Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp

Chương 16

Đoàn người ăn uống no say, từ quán rượu bước ra, liền trông thấy một người đàn ông trung niên mặc áo lụa, lưng đeo roi sắt đứng chờ nơi cửa. Sau lưng y là hai gia nhân, mỗi người dắt một con tuấn mã, yên cương đều tinh xảo tươm tất. Vừa thấy Vi Huấn bước ra, trung niên nọ lập tức nở nụ cười niềm nở, tiến tới trước, tự giới thiệu:

“Tại hạ là Kiều Thạch, vẫn nghe danh Thanh Sam Khách đã lâu. Nay thiếu hiệp ghé qua chốn này, tại hạ không kịp lo chu đáo, đây là chút tấm lòng của Kiều gia, xin tặng hai con ngựa này để thiếu hiệp đỡ nhọc bước đường xa.”

Vi Huấn trong lòng đã chẳng vui, thần sắc uể oải, lười đáp lời, chỉ buồn bã nói: “Ta chưa từng đặt chân tới Tân Phong, cũng chẳng quen biết ngươi, kính đã lâu là kính kiểu gì?”

Lời nói thẳng thừng không nể mặt ấy khiến Kiều Thạch khựng lại, thầm nghĩ: lời đồn chẳng sai, người này đúng là kiêu ngạo hơn người, không muốn giao hảo với ai trong giang hồ. Nhưng hắn cũng mừng thầm: chí ít lời mình nghe được là đúng người.

Trần Sư Cổ vốn là một dị nhân kỳ tài, hiểu rộng biết nhiều, học cao hiểu rộng, chỉ cần chịu dốc lòng, có thể lập môn khai phái. Dẫu là người sống nơi bùn đất trộm mộ, nhưng lại là phúc cho giang hồ. Nay lão qua đời, môn nhân tản ra, không thể không dè chừng.

Trong đó, người mang y bát chính truyền là đại đệ tử là một kẻ tài năng dị thường, bản tính ngang ngược, ngay cả sư phụ cũng chẳng trị nổi. Hành tung hắn như bóng ma, từ sau khi xuất sư đã có không ít người bại dưới tay, người từng thấy diện mạo thật lại hiếm hoi. Đến nỗi chẳng ai đặt nổi danh hiệu cho hắn, chỉ theo lời đồn mà gọi là “Thanh Sam Khách”.

Kiều Thạch vốn là người từng trải, thấy Vi Huấn như thế cũng không trách, vẫn giữ nét cười thân thiện: “Hiền sư đệ của thiếu hiệp là Khâu Nhậm, mấy hôm trước đi ngang qua Phong Trại, có dịp cùng ta nâng chén vài ly.”

Vi Huấn lạnh nhạt cười khẩy: “Cái tên mập chết giẫm ấy hiền cái gì mà hiền, liên quan gì đến ta.”

Kiều Thạch nghĩ bụng: sao lại không liên quan? Khâu Nhậm vốn kiêu ngạo, không coi ai ra gì, chỉ khi nhắc đến vị sư huynh này mới lộ vẻ kính nể. Hôm nọ tại dạ yến, sau khi ta tặng hắn năm mươi lạng vàng, hắn mới “vô tình” nhắc tới tung tích sư huynh. Ta liền sai người chực sẵn trong thành, mong được diện kiến vị khách thần long thấy đầu không thấy đuôi này.

Khác với hạng du hiệp bốn phương làm nhà, Kiều gia vốn đời đời làm nghề nuôi ngựa, dù có sản nghiệp trong tay, nhưng võ nghệ chẳng nổi danh. Kiều Thạch đã hạ quyết tâm: dù không thể kết giao thì cũng không thể kết oán. Bất kể Vi Huấn nói gì, y đều gật gù, mềm giọng như gió xuân.

Ngoài ngựa, hắn vốn định đưa thêm hai cô kỹ nữ tươi trẻ, nhưng vừa trông thấy Vi Huấn đã có một người đẹp theo hầu, bèn vội vàng sai người đưa bọn họ trở về.

Kiều Thạch mỉm cười, giọng nhỏ nhẹ: “Vừa rồi muốn vào mời thiếu hiệp một chén rượu, nhưng thấy người đẹp kề bên, không dám quấy rầy, đành đứng đây chờ.”

Hắn lại đưa dây cương về phía trước, nhưng Vi Huấn coi như không thấy. Gã chỉ lẳng lặng dắt lừa tới, đợi Bảo Châu yên vị, thì rút cây gậy cắm trước cửa quán rượu, nắm dây cương lặng lẽ rời đi.

Kiều Thạch trố mắt nhìn theo, chỉ thấy người trong truyền thuyết ấy ngạo mạn, sắc sảo, ngông cuồng lại như một gã tiểu đồng, dắt lừa đưa người đi xa.

