Thao ngô qua hề bị tê giáp,
Xa thác cốc hề đoản binh tiếp.
Tinh tế nhật hề địch nhược vân,
Thi giao truỵ hề sĩ tranh tiên.
Lăng dư trận hề liệp dư hàng,
Tả tham ế hề hữu nhận thương.
Mai lưỡng luân hề trập tứ mã,
Viện ngọc phu hề kích minh cổ.
(Cửu Ca – Quốc thương)
Do đã liên hôn nên Khởi quốc thân thiết hơn với Xư quốc, tuy không chính
thức kết thành liên minh nhưng hai nước thường xuyên giúp đỡ lẫn nhau.
Vì thế, các nước khác càng không dám đến xâm phạm.
Tang Lạc gả đến Khởi quốc, được Khởi Vương nhất mực sủng ái, lại được sắc
phong thành Vương hậu, vô cùng tôn quý, trọng thần Vương tộc ai ai cũng
tranh nhau nịnh bợ nàng.
Hai năm sau, có tin từ Khởi quốc truyền đến: công tử Kỳ của Khởi quốc bái
Tang Lạc làm nghĩa mẫu, ngày ngày đều đến thỉnh an, cực kỳ hiếu thuận
với Tang Lạc.
Tử Thôn khinh thường: “Công tử Kỳ lớn hơn Tang Lạc mười tuổi, vì muốn được Tang Lạc giúp đỡ mà mặt dày đi bái muội ấy làm nghĩa mẫu, thật là bỉ
ổi.”
Tân Dương Quân cười nhạt nói: “Công tử Kỳ là người thông minh. Xét về tuổi
tác, công tử Trưng lớn tuổi hơn, nếu cùng tranh giành vị trí Thái tử,
công tử Kỳ rơi vào thế bất lợi. Bây giờ, hắn bái Vương hậu làm nghĩa mẫu của mình, trên danh nghĩa có thể coi là đích tử, thế cục nhất thời bị
hắn đảo ngược lại.”
Tử Thôn gật đầu, có phần trầm tư hỏi: “Thúc phụ, lúc trước người nói Tang
Lạc gả đến Khởi quốc có lợi cho Xư quốc, phải chăng đã nghĩ đến thế cục
lúc này? Để Tang Lạc giúp đỡ công tử Kỳ lên ngôi, hắn nhất định sẽ báo
đáp chúng ta, hoặc là, để Tang Lạc can thiệp vào chuyện triều chính của
Khởi quốc?”
Tân Dương Quân chỉ khẽ lắc đầu, mỉm cười im lặng không nói, giữ kín như bưng.
Sau đó, quả nhiên Khởi Vương nghe lời ngon ngọt của Tang Lạc mà có phần coi trọng công tử Kỳ, có ý lập công tử Kỳ làm Thái tử.
Thế nhưng, một năm sau lại có tin tức rất kỳ quặc truyền đến: Khởi vương
mắc bệnh nặng, duy trì được một thời gian thì hoăng thệ ở tẩm cung.
Tể tướng lấy chiếu thư Khởi vương viết trước khi lâm chung ra, tuyên bố
Khởi vương truyền ngôi cho công tử Trưng, khiến công tử Kỳ vô cùng tức
giận. Hắn nói chiếu thư đó là giả, do công tử Trưng và Tể tướng ngụy tạo ra.
Lúc còn sống Khởi vương coi trọng công tử Kỳ, chuyện này mọi người đều
biết. Nhiều năm qua, công tử Kỳ cũng đã xây dựng được vây cánh trong
triều, quần thần Khởi quốc tạm thời chia thành hai phe, một phe ủng hộ
công tử Trưng, một phe ủng hộ công tử Kỳ, không ai nhường ai.
Không lâu sau, Tử Thôn nhận được mật hàm do công tử Kỳ gửi đến, trong thư
công tử Kỳ luôn miệng gọi Tử Thôn là “cậu”, thỉnh cầu Tử Thôn xuất binh
giúp đỡ bọn họ diệt trừ vây cánh của công tử Trưng, cũng hứa sẽ cắt đất
cùng vĩnh viễn giao hảo làm điều kiện trao đổi.
Tử Thôn liền trưng cầu ý kiến của Tân Dương Quân: “Chúng ta có nên xuất binh tương trợ hắn không?”
Tân Dương Quân không nghĩ ngợi gì liền đáp: “Nên. Nhất định phải xuất.”
“Nhưng…” Tử Thôn nhíu mi nói: “Công tử Kỳ là một tên tiểu nhân. Nếu chúng ta
tương trợ giúp hắn thắng được, chưa chắc hắn đã tuân thủ lời hứa cắt đất cho chúng ta.”
“Chuyện đó không có gì đáng ngại.” Tân Dương Quân mỉm cười: “Đến lúc đó, cắt hay không cắt, không phải do hắn quyết định.”
Tử Thôn liền điều tinh binh lương tướng đến Khởi quốc, công tử Kỳ lệnh cho tướng lĩnh thủ thành ở biên cương mở rộng cửa thành nghênh đón đại quân của Xư quốc tiến vào.
Sau đó, công tử Kỳ cùng với đại quân của Xư quốc nội ứng ngoại hợp, liên thủ tấn công công tử Trưng.
Hai vị công tử cơ bản có thế lực ngang nhau, nhưng đại quân của Xư quốc
dũng mãnh, một khi giúp đỡ công tử Kỳ, công tử Trưng liền không phải đối thủ của họ, rất nhanh đã bại trận, dẫn vây cánh còn sót lại chạy trối
chết về hướng bắc. Mà Xư quốc sớm đã có chuẩn bị, dẫn binh phong tỏa tất cả các bến đò, thuận lợi bắt được công tử Trưng, áp giải bọn họ trở về
kinh thành Khởi quốc.
Công tử Kỳ thấy công tử Trưng, cười lạnh một tiếng, rồi rút kiếm, tự tay đâm chết vương huynh của mình trên đại điện.
Công tử Kỳ hậu thưởng cho chủ soái và tướng lĩnh Xư quốc, bảo họ dẫn quân về nước. Nhưng chủ soái Xư quốc lấy lí do chưa quét sạch loạn đảng, cần
phải tiếp tục ở lại để truy lùng và tiêu diệt, vẫn đóng quân ở Khởi quốc như cũ. Công tử Kỳ liền gửi thư cho Tử Thôn, khéo léo bảo hắn lui binh.
Tử Thôn hỏi Tân Dương Quân: “Khi nào thì chúng ta lui binh?”
Tân Dương Quân đáp: “Lúc diệt Khởi.”
Thấy Tử Thôn chưa hiểu, Tân Dương Quân từ từ lấy trong tay áo ra một quyển
chiếu thư đưa cho hắn xem, thong dong nói: “Công tử Kỳ của Khởi quốc,
đạo đức bại hoại, không có hiếu lễ, hành sự trái với luân thường đạo lý, giết cha, giết huynh, tư thông với mẹ kế, làm nhục công chúa của nước
ta, lừa dối chúng ta. Nay Đại vương đã biết rõ chân tướng, liền tăng
thêm quân chính nghĩa, tấn công Khởi quốc, truy bắt công tử Kỳ, thay
trời hành đạo.”
Tử Thôn như bị sét đánh, rất lâu sau vẫn còn bàng hoàng, những tội ác của
công tử Kỳ mà Tân Dương Quân vừa kể, chỉ có năm chữ đọng lại trong đầu
hắn: tư thông với mẹ kế.
“Tư thông với mẹ kế…” Hắn suy sụp ngồi xuống, thì thào tự nói.
Tân Dương Quân gật đầu, thấp giọng nói: “Công tử Kỳ tư thông với Tang Lạc,
khiến Tang Lạc có thai. Khởi vương biết chuyện hai người có tư tình, mới nộ hỏa công tâm, quyết định truyền ngôi cho công tử Trưng… Chiếu thư mà Khởi tướng công bố là thật.”
“Nói vậy….” Tử Thôn cười khổ: “Muội ấy đồng ý?”
Tân Dương Quân không đáp, chỉ nói: “Công tử Kỳ tuấn mỹ hào phóng, lại giỏi
đối đáp, Tang Lạc bị hắn mê hoặc cũng là chuyện bình thường.”
Tử Thôn ngẩng đầu, nhìn chằm chằm Tân Dương Quân, thấy sắc mặt y vẫn bình
thường như mọi ngày, bỗng nhiên nổi giận, vỗ án đứng lên: “Khanh biết?!
