng có thể ăn một bữa thịt để thỏa mãn cơn thèm. Tuy nhiên, theo luật hôn nhân của triều Đại Lương, nam 20 tuổi và nữ 18 tuổi phải kết hôn, nếu không sẽ bị quan phủ chỉ định hôn phối, thậm chí còn bị phạt bạc.
Nói đến triều Đại Lương này, không thể không nhắc đến việc hoàng đế hiện tại là một nữ hoàng đế. Qua một tháng tìm hiểu, nàng đã biết triều Đại Lương đã có ba vị nữ đế, điều này vượt quá tầm hiểu biết của nàng. Vì vậy, nàng hiểu rằng đây là một triều đại hư cấu, không từng xuất hiện trong lịch sử mà nàng biết. Còn về việc đây có phải là không gian song song hay một thời không khác, nàng vẫn chưa thể xác định.
Nguyên chủ năm nay 16 tuổi, chỉ còn hơn một năm nữa là đến tuổi kết hôn theo pháp định, vì vậy những ngày gần đây nàng đang lo lắng về việc tìm đối tượng kết hôn. Khi còn học trung học, nàng đã nhận ra mình thích nữ sinh và sau khi thử nghiệm, nàng xác định rằng mình sinh ra đã là người đồng tính.
Thông thường, nữ hộ sẽ chọn rể để kết hôn, nhưng vì nàng không thích nam nhân nên việc chọn rể không phải là một lựa chọn. Hơn nữa, với danh tiếng của nhà nàng, cũng khó mà tìm được ai làm rể. Ở đây, quan niệm nối dõi tông đường rất mạnh mẽ, những người nam nhân chọn làm rể thường là những người có gia cảnh nghèo khó, hy vọng vào tài sản. Vì vậy, dù không phải là ép buộc, nhưng vấn đề kết hôn của nàng cũng là một chuyện lớn.
Tuy nhiên, do Đại Lương triều hiện đang được cai trị bởi nữ đế, nên địa vị của phụ nữ không quá thấp. Nữ đế cũng ban hành một số chính sách có lợi cho phụ nữ. Một trong những chính sách đó là, để giải quyết vấn đề khó khăn trong việc tìm rể của các nữ hộ nghèo, chính quyền cho phép nữ hộ có thể tìm một quả phụ hoặc một người phụ nữ có danh tiếng không tốt để đăng ký kết hôn tại quan phủ, từ đó cũng được coi là đã thành hôn.
Khi biết đến quy định này của triều Đại Lương, An Cát không khỏi kinh ngạc và cảm thán rằng điều này thực sự quá tiên tiến. Tuy nhiên, sau khi suy nghĩ kỹ hơn, nàng nhận ra rằng mặc dù quy định này có vẻ như rất nhân đạo, nhưng thực chất chỉ nhằm giảm bớt gánh nặng cho chính quyền. Rốt cuộc, quả phụ nếu có con thì cuộc sống cũng rất khó khăn, còn người phụ nữ có danh tiếng không tốt thì ai muốn lấy? Ngay cả việc chính quyền chỉ định hôn phối cũng có thể gây thù hằn với người khác, thậm chí có người sẽ kiện cáo tại phủ nha. Thêm vào đó, nữ hộ cũng là vấn đề khó khăn, vì vậy ghép những trường hợp khó khăn này với nhau có vẻ như là một giải pháp tiện lợi.
Sau khi suy nghĩ thông suốt, An Cát hiểu rằng nữ đế thật ra cũng không dám nâng đỡ phụ nữ quá mức, nhưng có thể làm đến mức này cũng đã là đáng kể. Tuy nhiên, dù vậy, nàng vẫn chưa tìm thấy mục tiêu của mình, bởi kết hôn là chuyện cả đời, nên nàng phải tìm được người mà mình thực sự yêu thích.