Đi được một đoạn, Bảo Châu thấy Vi Huấn vẫn lặng thinh, khác hẳn lúc trước hay trò chuyện, bèn hiểu hắn vẫn còn giận chuyện mình trêu chọc bài thơ khắc đá. Nàng liền lên tiếng: “Ta nghe người kia gọi ngươi là ‘Thanh Sam Khách’, cái tên ấy cũng hay đấy chứ.”

Vi Huấn chỉ khẽ “ừ” một tiếng.

Bảo Châu nói tiếp: “Nguyên Chẩn từng viết: ‘Áo xanh động lòng người, tóc bạc nhìn cố hương’. Bạch Nhạc Thiên cũng từng nói: ‘Tóc bạc thêm phần hôm nay, áo xanh chẳng đổi năm xưa’. Lại có người viết: ‘Hương thơm là do quế, màu xanh sinh từ lam’. Những lời ấy đều khen áo xanh thanh cao, lại ngụ ý truyền thừa vượt bậc.”

Nghe nàng giãi bày như rắc ngọc buông châu, Vi Huấn càng thêm tịch mịch trong lòng.

“Cái tên ấy chẳng qua người ta không biết ta là ai, thấy thường mặc áo xanh liền gọi bừa vậy thôi. Nào có liên quan gì đến cao quý hay không. Áo xanh chẳng qua là vải thường rẻ nhất. Ta ngày nào cũng lăn lộn trong đất mộ, uống rượu của người chết, có gì mà thanh khiết?”

Bảo Châu lặng im một lúc, rồi nhẹ giọng nói: “Ta không tốt cũng chẳng sao. Ta được phong làm Vạn Thọ, nhưng mới mười bảy đã chết, còn cách một vạn tuổi những chín nghìn chín trăm tám mươi ba năm.”

Vi Huấn nghe vậy liền quay sang nhìn nàng, thấy nét buồn nơi mắt, vành mi đỏ hoe, lòng chợt xót xa. Nàng hiện nay không nhà để về, thân thể tuy sống, thân phận lại như đã chết, tên phong hào dù đẹp cũng chẳng ai gọi.

Thập Tam Lang chen vào: “Hai người còn hơn ta, ít ra có danh hiệu. Còn ta, lúc người ta vui thì gọi tiểu hòa thượng, không vui thì gọi tiểu đầu trọc… Mắng nặng hơn thì thành tên trộm trọc chết tiệt.”

Bảo Châu bật cười, suýt rơi nước mắt. Rồi nàng lặng lẽ nói: “Ta nhớ khi còn nhỏ, mẹ từng dắt ta đi chơi xuân ngoài thành Trường An, gặp một đạo sĩ râu đỏ. Ông ta xem tướng, nói ta phú quý trọn đời nhưng số yểu mệnh, chưa kịp kết tóc đã chết non. Cha ta hoảng sợ, liền phong ta làm Vạn Thọ Công Chúa, treo bùa trường mệnh khắp người, xây cả miếu cầu khấn cho ta sống lâu. Không ngờ rồi cũng không thoát.”

Vi Huấn hỏi: “Vị đạo sĩ ấy trông thế nào?”

Bảo Châu lắc đầu: “Khi ấy ta mới hơn một tuổi, còn phải bế bồng, làm sao nhớ rõ. Chỉ nghe các bà vú trong cung kể lại.” Rồi nàng thở dài, “Trên đời này, có bao nhiêu điều hữu danh vô thực. Ta được phong Vạn Thọ mà đoản mệnh. Ngươi mang tên Vi Huấn, lại nào có dạy ai bao giờ? Theo ta, phải gọi là Vi Bất Huấn mới đúng.”

Quả thật Trần Sư Cổ đặt cái tên ấy là vì đệ tử này ngang ngược khó thuần. Nhưng tiếc thay, cái tên cũng chẳng giúp được gì.

Vi Huấn chỉ gật đầu cười nhạt. Ba người nhìn nhau, cùng bật cười, bao nhiêu ưu phiền chốc lát cũng tan.

Bảo Châu chợt hỏi: “Vừa rồi người ta tặng ngựa, sao ngươi không nhận? Dù không phải ngựa tốt, đi đường vẫn đỡ vất vả hơn.”

Vi Huấn đáp: “Người dưng bỗng dưng tốt, hẳn là có toan tính. Hắn làm nghề buôn ngựa, lại quá sốt sắng, bảy phần là buôn bán, ba phần là gian trá. Nếu chẳng có ý tốt, đưa ta hai con ngựa trộm của quan phủ, đến lúc bị truy xét giữa đường thì lại rắc rối to.”