Khanh đã sớm đoán được. Thậm chí, là do một tay khanh sắp xếp?”
“Đại vương!” Tân Dương Quân đột nhiên lạnh lùng quát một tiếng, giọng nói nghiêm khắc.
Tử Thôn sửng sốt, hai mắt Tân Dương Quân sâu không thấy đáy, chân mày vẫn
giãn ra như trước, một bộ dáng không giận mà uy, liền nhất thời nhụt
chí.
“Đại vương!” Tân Dương Quân lại gọi một tiếng, nhưng giọng nói đã ôn hòa như trước, “Nếu không phải do Khởi Vương háo sắc, công tử Kỳ vô đức, chúng
ta sẽ không có được cơ hội thế này. Đây là ý trời, ông trời cũng giúp đỡ chúng ta.”
Lại vén vạt áo trước quỳ xuống, khấu đầu nói: “Xin Đại Vương hạ chỉ, tăng cường binh lực thảo phạt công tử Kỳ.”
“Hạ chỉ?” Tử Thôn tự giễu: “Còn cần Tử Thôn hạ chỉ nữa sao? Không phải thúc phụ đã viết xong chiếu thư thảo phạt đó rồi sao? Ngọc tỷ ở trên án,
người tự mình đến đó đóng dấu đi.”
Xư quốc lại phái mấy vạn tinh binh trực tiếp tấn công Khởi quốc. Bởi vì
hai vị công tử của Khởi quốc nội chiến nên quân đội đã ngàn lở trăm
loét, đánh một trận liền tan rã.
Công tử Kỳ chưa chính thức ngồi lên ngai vàng đã sa vào cảnh lang thang
phiêu bạt, rời cung chạy trốn khắp nơi, cuối cùng chết trong loạn quân.
Khởi quốc đã diệt, Tử Thôn muốn đón Tang Lạc về nước, bảo Tân Dương Quân đi
đón. Tân Dương Quân lĩnh chỉ, nhưng chưa vội đi ngay. Tử Thôn liền hỏi:
“Thúc phụ có chuyện gì muốn nói?”
Tân Dương Quân cúi người nói: “Thần muốn xin chỉ thị của Đại vương, cái thai trong bụng Tang Lạc nên xử trí thế nào.”
Chuyện này, Tử Thôn chưa từng nghĩ đến. Do dự rất lâu, cuối cùng đành hỏi Tân Dương Quân: “Theo ý thúc phụ…”
Tân Dương Quân dứt khoát cắt ngang lời hắn: “Đại Vương, cái thai trong bụng Tang Lạc là huyết mạch của vương thất Khởi quốc. Đại sự quan trọng,
thần không dám tự tiện làm chủ. Xin Đại vương chỉ rõ.”
Đây là ép hắn phải quyết đoán. Tử Thôn ngồi đối diện với Tân Dương Quân, thở dài nói: “Ban thuốc.”
Tân Dương Quân lĩnh mệnh rời đi, nhưng Tử Thôn đột nhiên gọi y, dặn dò:
“Bảo người pha thuốc nhẹ một chút, đừng làm muội ấy bị thương.”
Vừa nói xong, nước mắt đã tràn ra.
Tân Dương Quân im lặng đến gần hắn, dùng tay áo của mình lau nước mắt cho
Tử Thôn: “Về sau Đại Vương không cần thiết phải đau lòng như thế. Tất cả nước mắt của ngài, trước khi ngồi lên vương vị đã phải chảy hết rồi.”
Tử Thôn rất muốn gặp lại Tang Lạc, nhưng cũng rất sợ phải gặp lại Tang
Lạc. Hắn cảm thấy bản thân có lỗi với muội muội này, không còn mặt mũi
nào đi gặp muội ấy nữa, cũng không dám hy vọng xa vời rằng sau khi quay
về muội ấy còn có thể dùng đôi mắt trong veo như nước nhìn hắn, nhẹ
giọng gọi hắn “Ca ca”.
Nhưng Tang Lạc không trở về.
Sứ thần đi nghênh đón Tang Lạc quay về đã khóc lóc bẩm lại rằng: Tang Lạc đã nhảy xuống sông Minh Thủy.
Lúc đi đón Tang Lạc, thái độ của Tang Lạc rất nhu thuận, an tĩnh lên xe,
dọc đường không vui không buồn, chỉ có vẻ mặt hơi hốt hoảng.
Bọn họ đi đường thủy trở về, lúc gần đến Minh tành, sứ thần theo lệnh đưa
thuốc sảy thai cho Tang Lạc uống. Tang Lạc giật mình nhìn chằm chằm chén thuốc nửa ngày, cuối cùng nhận lấy, ngửa đầu uống sạch.
Sau đó Tang Lạc chậm rãi đi đến đầu thuyền, ngửa mặt nhìn chim én trên
trời. Trên môi Tang Lạc bỗng nhiên hiện lên một ý cười nhạt, rồi thấp
giọng khẽ hát một bài gì đó.
Mọi người không nghe rõ, chỉ loáng thoáng nghe được câu “Yến yến vu phi”.
Còn đang muốn dỏng tai nghe cho rõ, không ngờ Tang Lạc lại đột nhiên
tung người, nhảy xuống sông Minh Thủy.
Hôm ấy nước sông chảy xiết, tuy có nhiều người nhảy xuống sống cứu nhưng
đều vô ích, ngay cả thi thể của Tang Lạc cũng không tìm được.
Tiêu diệt Khởi quốc, chỉ là bắt đầu. Các nước khác khứu giác cực thính, một
khi ngửi thấy mùi máu tanh của chiến tranh tỏa ra sẽ lập tức nhào đến.
Thừa dịp trận chiến mở màn của Xư quốc vừa mới kết thúc, nguyên khí quốc gia chưa kịp khôi phục, đại quốc phương bắc – Kình quốc – dẫn quân xuôi nam, nhắm thẳng vào Minh thành.
Lần này khó nói chính xác Kình quốc đã dùng bao nhiêu phần binh lực. Đứng ở đỉnh núi quan sát quân binh Kình quốc hành quân có thể thấy, cờ xí rợp
trời, chiến xa dầy đặc, lúc di chuyển va phải nhau, phát ra tiếng động
vang rền như sấm đánh.
Quân binh Kình quốc vượt sông, một ít phòng thủ tại bến cảng, một ít đổ bộ lên bờ, bắt đầu giết chóc, công thành chiếm đất.
Tử Thôn gấp rút điều đại quân đi ứng chiến, nhưng tình hình có phần bất
ổn. Binh lính Kình quốc cưỡi chiến mã Bắc Địa cao lớn, Kình cung mạnh mẽ nổi tiếng, tên bay như mưa, đao kiếm như điện. Quân đội Xư quốc khó mà
chống lại, liên tiếp bại trận, chỉ có thể trơ mắt nhìn Kình quốc đạp nát từng thành trì một.
Tử Thôn ưu sầu lo lắng, suốt ngày cùng quần thần vắt óc suy nghĩ bàn bạc
đối sách. Trong lúc này, hắn lại không thấy bóng dáng Tân Dương Quân
đâu, gần như là biến mất hoàn toàn.
Đợi đến lúc Tử Thôn gần như bế tắc, rốt cuộc cũng có tin tức của Tân Dương
Quân. Quản gia của y vào cung, nói Tân Dương Quân muốn mời Đại vương ra
ngoại thành săn bắn.
Dưới tình hình hết sức nguy cấp này, y còn có tâm trạng đi săn bắn? Tuy Tử Thôn tức giận nhưng vẫn ra ngoại thành gặp y.
Đối mặt với việc Tử Thôn nén giận chất vấn, Tân Dương Quân chỉ mỉm cười,
quan tâm nhìn Tử Thôn: “Mấy ngày nay, Đại vương bận rộn quốc sự mà tiều
tụy đi rất nhiều. Cho nên hôm nay, thần mới mời Đại Vương đến đây săn
bắn, giúp người giải tỏa phiền muộn trong lòng.”
Tử Thôn lạnh lùng nói: “Lúc này ta không có tâm trạng để săn bắn. Thúc phụ theo ta hồi cung, cùng nhau bàn bạc kế đẩy lui quân Kình, mới gọi là
giúp ta giải tỏa phiền muộn trong lòng.”