Thôn Đại Hà tựa lưng vào núi An Lĩnh, phía nam thôn có một con sông nhỏ, là một nhánh của sông Cừ Hà. Theo quan điểm của An Cát, nơi này có núi non xanh biếc và nước trong lành, thật sự không tồi. Tuy nàng không dám đi sâu vào núi An Lĩnh, nhưng chỉ cần hái một ít thảo dược ở rìa núi, phơi khô rồi đem bán cho hiệu thuốc trong huyện cũng đủ nuôi sống nàng. Dù vậy, vì trong tay không có tiền, nàng vẫn cảm thấy lo lắng, nên trong suốt một tháng qua, nàng chưa dám tiêu xài hoang phí.
Khi mở nồi, mùi thơm của khoai lang đỏ và khoai tây bốc lên ngào ngạt. Nàng dùng đũa gắp ra vài củ, đặt vào đĩa rồi mang ra ngoài đặt trên bàn đá trong sân. Ngồi vào ghế đá để thưởng thức, nàng cảm thấy dễ chịu hơn. An Cát không thích ăn uống trong phòng, đơn giản vì ánh sáng trong nhà không tốt, và cũng chỉ có mình nàng nên không cần phải chú ý nhiều. Do đó, từ khi nàng đến đây, ban ngày nàng đều ra bàn đá trong sân để ăn cơm.
Nhà của An Cát nằm ở tận cùng trong thôn, phía tây và bắc đều giáp với núi An Lĩnh, chỉ cần qua vài thửa ruộng là đến được chân núi, nên việc lên núi rất thuận tiện. Phía đông là nhà của gia đình Bạch, giữa hai nhà có một hàng rào tre làm tường, đứng từ nhà An Cát có thể nhìn thấy sân của nhà Bạch.
Hoàn cảnh của gia đình Bạch cũng tương tự như gia đình An Cát, đều là cha mẹ đã mất và không có người lớn tuổi trong nhà. Hiện tại, Bạch Trà, đại cô nương của nhà Bạch, đang làm chủ gia đình. Bạch Trà còn có nhũ danh là Cửu Cô Nương, người trong thôn hầu như đều gọi cô bằng nhũ danh này. Sở dĩ cô có nhũ danh như vậy là vì cha của cô khi còn sống rất thích uống rượu, nhưng không muốn con gái mình mang tên liên quan đến rượu nên đã lấy con số chín (Cửu) để đặt tên.
Khi An Cát lần đầu nghe về điều này, nàng còn thầm nghĩ rằng liệu cái tên Bạch Trà có phải là do ai đó thích uống trà mà đặt hay không! Dù sao, tên của An Cát và Bạch Trà có chút liên quan, nên nàng đôi lúc sẽ vô thức chú ý đến Bạch Trà.
Bạch Trà năm nay đã mười bảy tuổi, dáng vẻ khá xinh đẹp, nhưng đáng tiếc lại mang tiếng xấu. Cô đã từng đính hôn hai lần, nhưng cả hai lần đều không thành. Một người chồng chưa cưới bị chết đuối, người còn lại thì bị ngựa đá chết trên quan đạo. Do đó, cô bị gán cho tiếng "khắc phu," khiến không ai dám đến cầu hôn nữa. Bạch Trà cô nương trở thành một "lão đại khó" trong thôn, tuổi đã mười bảy mà vẫn chưa có tin tức về hôn sự, trong khi chỉ còn một năm nữa là đến tuổi thành hôn bắt buộc.
Gia đình Bạch có hai người em trai. Đại đệ đệ, Bạch Phúc, năm nay mười lăm tuổi, cũng đã đến tuổi nghị hôn. Nhị đệ đệ, Bạch Quý, mười ba tuổi. Tục ngữ có câu: "Thằng nhỏ ăn nhiều làm cha mẹ khổ," và gia đình Bạch đang phải trải qua cảnh khó khăn hơn cả gia đình An Cát. Nhà của họ là một ngôi nhà ba gian bằng gạch và gỗ, trông có vẻ không chắc chắn. Vài ngày trước khi trời mưa, nghe nói nhà còn bị dột. Gia đình Bạch cũng có hai mẫu đất, nhưng ba người chỉ trồng khoai tây và khoai lang đỏ, dù vậy vẫn không đủ lương thực cho cả năm.
Cầm khoai lang đỏ ăn một miếng, lúc này từ bên nhà bên cạnh truyền đến tiếng ồn ào. An Cát không khỏi vểnh tai lên để nghe cho rõ.