Bảo Châu ngạc nhiên hỏi: “Ngựa quan đều có dấu đóng vào mông, chỉ cần tra là biết, hắn dám trộm sao?”

Vi Huấn bật cười: “Tổ tiên nhà hắn vốn làm nghề ấy, hẳn là có mẹo riêng. Nghe nói Kiều gia có thứ thuốc mỡ đặc biệt, dùng bôi lên vết sẹo nơi đóng dấu. Bôi nhiều lần, lông lại mọc phủ kín, dấu cũ liền mờ, không nhìn kỹ cũng khó nhận ra.”

Bảo Châu kêu lên một tiếng kinh ngạc: “Đúng là tên buôn ngựa gian xảo!”

Vi Huấn lại nói: “Mà gần đây, nghe đâu họ còn chẳng buồn dùng cách ấy. Trực tiếp khai là mất.”

“Mất là thế nào?”

“Ngựa tốt thì khó nuôi, lại kén ăn, đi đường xa dễ sinh bệnh. Hoặc bệnh chết, hoặc mệt quá mà chết, hoặc trượt chân gãy cẳng mà chết. Tất cả đều gọi chung là ‘mất’. Chỉ cần nắm rõ cách thông báo, khai man lên một chút, ngựa quan biến thành ngựa chết, rơi vào tay Kiều gia, trở thành hàng hóa.”

Vi Huấn nói đoạn liền im bặt, đưa mắt liếc nàng một cái đầy ý vị.

Bảo Châu lập tức hiểu ra. Nay trong triều, chuyện hối lộ đã thành thói quen, phi tần công chúa trong cung ai nấy cũng bị lôi kéo, mong sao có thể giúp ai đó được lòng vua, đổi lấy quan chức hay ngồi cao mũ rộng. Lâu ngày, nàng tuy không tham gia, nhưng là thân phận hoàng thất, chuyện xấu trong chốn cung đình dù muốn phủi cũng chẳng gạt được.

Nghĩ hồi lâu, nàng nói: “Thảo nào ngươi không nhận, thì ra Kiều Thạch chẳng phải hạng đáng tin. Cũng khó trách, ngươi keo kiệt đến độ một hai phải bỏ mười phần bạc mua con lừa xấu không thể xấu hơn.”

Con lừa nghe vậy, lập tức hất chân sau phản đối, nhưng bị Vi Huấn giữ chắc dây cương, không nhảy lên nổi, đành tức tối hí vang một hồi như muốn cãi lý.

Bảo Châu nhìn Vi Huấn từ nãy đến giờ vẫn tay dắt lừa, tay cầm cây gậy gỗ dài hơn bốn thước, trong lòng sinh nghi, liền hỏi: “Ngươi cứ cầm mãi cây gậy làm gì?”

Vi Huấn đáp: “Nhặt bên đường. Ngươi xem, nó vừa thẳng, lại vừa dài.”

Bảo Châu chưa hiểu ra sao, nhìn sang Thập Tam Lang . Hắn thì chẳng thấy điều gì lạ, trái lại còn hồ hởi: “Thật đấy! Rất thẳng, rất dài, đúng là cây gậy tốt!”

“Ta hỏi để làm gì kia mà!”

Vi Huấn nhíu mày: “Thì ta thấy nó thẳng, dài, đó đã là ưu điểm rồi. Còn dùng ra sao, thì từ từ ta nghĩ tiếp.”

Thập Tam Lang hớn hở xin mượn: “Sư huynh, cho đệ chơi thử một chút!” Rồi cầm lấy vung vẩy, đi tới đi lui giả làm hòa thượng đang vân du cầm tích trượng, xem ra cũng khoái trá lắm. Bảo Châu chỉ biết cười khổ, chẳng ngờ một cây gậy vô danh mà bọn họ chơi vui đến thế.

Về sau, cả ba gặp một ông lão bán đường mạch nha, hai huynh đệ liền quay sang nhìn nàng, ánh mắt đầy mong đợi. Bảo Châu thở dài, rộng rãi cho hai văn để họ mua ăn.

Tuy thân mang giáo dưỡng danh môn, không thể vừa cưỡi thú vừa ăn ngoài đường như đám thường dân, nhưng nhìn hai người kia ngây thơ vui vẻ, lòng nàng không khỏi sinh lòng hâm mộ. Nghĩ lại, khi xưa nàng cưỡi tuấn mã, giương cung săn thú, tiếng trống vang dội, cờ xí rợp trời, nhưng niềm vui kia có thật sự trọn vẹn bằng niềm khoái hoạt vô lo của hai tên trộm này?

Chơi một hồi, Vi Huấn bỗng vung đao chặt gậy gỗ làm đoạn dài ba thước, gọt bỏ vỏ ngoài, đo đạc xem nặng nhẹ, rồi đưa cho Bảo Châu.