Tân Dương Quân lại cười nói: “Nếu đã tới, cũng không thể tay không mà về, bất kể thế nào cũng nên săn mấy con chim mang về.”
Ngước mắt nhìn lên, dùng ngón tay chỉ vào đám mây trên đỉnh đầu: “Đại vương,
chỗ đó có một con đại bàng. Nếu Đại vương có thể bắn nó cho thần, thần
lập tức theo Đại vương trở về.”
Tử Thôn cũng ngẩng đầu nhìn lên, thấy chim đại bàng bay rất cao, ước chừng cách mặt đất cả ngàn thước. Tuy tài bắn cung của hắn tốt, nhưng để bắn
tới cũng không phải chuyện dễ. Nhưng thúc phụ đã lên tiếng, hắn cũng
không tiện từ chối, lệnh cho thuộc hạ lấy cung tiễn ra, nhắm vào chim
đại bàng, giương cung bắn lên.
Một mũi tên rời cung, bay thẳng về hướng chim đại bàng. Nhưng đáng tiếc
khoảng cách quá xa, vượt qua tầm bắn, nên mũi tên hết đà rơi xuống, ngay cả một cọng lông trên người chim đại bàng cũng không chạm vào được.
Tử Thôn hơi ngượng ngùng, mặt đỏ tía tai. Tân Dương Quân lại khen hắn:
“Tài bắn cung của Đại vương tinh tế tuyệt vời. Nhược phi cung bất xưng
thủ, tảo dĩ trung*.”
Tân Dương Quân quay đầu về sau ra hiệu, lập tức Tử Thôn nghe thấy có tiếng
xe lộc cộc vang lên. Đưa mắt nhìn kỹ, chỉ thấy bóng người đẩy một chiếc
xe từ vách núi ra, trên xe đặt một vật kỳ lạ, cao bằng đầu người, phía
dưới là bàn đạp, phía trên lại có một vật giống như cung nỏ, nhưng so
với cung nỏ bình thường thì to hơn rất nhiều.
Tử Thôn đang còn kinh ngạc, đã thấy một môn khách của Tân Dương Quân bước
ra, thi lễ với Tử Thôn. Sau đó, người ấy bước đến chỗ chiếc xe, đạp chân lên bàn đạp, hai tay dùng sức kéo nỏ, lưng hơi ngửa về sau, tạo thành
thế giương dây nỏ lên. Người đó lại điều chỉnh góc bắn của nỏ, nhắm
thẳng vào chim đại bàng, thả tay. Mũi tên bắn ra, nháy mắt bay qua ngàn
thước, xuyên thẳng qua người chim đại bàng.
Lập tức có người hầu bước lên nhặt chim đại bàng rớt trên mặt đất trình cho Tử Thôn xem. Tử Thôn sờ sờ mũi tên, hỏi Tân Dương Quân: “Cung nỏ này
gọi là gì?”
Tân Dương Quân đáp: “Đạp nỏ. Tầm bắn xa nhất có thể lên tới một ngàn năm trăm thước.”
Tử Thôn thở dài: “Gấp hai ba lần cung tên bình thường.”
Tân Dương Quân gật đầu, cười nói: “Mọi người đều nói Kình cung mạnh mẽ, nhưng so với đạp nỏ thì thế nào?”
Tử Thôn giật mình hiểu ra: “Hóa ra thúc phụ biến mất nhiều ngày, là bí mật cùng môn khách nghiên cứu cách chế tạo đạp nỏ để chống Kình quốc?”
Tân Dương Quân nói phải, Tử Thôn cười lớn: “Thúc phụ vất vả rồi. Nghiên cứu ra đạp nỏ không khác gì lập đại công cho quốc gia. Quân ta có vũ khí
này giúp đỡ, lo gì không phá được đại quân của Kình quốc!”
Tân Dương Quân lại lắc đầu: “Nếu chỉ có đạp nỏ không thì còn thiếu.”
Tử Thôn ngạc nhiên: “Còn thiếu? Chẳng lẽ thúc phụ còn thứ khác lợi hại hơn?”
Tân Dương Quân yên lặng mỉm cười nhìn hắn, duỗi tay phải ra, chỉ vào bản
thân mình. Y muốn Tử Thôn ngự giá thân chinh, y cũng đi theo.
Sau khi đến quân doanh, Tử Thôn một mình ở trong lều chủ soái, còn y thì ở
trong lều của binh sĩ nghèo hèn nhất, cùng ăn cùng nằm, không bày tiệc,
hành động không kiêng kỵ. Khi cùng binh sĩ hành quân, y đều tự chuẩn bị
hành lý cùng lương thực, cũng kiên trì duy trì lề nếp quân đội, chia sẻ
sự gian khổ với binh sĩ.
Thế nhưng tất cả những chuyện này, đều không phải là chuyện khiến Tử Thôn kinh ngạc nhất.
Đêm trước ngày giao chiến với Kình quốc, có một binh sĩ bị tái phát vết
thương trên đùi, đau đến ngất đi. Quân y đành phải tháo băng vải ra,
thấy miệng vết thương đã thối rữa, cần phải lấy hết mủ ra mới có thể bôi thuốc được.
Tân Dương Quân thấy y quan ngập ngừng liền hỏi lí do, y quan nói mủ không
dễ lấy ra hết được, cần phải có người hút ra. Nhưng vừa nhìn miệng vết
thương đã khiến người ta buồn nôn, lại có mùi hôi thối, mọi người đứng
quanh vừa nghe thấy thế đều vô thức lui về phía sau, sợ y quan sẽ kêu
mình làm việc này.
Tân Dương Quân lại tiến lên một bước, lạnh nhạt nói: “Để ta làm cho.”
Mấy vị tướng lĩnh có mặt đều khuyên y không nên làm thế, nhưng Tân Dương
Quân không để tâm. Y bảo người đè chặt binh sĩ kia lại, tự mình cúi
người, hút từng ngụm mủ ra, đến khi nhìn thấy máu đỏ tươi.
Cực kỳ xúc động trước hành động này, một đám tướng lĩnh đường đường là nam
nhân thân bảy thước cao lại rơi nước mắt. Binh sĩ vừa mới tỉnh lại kia
cũng kinh ngạc đến ngây người, nước mắt lưng tròng, rối rít quỳ xuống
nói lời cảm ơn với Tân Dương Quân.
Nâng binh sĩ đứng lên, lại tự mình bôi thuốc cho hắn xong, Tân Dương Quân
mới nở nụ cười, phủi nhẹ y phục, quay về lều nghỉ ngơi.
Hôm sau, hai quân giao chiến. Tân Dương Quân đưa dùi trống bằng ngọc cho Tử Thôn, bảo hắn tự đánh trống trận. Tử Thôn nhận lấy, đứng trên cổng
thành đánh trống trận liên hồi, tiếng trống vang tới tận trời.
Quân sĩ Xư quốc mặc áo giáp, cầm đao kiếm, lại có đạp nỏ trợ giúp, đáp lời
từng tiếng trống vang vọng, anh dũng tiến lên phía trước, giết địch lập
công, không ngại hy sinh. Trên không trung, mũi tên như châu chấu, cờ xí phấp phới, tiếng chiến mã hí vang, nhật nguyệt vô quang.
Ngày đó, Kình quân thảm bại nhất trong tất cả các lần giao chiến giữa hai
nước, thua bởi Xư quân có đạp nỏ mạnh mẽ và sĩ khí ngút trời.
Sau khi Kình quân đại bại, thế cục dần dần được định đoạt. Kình quân liên tiếp thất bại, trận chiến này Xư quốc toàn thắng.
Tử Thôn cùng Tân Dương Quân quay về kinh đô. Dân chúng dọc đường nghe tin
đều vội vàng chạy ra ven đường quỳ lạy tiếp đón. Sau khi hành lễ tham
bái Tử Thôn xong, bọn họ sẽ nhiệt liệt reo hò hỏi thăm Tân Dương Quân,
thỉnh thoảng còn nghe thấy tiếng bọn họ cảm thán: “Đó là Tân Dương Quân! Đó là người yêu dân như con, là tấm gương của binh sĩ, là Vân Trung
Quân!”
Khi về đến Minh thành, Tử Thôn trở nên trầm mặc hơn, tin chiến thắng ở tiền tuyến liên tiếp báo về cũng không khiến hắn cười.
Hôm sau, cung nhân hầu hạ hắn đến bẩm báo với Vương Thái hậu: “Không biết
vì sao từ hôm qua, sau khi Đại Vương ngủ dậy liền không nói tiếng nào,
không làm bất cứ chuyện gì, chỉ ngồi ngẩn ngơ một mình.”
Phục Ba đến gặp hắn. Thấy mẫu hậu tới, hai mắt Tử Thôn mới có một chút thần sắc.
“Mẫu hậu, người đã nghe chuyện Tân Dương Quân hút mủ cho binh sĩ trong quân đội chưa?” Hắn miễn cưỡng cười hỏi.
Phục Ba gật đầu: “Đã nghe rồi.”
“Hôm qua, con đã gặp được mẫu thân của binh sĩ bị thương ấy trong cung.” Tử
Thôn tiếp tục nói: “Bà ấy là một trù nương, đã phục vụ trong cung nhiều
năm. Bà ấy nhìn thấy con liền chạy tới hỏi con, nhi tử của bà ấy bây giờ thế nào. Không đợi con kịp trả lời, bà ấy liền khóc ầm lên, nói, bà ấy
biết, nhi tử của bà ấy chắc chắn đã chết. Con liền an ủi bà ấy, nói nhi
tử của bà ấy đã được Tân Dương Quân cứu chữa, thương thế đã khỏi, nhất
định sẽ bình an trở về. Nhưng bà ấy càng khóc kinh khủng hơn… Bà ấy nói… Bà ấy nói…”
Đột nhiên Tử Thôn lộ ra thần sắc lo lắng không yên, thở hổn hển, nói không lên lời. Phục Ba vỗ vỗ vai hắn, cổ vũ hắn nói tiếp.
Hít một hơi thật sâu, Tử Thôn nói tiếp: “Bà ấy nói, chính vì như vậy, nhi
tử của bà ấy mới thực sự phải chết. Trượng phu của bà ấy từng là hộ vệ
của Tân Dương Quân. Nhiều năm trước, trong lúc hắn đi săn cùng Tân Dương Quân thì bị rắn độc cắn, Tân Dương Quân đã tự mình hút máu độc cho hắn, lại xé áo bào băng bó cho hắn. Sau đó, có người ám sát Tân Dương Quân,
người hộ vệ này đã dũng cảm chắn cho y một kiếm, lấy mệnh báo đáp…”
Phục Ba không khỏi giật mình, ý vị sâu xa, thở dài: “Thì ra là như vậy.”
“Cho nên, trù nương ấy nói, năm đó Tân Dương Quân hút máu độc cho trượng phu bà ấy nên trượng phu bà ấy cam tâm tình nguyện chết thay cho y. Mà nay, Tân Dương Quân lại hút mủ ở miệng vết thương cho nhi tử bà ấy, nhi tử
của bà ấy phải chiến đấu hết mình, giết địch mà không tiếc mệnh.”
______________
Chú thích:
Bài thơ: Quốc thương
– Hán Việt:
Thao ngô qua hề bị tê giáp,
Xa thác cốc hề đoản binh tiếp.
Tinh tế nhật hề địch nhược vân,
Thi giao truỵ hề sĩ tranh tiên.
Lăng dư trận hề liệp dư hàng,
Tả tham ế hề hữu nhận thương.
Mai lưỡng luân hề trập tứ mã,
Viện ngọc phu hề kích minh cổ.
Thiên thì đỗi hề uy linh nộ,
Nghiêm sát tận hề khí nguyên dã.
Xuất bất nhập hề vãng bất phản,
Bình nguyên hốt hề lộ siêu viễn.
Đới trường kiếm hề hiệp tần cung,
Thủ thân ly hề tâm bất trừng.
Thành ký dũng hề hựu dĩ vũ,
Chung cương cường hề bất khả lăng.
Thân ký tử hề thần dĩ linh,
Hồn phách nghị hề vi quỷ hùng.
Đây là bài tế các tướng sĩ bỏ mình vì bảo vệ đất nước.
– Bản dịch của Nguyễn Đức Vân
Khiên nắm vững da tê mặc áo
Xe tung hoành gươm giáo chạm tay
Cờ rợp bóng, giặc như mây
Quân giành lên trước, tên bay rào rào
Vượt hàng ngũ ào ào xông miết
Ngựa hai bên một chết một thương
Nắm dùi đánh trống ầm vang
Xe chôn hai bánh, ngựa ràng bốn con
Trời ảm đạm mây dồn gió giục
Rợn rùng ghê quỷ khóc thần gào
Đầy đồng xác chết chồng cao
Giết phăng không sót mống nào được tha
Bao chiến sĩ có ra không lại
Chốn sa trường vòi vọi xa xôi
Cắp cung lớn, vác gươm dài
Đầu dù lìa xác không rời lòng son
Đã hùng mạnh lại còn oai vệ
Tính cương cường ai dễ khinh mà
Chết rồi thân vẫn không nhoà
Phách hồn rắn rỏi làm ma anh hung
Nguồn: Văn học Trung Quốc (Tài liệu tham khảo, tập 1), NXB Giáo dục, 1963.
;
Khoa nữ xướng hề dung dữ;
Xuân lan hề thu cúc, trường vô tuyệt hề chung cổ.
(Cửu Ca – Lễ nghi hồn)
Tử Thôn nhìn mẫu hậu, ánh mắt chất chứa hoang mang cùng bi thương: “Con
không hiểu, vì sao thúc phụ đã dạy con cách làm Thánh quân như Nghiêu
Thuấn, lại dạy con những mưu kế bẩn thỉu như vậy.”
“Việc này không hề mâu thuẫn.” Phục Ba điềm nhiên như không cười hỏi: “Con
cho rằng thánh quân như Nghiêu Thuấn làm sao có được quân quyền, làm sao trị quốc bình thiên hạ?”
Tử Thôn càng hoang mang, hỏi ngược lại: “Không phải vì bọn họ hiền đức
nhân ái, được vạn dân ủng hộ, lại được quân chủ tiền nhiệm trọng dụng,
thậm chí nhường ngôi sao?”
“Nhường ngôi??? Đó chỉ là ngụy trang cho một vụ soán ngôi đoạt vị mà thôi.”
Phục Ba thu lại ý cười, vẻ mặt trở nên ngưng trọng: “Ví dụ như Nghiêu,
ban đầu ông ta định truyền ngôi cho Đan Chu, trọng dụng Thuấn, là bởi vì Thuấn có tài năng, lại có thanh danh Thánh nhân…”
Lúc nói đến “Thanh danh thánh nhân”, Phục Ba dừng một chút, đưa mắt nhìn
con trai mình. Ánh mắt của Tử Thôn và nàng chạm nhau, vô cùng ăn ý, bọn
họ đều đang nghĩ đến một người.
Phục Ba nói tiếp: “Nghiêu gả hai nữ nhi cho Thuấn, cũng trao quyền hành cho
Thuấn, muốn lung lạc lôi kéo hắn, để trong tương lai hắn an tâm phụ tá
Đan Chu. Đáng tiếc, quyền hành Nghiêu trao cho Thuấn quá sớm, quá nhiều. Đợi đến lúc Nghiêu giật mình nhận ra, thì Thuấn đã kề kiếm vào cổ
Nghiêu. Vì vậy, dưới sự uy hiếp của Thuấn, Nghiêu không thể không nhường thiên hạ. Thuấn ép Nghiêu cho mình một cái cớ quang minh chính đại là
tuyên bố nhường ngôi. Giao thiên hạ cho Thuấn vạn điều lợi, nếu giao
thiên hạ cho Đan Chu, thiên hạ nhất định sẽ suy tàn..”
“Không, không thể nào!” Tử Thôn lắc đầu: “Thuấn nhân hậu hiếu nghĩa. Tuy liên
tiếp bị phụ thân, kế mẫu và đệ đệ cùng cha khác mẹ làm hại nhưng vẫn
không thay đổi tính tình, vẫn khoan dung đối xử với mọi người. Người
hiền đức như thế không thể nào làm ra chuyện soán ngôi đoạt vị được.”