Nàng ngẩn ra, không rõ ý hắn, chỉ biết nắm lấy cây gậy nhìn mãi.

Thập Tam Lang thì tiếc rẻ thở dài: “Lại tặng tỷ rồi… đệ vốn định dùng làm gậy chống lúc về già.”

Vi Huấn bật cười: “Chờ đệ què chân rồi hãy đi nhặt một cây khác.”

Bảo Châu giận: “Đa tạ! Nhưng ta chưa già đến nỗi cần gậy chống đâu nhé.”

Vi Huấn bảo: “Không phải để chống già, mà là phòng thân. Ngươi thể lực yếu, như mũi tên không đủ sức xuyên gió, đợi kẻ địch tới gần thì chỉ còn biết giơ tay chịu trói. Cung thủ vốn là những võ sĩ khỏe mạnh nhất trong quân. Xa thì bắn tên, gần thì rút đao. Ngươi từng luyện bắn cung giỏi như thế, sao không học chút võ?”

Bảo Châu sững người: “Ta tập cung là để săn bắn, đâu phải để giết người. Nếu không bắn trúng, thì còn thị vệ lo liệu. Ta chỉ cần cưỡi ngựa giương cung là được.”

Vi Huấn gật đầu: “Giờ thì ngươi không còn thị vệ nữa. Cầm cây gậy kia mà luyện dần đi.”

Lời hắn không chê vào đâu được, nhưng Bảo Châu lại chẳng muốn thừa nhận khuyết điểm của mình, liền lầm bầm: “Ta có thể mua một cây đao ba thước đeo bên hông cũng được.”

Nghe vậy, cả hai nam nhân cười ầm. “Chưa quen đã cầm binh khí sắc, chưa chắc chém được kẻ địch, chỉ sợ tự làm mình bị thương, ngón chân đứt mất, lại còn ê mặt.”

Bảo Châu giật mình, đưa tay vuốt má. Dung nhan là điều nàng quý nhất. Nghĩ tới cảnh mình chẳng còn mặt mũi nào nhìn ai, bèn rụt rè đem cây gậy nhét vào hành lý đeo sau lưng. Lòng bỗng dâng chút tủi thân: nàng dù gì cũng là công chúa, chẳng lẽ lưu lạc giang hồ mà hai tên trộm này lại không có ý bảo vệ nàng lúc nguy khốn, ngược lại còn bảo nàng tự lo thân?

Trong giây phút phẫn nộ, nàng ngấm ngầm hạ quyết tâm: từ nay trên đường phải siêng năng luyện cung, khôi phục thể lực, để một mũi tên cũng có thể đoạt mạng kẻ địch. Khi ấy, hai tên tiểu tặc này dám cười nàng nữa hay chăng? Nghĩ tới cảnh mình cưỡi ngựa bắn tên, oai phong rực rỡ, mà nay chỉ là một kẻ cưỡi lừa lôi thôi, lòng nàng không khỏi thở dài than thầm.

Thập Tam Lang nói: “Nghe nói Thái tử trước kia cũng vì bị gấu tấn công nên mới bị phế. Dù có thị vệ bên cạnh, săn thú vẫn là trò nguy hiểm.”

Bảo Châu lập tức nghiêm sắc mặt: “Chuyện ấy không đơn giản như lời đồn, đệ chớ nói bậy.”

Vi Huấn ngạc nhiên nhìn nàng: “Hắn chẳng phải hoàng huynh của ngươi sao? Không thân à?”

Bảo Châu nghĩ thầm: há chỉ là không thân! Đám con cháu hoàng thất, dẫu chung huyết thống cũng tranh giành nhau đến giọt máu cuối cùng. Sau biến cố Huyền Vũ Môn, chuyện người thân thành thù vốn chẳng lạ gì. Giữa cung đình, đao kiếm chưa chắc giết được nhiều người bằng một mũi tên quyền lực.

Cuộc hành trình vẫn tiếp tục. Khi sắp rời khỏi huyện Tân Phong, họ ghé mua bánh hấp làm lương khô mang đường.

Tiệm bánh nằm gần cổng thành, khách lữ hành đông như nước. Chủ quán che tấm bạt ngoài sân làm lều nấu, hơi nước từ lồng hấp cuồn cuộn bốc lên, phủ mờ cả bóng người.

Bảo Châu cưỡi lừa đi ngang, trong màn sương nước mịt mờ ấy, có kẻ bán dạo chợt nhìn nàng một cái, rồi vội nhét nốt chiếc bánh vào miệng, cõng bọc hành lý, tính tiền, lặng lẽ rời đi.

Vi Huấn dường như có ý nghĩ gì đó, nhưng không ngoảnh đầu lại.

Bình Luận (0)
Comment