“Con đọc sách, thấy một nhà Thuấn đều là người xấu, không cảm thấy kỳ lạ
sao?” Phục Ba không khỏi cười lạnh: “Ngoại trừ hắn là một thánh nhân,
phụ thân, kế mẫu và đệ đệ khác mẹ của hắn đều hung tàn độc ác giống như
ma quỷ vậy. Tất cả đều muốn đẩy hắn vào chỗ chết. Không nói đến kế mẫu
và đệ đệ khác mẹ của hắn, ta chỉ không hiểu, phụ thân thân sinh ra hắn
có thâm thù đại hận gì với hắn, nhất định phải mưu sát hắn? Nếu chỉ đơn
giản là muốn giúp con thứ đoạt dòng chính, thì lập di mệnh là được, cần
gì phải giết chết Thuấn? Hơn nữa, còn dùng toàn những biện pháp ti tiện. Mà mỗi lần, Thuấn đều có thể trốn thoát một cách ly kỳ? Như vậy mà cũng gọi là bị hãm hại? Chỉ sợ hơn nửa là do Thuấn tự bịa ra, hoặc là có
thật nhưng đã bị hắn khuếch đại lên, dùng tiếng hiền đức để mưu cầu danh lợi.”
Tử Thôn im lặng không nói. Phục Ba lại nói: “Nếu hắn thật sự hiếu lễ, tại
sao sau khi cầm quyền lại lưu đày phụ thân, giết hại huynh đệ? Nếu hắn
thật sự nhân hậu trung nghĩa, tại sao sau khi Nghiêu nhường ngôi lại cầm tù Nghiêu, đoạn tuyệt qua lại với Đan Chu, sau đó lưu đày Nghiêu đến
chết?”
“Chuyện này…” Tử Thôn kinh ngạc: “Không phải sau khi Nghiêu thoái vị thì tự mình tuần du thiên hạ, mất ở Dương Thành sao?”
Phục Ba đáp: “Có người nói, lúc đó Nghiêu đã một trăm mười chín tuổi. Tuy số tuổi này không chính xác nhưng chắc chắn cũng là một lão giả bách bệnh
quấn thân. Tuần du? Thật là quá hăng hái! Con nghĩ thử xem, đô thành
Bình Dương lúc ấy cách Dương Thành cả ngàn dặm. Một người già yếu như
thế, chỉ dẫn theo một hai người bên cạnh, lại leo qua bao nhiêu núi cao
sông dài đến Dương Thành, mà mục đích khi đó là…chỉ là đến một nơi xa
xôi hẻo lánh. Cho nên Nghiêu chết ở chỗ ấy chẳng có gì là lạ, là kết cục Thuấn đã sắp xếp cho Nghiêu.”
“Thuấn…” Tử Thôn đột nhiên nói: “Thuấn cũng chết trên đường ‘Nam tuần thú[1].”
“Đúng, không ngờ Thuấn cũng có vận mệnh giống như Nghiêu.” Phục Ba khẽ mỉm
cười, nhìn qua có vài phần trào phúng, nói: “Lúc hắn phát hiện ra thì
cũng đã không thể khống chế được vây cánh của Vũ, cũng bị Vũ ép diễn một màn nhường ngôi. Sau đó, Vũ lại tham khảo kinh nghiệm xử trí Nghiêu của hắn, nhưng táo bạo hơn. Vũ đày hắn ra ngoài Thương Ngô hai ngàn năm
trăm dặm, nơi đó càng xa xôi hẻo lánh hơn.”
Tử Thôn trầm tư chốc lát, thở dài: “Đúng vậy, nếu thật sự là ‘Nam tuần
thú’, vì sao hai phi tử của hắn là Nga Hoàng và Nữ Anh không đồng hành
cùng hắn, sau khi hắn chết lại cùng nhau nhảy xuống sông Tương Giang tự
sát.”
Phục Ba lắc đầu nói: “Các nàng có phải vì phu quân mà tự sát hay không vẫn
còn nhiều nghi vấn. Nếu muốn tự sát, vì sao không tự sát ngay lúc Thuấn
vừa băng hà? Vì sao không đến nơi hắn chết mà tự sát? Thậm chí, hai
người còn không chôn chung với phu quân của mình, vội vàng nhảy xuống
sông Tương Giang, ngay cả thi thể cũng không tìm thấy?”.
Nói tới đây, Phục Ba đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi góc tường có trồng
mấy khóm trúc tương phi[2], cất lời: “Các nàng không chỉ là thê tử của
Thuấn, mà còn là nữ nhi của Nghiêu, cùng vương quyền có trăm ngàn mối
quan hệ. Mỗi người đều nói, vết đốm trên thân trúc tương phi là do nước
mắt các nàng biến thành, các nàng thật sự bi thương đến thế sao? Rơi rất nhiều nước mắt như thế, là thương tiếc cho phu quân, hay là bi thương
cho mệnh mình sắp tận?”
Bỗng nhiên than nhẹ một tiếng: “Vết đốm trên thân trúc tương phi, thật sự là do nước mắt hóa thành sao?”
Nhất thời hai người đều im lặng, chỉ có tiếng gió thổi lá trúc xào xạc ngoài cửa sổ, âm u vắng lặng.
Lát sau, Tử Thôn mới hỏi: “Tại sao lời mẫu hậu nói lại khác một trời một vực với những gì sách sử đã ghi lại?”
Phục Ba cười: “Bởi vì sách sử đều do người thắng viết lại. Phàm là những
chuyện liên quan đến chính trị, mỗi người đều có những việc không sạch
sẽ, vất vả đánh thắng, tất nhiên là muốn sửa sử, hoặc dứt khoát bịa đặt
một vài truyền thuyết động lòng người khiến bản thân trở nên trong sạch… Hiện tại không phải thúc phụ con đang triệu tập môn khách sửa lại sử
sách của Xư quốc ta sao? Cho nên, những gì y đã dạy con đều không sai.
Con phải làm thế, giống như Nghiêu Thuấn, vừa hoàn thành đại nghiệp vừa
được tiếng thơm ‘thánh quân’ lưu danh thiên cổ.”
“Nhưng….” Phục Ba đột nhiên nhấn mạnh, nàng chăm chú nhìn Tử Thôn, nói từng chữ:
“Có một điều con phải nhớ kỹ, Nghiêu – Thuấn đã trị vì thiên hạ như thế
nào, nhưng tuyệt đối không thể cho người khác cơ hội ép con ‘nhường
ngôi’.”
Sau khi tiêu diệt Khởi quốc, đẩy lui Kình quốc một năm, phu nhân của Tân
Dương Quân – công chúa Khởi quốc – bệnh chết. Tân Dương Quân lấy lễ nghi chính thê an táng, xây mộ khóc tang, thực hiện đầy đủ mọi lễ nghĩa. Nửa năm sau khi phu nhân y mất, y không mặc hoa phục, không gần thanh sắc
(múa hát và sắc đẹp), một lòng thương nhớ người vợ đã mất.
Một ngày, Tân Dương Quân vào cung bái kiến Tử Thôn, thấy y vẫn còn mặc quần áo trắng, Tử Thôn liền hỏi: “Tang kỳ của thím đã hết, thúc phụ còn định mặc y phục trắng này bao lâu nữa?”
Tân Dương Quân đáp: “Ba năm.”
Môi khẽ nhếch lên thành nụ cười khẩy lạnh lùng, Tử Thôn hỏi ngược lại y:
“Lúc Thúc phụ sửa Xư sử, không biết đã viết lại cuộc chiến diệt Khởi
quốc thế nào?”
Tân Dương Quân đáp: “Đương nhiên là Đại vương nhân nghĩa chi sư, thay trời hành đạo, giúp đỡ chính nghĩa.”
Tử Thôn đưa tay cầm lấy một cuốn “Xư sử” đã được Tân Dương Quân chỉnh sửa, nghiêng đầu thoáng nhìn y nói: “Năm đó Khởi vương tán thưởng thúc phụ,
cũng gả công chúa cho thúc phụ, những năm qua lại tương đối quan tâm đến thúc phụ. Ta vẫn rất muốn hỏi thúc phụ, sau khi Thúc phụ quyết định
phạt Khởi, có từng cảm thấy mình bất nhân bất nghĩa với Khởi vương?”
“Nhân, nghĩa, chỉ dùng để đối đãi với người quân tử.” Tân Dương Quân lạnh nhạt nói: “Năm đó Khởi vương giúp đỡ thần là muốn lợi dụng thần để thiết
quốc (cướp đoạt chính quyền). Ông ta nhiều lần hoặc nói rõ hoặc ám chỉ,
nhưng thần đều giả vờ như không biết. Mỗi lần đều qua loa lấy lệ, sau
lại ẩn cư ở núi U Hoàng, để tránh đi.”
“Thế thím thì sao? Thím toàn tâm toàn ý đối xử với thúc phụ. Thúc phụ lại
tiêu diệt quê hương của thím, giết đệ đệ của thím. Thúc phụ đã từng quan tâm đến cảm nhận của thím chưa?” Tử Thôn thấy vẻ mặt Tân Dương Quân
không thay đổi, câu hỏi càng sắc bén hơn: “Thím, thật sự là bệnh chết
sao?”
Tân Dương Quân bất giác tức giận đáp: “Chuyết Kinh thân thể yếu ớt, lại mẫn cảm hay nhiều nghĩ, không phải là người sống thọ. Quả thật là thần đã
phụ nàng ấy, nhưng chỉ cần là việc có lợi cho đất nước của Đại vương,
cho dù có phải phụ hết tất cả mọi người trong thiên hạ, thần cũng sẽ
làm.”
“Ta có thể tin tưởng người sao, thúc phụ?” Tử Thôn hỏi nhỏ, có phần cảm
khái: “Mấy năm qua, thúc phụ nói gì ta nghe nấy, vô cùng tin tưởng
người, nhưng lại luôn không biết Thúc phụ đang nghĩ gì, đang làm gì.”
Sau đó ánh mắt nhìn lên trên thẻ tre: “Lần sau người sẽ làm ra hành động
tốt gì để khiến vạn dân ca tụng? Môn khách của người, ngoài đạp nỏ ra,
còn đang nghiên cứu chế tạo cái gì? Khi nào thì người sẽ lại gả một muội muội khác của ta ra ngoài? Tương lai người sẽ viết trên sử sách thế nào về người, về ta… Vết đốm trên thân trúc tương phi, thật sự là do nước
mắt hóa thành sao?”
Lông mày cau lại, Tân Dương Quân hỏi: “Là ai nói với Đại Vương nói những
điều đó? Đại vương anh minh nhân ái, đối đãi chân thành với thần, ủy
thác trọng trách. Thần trung thành phụ tá Đại vương, tận tâm tận lực, cố gắng báo quốc. Mà nay đại nghiệp chưa thành, quân thần ta cần phải đồng tâm hiệp lực, xây dựng thịnh thế. Đại vương không nên tin lời kẻ khác
ly gián, vì một chút nghi ngờ mà tổn hại đến đại nghiệp.”
Tử Thôn không đáp lời này của y, cười như không cười chuyển sang hỏi vấn
đề khác: “Thúc phụ, năm đó Khởi vương đã có ý giúp đỡ người đoạt quân
quyền, vì sao người không đoạt?”
Tân Dương Quân kiên quyết lắc đầu: “Giang sơn này sớm muộn gì cũng là của Đại vương, ta sẽ không đi đoạt.”
“Ta có tài đức gì, mà lại được thúc phụ coi trọng như thế?” Tử Thôn mỉm
cười: “Thúc phụ nói, người làm đại sự, không thể bị lòng dạ nữ nhân ràng buộc. Vì vậy, thúc phụ không thương thím, không tiếc Tang Lạc. Tại sao
lại đối xử khác thường với một mình Tử Thôn? Vì Tử thôn mà không đoạt
quân quyền?”
“Bởi vì, Đại Vương không giống các nàng ấy.” Đột nhiên Tân Dương Quân bước
mấy bước đến gần Tử Thôn, đôi mắt tỏa ra những tia sáng dị thường, y
chăm chú nhìn Tử Thôn: “Thê tử như xiêm y, huynh đệ như thủ túc, mà Tử
Thôn con với ta, là xương, là máu.”
Bất ngờ xảy ra, lại bị độ ấm trong mắt y làm cho kinh sợ, Tử Thôn không
khỏi rụt về phía sau. Mà y còn đang nhìn hắn, nét mặt không giống như
thần tử nhìn quân vương, ánh mắt kia chứa đựng yêu thương cùng tình cảm
khó mà diễn tả hết, giống như đang nhìn một tinh phẩm do đích thân y tạo ra.
“Tử Thôn…” Y lại gọi hắn. Tử Thôn mơ hồ cảm thấy, y xưng hô với mình như
vậy là đã đi quá giới hạn, nhưng thấy y gọi tự nhiên như thế, giống như
cùng hắn có quan hệ vô cùng mật thiết… Tựa hồ cũng không sai, Thúc phụ
có lẽ chỉ tạm thời quên đi tôn ti địa vị, chỉ nhớ được mình là cháu y…
Nhưng ngữ khí của y khi gọi tên hắn làm hắn liên tưởng đến mẫu thân. Mẫu thân cũng gọi tên hắn như thế, còn khi nói chuyện với phụ vương thì sẽ
không có độ ấm như vậy.
Là xương? Là máu? Nhớ lại cách thúc phụ dùng từ, Tử Thôn gần như có chút
sợ ngây người, những mảnh nhỏ hiện ra trong đầu: núi U Hoàng, hoa đỗ
nhược, mỗi lần mẫu thân nghe có người nhắc tới Tân Dương Quân đều lạnh
nhạt khác thường… Thậm chí, còn có công tử Kỳ và Tang Lạc…
A, vì sao lại nghĩ đến bọn họ? Tử Thôn bỗng nhiên nổi giận, đứng phắt dậy, trách mắng Tân Dương Quân còn đang muốn nói gì đó với hắn: “Láo xược!
Khanh lại dám gọi thẳng tên của quả nhân!”
Tân Dương Quân ngẩn ra, lập tức khôi phục trạng thái bình thường, cúi người nói: “Đại vương thứ tội.”
Tử Thôn vung tay áo dài lên, chỉ ra ngoài cửa lạnh lùng nói: “Cút, cút ra ngoài!”
Dưới cơn thịnh nộ của Tử Thôn, Tân Dương Quân bình tĩnh cáo lui: buông mắt,
lui mấy bước mới xoay người ra cửa, có sự kính cẩn mà một thần tử nên
có.
Đợi bóng dáng y biến mất, Tử Thôn lảo đảo ngồi lên ghế, trên trán lấm tấm
mồ hôi lạnh, sắc mặt thay đổi liên tục, trong lòng sợ hãi khôn nguôi.
Chốc lát, cửa điện được mở ra, một góc y phục lặng lẽ hiện ra, một nữ tử bước qua cánh cửa chậm rãi đi vào, là Khê Tôn.
Khê Tôn dùng ánh mắt kỳ lạ nhìn hắn, khẽ nói: “Đại vương, đó là bất hiếu.”
Tối hôm đó, Tử Thôn đến cung của Phục Ba. Phục Ba liền phát hiện ra tâm tình khác thường của hắn.
Hắn đuổi tất cả cung nhân ra ngoài, ngồi lỳ bên cạnh nhìn nàng cắt tỉa cành hoa, câu được câu mất không liên quan gì đến nhau.
Mẫu hậu thích hoa đỗ nhược nhất sao? Thật trùng hợp, Tân Dương Quân cũng
thích. Trong phủ của y trồng rất nhiều, thời gian hoa nở, trên người y
cũng có hương thơm của hoa đỗ nhược.
Tân Dương Quân nói, ngày sau quy ẩn, vẫn sẽ quay về núi U Hoàng… Đó là cố
hương của mẫu hậu, phong cảnh nhất định rất đẹp? Khi nào hắn có thời
gian rảnh rỗi, nhất định phải đến nơi đó.
Ngày hôm qua, có một nữ nhân ở hậu cung nói, hắn có vài phần giống Tân Dương Quân. Hắn liền đi soi gương, đúng là có mấy phần giống nhau…
Hôm nay, Tân Dương Quân và Khê Tôn đều nói những lời kỳ lạ với hắn. Tân
Dương Quân nói, đối với y, hắn là xương là máu. Hắn khiển trách y, Khê
Tôn lại nói hắn bất hiếu…
“Rốt cuộc con đang muốn nói chuyện gì?” Phục Ba đẩy cành hoa ra, đặt dưới kéo, nghiêng người hỏi Tử Thôn.
“Ai là phụ thân của con? Con là nhi tử của ai?” Đột nhiên Tử Thôn nêu câu
hỏi. Giọng nói cùng thân thể hắn đều run nhè nhẹ, nhìn chằm chằm vào mẫu thân mình, giống như đang nắm chặt một bè gỗ cứu sống cuối cùng.
Phục Ba mắt lạnh nhìn hắn, hỏi lại: “Vị trí Đại vương này của con, làm sao có được?”
Tử Thôn đáp: “Là phụ vương truyền ngôi cho con…”
“Sai.” Phục Ba quả quyết nói, “Hắn chưa từng có ý định truyền ngôi cho con.
Con có thể kế vị, là vì hắn không còn sự lựa chọn nào khác, thần dân Xư
quốc cũng không còn sự lựa chọn nào khác. Người trong thiên hạ đều biết, con là nhi tử duy nhất của Xư vương Huyền Luyện.”
Tử Thôn im lặng, trầm ngâm không nói.
Giọng nói Phục Ba ôn hòa hơn, nhẹ giọng hỏi hắn: “Hiện tại, con đã biết đáp án chưa?”
Tử Thôn đưa mắt nhìn mẫu thân, cuối cùng, trịnh trọng gật đầu.
Phục Ba liền cười, lấy khăn lụa lau đi mồ hôi lấm tấm trên trán hắn, vô cùng trìu mến nói: “Con đã lớn thế này rồi, sao lúc nào cũng đem hỉ nộ đặt
trên mặt thế? Người ta sẽ chỉ coi con như là một người tâm tư đơn giản,
như thế được sao?”
Ngày tháng lại chậm rãi trôi qua. Tân Dương Quân vẫn phụ chính. Tử Thôn vẫn
nói gì nghe nấy. Cả nước tràn ngập bầu không khí thanh bình, dần dần
phồn thịnh, tất cả dường như không có gì khác thường.
Chỉ là mùa xuân năm sau có phần khác thường, vẫn là thời tiết mùa xuân sáng sủa, nhưng mưa lại chậm chạp không tới, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến
nông canh và thuỷ lợi. Các quan lại lo sợ nếu cứ tiếp tục không mưa đến
mùa hạ sẽ gây ra hạn hán, nên liền dâng tấu thỉnh Tử Thôn phỏng theo
chuyện xưa của Tân Dương Quân, ra ngoài thành cầu mưa.
Tử Thôn lập tức đồng ý, nhưng lại nói: “Nạn hạn hán lần này có lẽ có liên
quan đến hai cuộc chiến tranh trước đây, giết chóc quá mức, trời cao hẳn là bất mãn, cầu mưa như bình thường, chỉ sợ không giải quyết được vấn
đề. Quả nhân có ý dùng rồng thuyền tuần du Minh Thủy, tế tự thiên địa
ven đường, cùng sơn thần hà bá, cũng xin chư thần phù hộ cho Xư quốc ta
mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an.”
Chúng thần đều xưng phải, chỉ có Tân Dương Quân cho rằng việc không cần
thiết, nói quân vương không thể tự tiện rời khỏi quốc đô, ra ngoài thành cầu mưa là được, cần gì phải tuần du mấy trăm dặm.
Thế nhưng Tử Thôn kiên trì, âm thầm khẩn cầu Tân Dương Quân: “Mấy ngày gần
đây, ta thường mơ thấy Tang Lạc. Mỗi lấy muội ấy đều dùng nét mặt bi ai
thê thương nói với ta, hồn phách của muội ấy bị khóa dưới lòng sông, cả
ngày cô tịch, nước sông Minh Thủy lại rất lạnh. Trước đây, ta cũng đã
từng nghĩ đến việc mượn cơ hội tế trời địa cùng chư thần, đích thân tới
Minh Thủy cầu chúc cho muội ấy, hy vọng muội ấy sớm ngày thăng thiên,
thoát khỏi nỗi khổ bị nước lạnh dày vò. Vạn mong Thúc phụ thành toàn.”
Tân Dương Quân thấy hắn khẩn thiết như thế, lại nhắc tới cảnh tượng Tang
Lạc u buồn, trong mắt lộ ra vẻ xúc động, rốt cục gật đầu đồng ý.
Tử Thôn lập tức sai người chuẩn bị tế phẩm, làm thuyền rồng, chọn ngày
lành. Không ngờ sau khi chuẩn bị xong tất cả, trước giờ xuất phát, Tử
Thôn lại đổ bệnh.
Nói là bị nhiễm phong hàn,nhưng buổi chiều trước khi xuất phát, bệnh tình
lại đột nhiên nặng thêm, cả người sốt cao, sắc mặt đỏ bừng, suy yếu đến
mức ngay cả mở mắt cũng thấy khó khăn.
Buổi sáng ngày khởi hành, Tân Dương Quân vào cung thỉnh an. Thấy Tử Thôn vẫn mê man nằm trên giường bệnh, y đến gần lấy tay đặt lên trán hắn. Nhiệt
độ khiến y không khỏi cả kinh, liền nói: “Đại vương long thể bất an, nên nghỉ ngơi điều dưỡng, việc tế trời ngày sau bàn lại. Thỉnh Đại Vương hạ chỉ, bãi bỏ lộ trình hôm nay.”
Tử Thôn lại kiên quyết lắc đầu, cố gắng ngồi dậy, nói với Tân Dương Quân:
“Ngày lành đã định, cũng đã sớm chiếu cáo thiên hạ. Nếu bây giờ bãi bỏ,
chỉ sợ nhân thần đều căm phẫn, tương lai sẽ bị trời phạt, khiến chúng ta gặp càng nhiều tai hoạ hơn.”
Tân Dương Quân nhíu mày nói: “Nhưng nếu Đại vương không để ý đến bệnh tình
mà tuần du, đi đường mệt nhọc, chắc chắn có trở ngại.”
“Thúc phụ…” Tử Thôn đột nhiên cầm chặt tay Tân Dương Quân, “Thỉnh thúc phụ thay ta tế trời.”
Tân Dương Quân kinh ngạc từ chối, Tử Thôn lại tiếp tục khẩn cầu: “Thúc phụ
là người thân cận, là người Tử Thôn tín nhiệm nhất. Luận huyết thống,
luận thân phận, thử hỏi trong thiên hạ này, ngoài thúc phụ ra, ai có thể xứng đáng đại diện cho Tử Thôn bằng người chứ? Trong lòng Tử Thôn, thúc phụ như á phụ của ta (một nửa phụ thân hoặc phụ thân thứ hai). Nay Tử
Thôn vì đổ bệnh mà không thể đi thuyền tế trời, á phụ thay Tử Thôn đi
cũng là hợp tình hợp lý. Thỉnh thúc phụ đáp ứng tâm nguyện này của Tử
Thôn.”
Trầm ngâm giây lát, Tân Dương Quân hỏi hắn: “Con thật sự hy vọng thúc phụ đi?”
Tử Thôn chầm rãi gật đầu.
Cười một tiếng, Tân Dương Quân đồng ý: “Được. Thần tuân mệnh.”
Lúc y cáo lui rời đi, Tử Thôn đột nhiên gọi y lại, cố gắng xuống giường,
quỳ xuống trước mặt Tân Dương Quân: “Thúc… Phụ…” Giọng nói của hắn nghe
có phần đứt quãng, hơi thở không ổn định, cũng lộ rõ tâm trạng xúc động: “Thúc phụ đi chuyến này, đường xá xa xôi, xin nhận của Tử Thôn một
lạy.”
Tân Dương Quân cúi người đỡ hắn đứng lên, nhưng hắn vẫn kiên quyết dập đầu. Tân Dương Quân cũng không miễn cưỡng nữa, im lặng nhận lấy, nói: “Đại
vương không cần đa lễ. Hành sự theo lệnh vua là bổn phận của thần. Huống chi Đại vương tế trời, là vinh quang hết sức to lớn, thần tạ ân điển
của Đại vương.”
“…”
Tử Thôn nói: “Thúc phụ sớm đi về sớm… Trong triều còn có rất nhiều việc, cần thúc phụ quyết định.”
Tân Dương Quân lắc đầu: “Nếu có việc, thỉnh Đại vương tự mình quyết định.
Hôm nay Đại vương có thể nói ra lời này với thần, thần liền biết, trời
đất đã ở trong lòng Đại vương.”
Bái biệt lần nữa, đang lúc y xoay người, Tử Thôn lại gọi y: “Thúc phụ…” Mắt cũng đỏ, hắn lại nghẹn ngào: “Trên thuyền gió lớn, đừng quên mặc thêm y phục.”
Quay đầu dừng lại, Tân Dương Quân không nói gì, chỉ hơi cười nhìn Tử Thôn.
Lúc Khê Tôn đến thong báo tin tức này, Phục Ba đang kiểm tra đơn thuốc y quan kê cho Tử Thôn.
“Cô nương, Đại vương thỉnh Tân Dương Quân thay ngài đi tế trời. Tân Dương
Quân đã đáp ứng, hiện đã rời cung khởi hành.” Khê Tôn nói với Vương Thái hậu Phục Ba.
Phục Ba không chút đếm xỉa “ừ” một tiếng.
“Còn có một chuyện khác…” Khê Tôn do dự, nhất thời không nói tiếp.
“Nói.” Phục Ba ra mệnh lệnh ngắn gọn.
Khê Tôn đưa lên một hộp gỗ nhỏ, mở ra, trong đó có một ít bã thuốc. Phục Ba nhìn kỹ, phát hiện là ngao quá và phụ tử.
Phụ tử, vị cay, tính nóng, có độc, là vật phẩm thuần dương, nếu người không có bệnh, dùng nước của nó, sẽ khiến cả người khô nóng, giống như phát
sốt phong hàn.
“Đây là do cung nhân trong tẩm cung Đại Vương đổ đi.” Khê Tôn nói.
Phục Ba trợn mắt, lập tức đứng dậy, đè lại bàn tay đang run rẩy.
“Đi!” Gần như là buột miệng, nàng phân phó Khê Tôn: “Đến bến phà tìm Tân Dương Quân, thỉnh y tạm dừng khởi hành.”
Khê Tôn lập tức xuất cung. Không lâu sau Khê Tôn trở về, báo lại: “Thuyền
rồng đã khởi hành, nô tỳ thấy Tân Dương Quân chắp tay đứng ở đầu thuyền, liền cao giọng gọi ngài ấy, vẫy tay với ngài ấy, nhưng ngài ấy lại làm
như không biết, chỉ chăm chú nhìn nước trôi dưới chân, không biết đang
suy nghĩ điều gì.”
“Cô nương, có cần truyền lệnh cho thị vệ dùng thuyền nhỏ đuổi theo đưa ngài ấy về không?” Khê Tôn kiến nghị.
Lúc này Phục Ba lại trầm mặc. Một lúc lâu sau, nàng lại yên lặng ngồi xuống, khôi phục sắc mặt an hòa trả lời: “Không cần.”
Khê Tôn có phần kinh ngạc, muốn nói gì đó, nhưng cuối cùng vẫn chọn im
lặng, hồi lâu sau thở dài nói: “Thuyền rồng chạm trổ rất tinh xảo… Ngài
ấy đứng trước gió, một thân y phục trắng tung bay, phong thái hệt như
thần tiên… Nhắc tới cũng lạ, trong thiên hạ lại có người như ngài ấy,
bất luận là đắc ý hay sa sút, dung mạo vẫn trước sau hoàn mỹ không đổi.”
Phục Ba Không nói một lời. Từ lúc đó, nàng liền ngồi bên cửa sổ ngắm nhìn
khóm trúc xung quanh, không nói một lời, ngay cả tư thế cũng không thay
đổi, mãi cho đến hôm sau, tin tức thuyền chìm truyền tới.
“Đêm qua, Minh Thủy bất ngờ dậy sóng…” Khê Tôn đứng sau lưng nàng nhẹ giọng
kể lại tin tức vừa mới nhận được: “Chỉ là sóng gió rất nhỏ… Thuyền rồng
liền bị phá tan thành từng mảnh nhỏ… Trong thời gian rất ngắn… Nghe
người ta nói, giống như một đóa hoa nở rộ trên mặt nước vậy…”
“Y… đã chết?” Phục Ba đưa lưng về phía Khê Tôn, còn đang nhìn cành trúc, giọng nói phảng phất nỗi buồn, khô khốc ám ảnh.
Khê Tôn cúi đầu đáp một tiếng: “Vâng” .
Phục Ba lẳng lặng quay đầu, Khê Tôn không khỏi kinh hãi… Khê Tôn nhìn thấy
một khuôn mặt xa lạ, già nua mà tiều tụy, công sức nhiều năm tỉ mỉ chăm
sóc đột nhiên biến mất, trong một đêm mà Phục Ba già đi cả mười tuổi.
Khẽ nhếch đôi môi khô nứt, Phục Ba cười cười: “Đã biết.”
Hai ngày sau, quản gia của Tân Dương Quân mang một cây hoa đỗ nhược non vào cung cầu kiến Vương Thái hậu, nói trước khi đi Tân Dương Quân căn dặn,
bảo ông ta lúc này đem cây hoa ấy vào cung dâng cho Vương Thái hậu. Đây
là Tân Dương Quân mang từ núi U Hoàng về.
Phục Ba nhận lấy, Khê Tôn vì nàng chọn chỗ trồng hoa, nhưng Phục Ba đều nói
không được. Cuối cùng, nàng đi đến hoa viên bên hồ nước, tự mình trồng
đỗ nhược xuống, mới hài lòng mỉm cười.
“Cần phải sống ở mép nước.” Nàng chăm chú nhìn bóng đỗ nhược trong nước,
nói: “Y cho rằng y yêu hoa đỗ nhược, nhưng lại không biết rằng, thứ y
chân chính yêu là nước trồng hoa này.”
Sau khi nghe tin dữ của Tân Dương Quân, Tử Thôn khóc thảm mấy ngày liền,
ngất lên ngất xuống mấy lần. Sau đó viết văn tế, xưng là “Á phụ”, lời lẽ đau khổ thê lương, chữ chữ bi ai, khiến người nghe sầu não.
Tử Thôn lấy lễ nghi quốc quân an táng trọng thể Tân Dương Quân. Trong tang lễ, Tử Thôn vẫn không ngừng rơi lệ, dường như không thể chủ trì nghi
lễ. Phục Ba liền đứng dậy đi đến bên cạnh hắn, nói với Tử Thôn nhưng
cũng đủ để chư thần xung quanh có thể nghe thấy: “Đại vương xin nén bi
thương. Tân Dương Quân là không phải người thường, chính là chuyển thế
của Vân Trung Quân, vì phụ tá Đại vương mà tới. Nay Xư quốc hưng thịnh,
thiên hạ thái bình. Vân Trung Quân đã hết trách nhiệm, vì thế phi thăng
trên Minh Thủy, trở về Thiên đình, làm vân thần như trước.” Nói xong
chuyển qua quan sát sắc trời, nói: “Nhìn xem, trời mưa.”
Mọi người ngước mắt lên nhìn, quả nhiên thấy bầu trời lất phất rắc xuống
từng tầng nước mưa. Lúc bắt đầu thì nhỏ như lông tóc, sau đó càng ngày
càng lớn, chốc lát liền mưa như trút nước.
“Vân Trung Quân! Quả nhiên là Vân Trung Quân…” Mọi người đều sợ hãi, vội vàng quỳ xuống bái lạy.
Tử Thôn hạ lệnh, cả nước vì vân thần Tân Dương Quân tạo lập miếu thờ, tôn
sùng là chủ thần của Xư quốc. Một năm tế lễ hai lần vào mùa xuân và mùa
thu, muôn đời không dứt.
Mười bảy năm sau, Xư hoàng Tử Thôn nhất thống Trung Nguyên.
_________________
Chú thích:
[1] Tuần thú (巡狩): vua/thiên tử đi tuần xem các nước chư hầu.
[2] Trúc tương phi (hay còn gọi là trúc đốm): tương truyền Vua Thuấn đi
tuần ở Thương Ngô bị băng hà, hai vợ Vua Thuấn thương chồng than khóc ở
khoảng giữa Trường Giang và Tương Giang nước mắt vẩy lên cây trúc, từ đó da trúc có đốm.
[3] Lễ nghi hồn:
– Dịch nghĩa:
Trống vang báo hiệu lễ đã xong, cho cỏ ba(*) cử nên điệu múa
Thiếu nữ xinh đẹp cùng hòa tiếng ca
Xuân lan rồi lại thu cúc, vĩnh viễn khôn cùng
(*) Cỏ ba là một loại cỏ thơm
Đoạn trên trích từ thiên “Lễ hồn” trong tác phẩm “Cửu ca” của Khuất Nguyên.
Hoàn