Dù Bảo Châu có dậm chân chửi rủa đến đâu, thích khách thần bí kia vẫn tuyệt nhiên không lộ mặt.
Hoắc Thất Lang vốn đã bị hao tổn không ít công lực sau khi truyền nội lực cứu mạng Lý Nguyên Anh, nên phản ứng cũng không còn nhạy bén như trước. Nếu không nhờ Vi đại âm thầm theo dõi bảo hộ, e rằng năm tên sát thủ kia đã sớm đưa hai huynh muội họ về nơi chín suối. Nghĩ lại mà rợn người, nàng không khỏi thấy may mắn may là mình chưa từng thật sự đụng chạm đến công chúa. Nếu không, trước khi bị thích khách hạ thủ, có lẽ đã bị Vi đại xử lý sạch sẽ rồi.
Chuyện bị thích khách tập kích khiến Lệ phu nhân sinh nghi, cho rằng trong phủ có nội gián.
Thế nhưng cả hai huynh muội lại không nghĩ vậy. Tuy Hoắc Thất Lang không thể như Thanh Sam Khách, giết người không để lại dấu vết, nhưng chỉ cần nàng ra tay, diệt gọn năm mạng cũng chẳng khó khăn gì.
Hai người họ quyết định uống rượu đêm khuya hoàn toàn là ngẫu hứng. Nếu thật sự có nội gián, hẳn sẽ chọn thời điểm chắc chắn hơn chẳng hạn như vào ngày nghỉ cố định của nàng, lúc nàng rời phủ đi dạo chơi, mới là thời cơ hoàn hảo để ra tay.
Nhưng dù thế nào đi nữa, việc thích khách lộ diện đã chứng tỏ kẻ địch không còn nhẫn nhịn nổi. Dù không có kẻ phản bội bên trong, thì chắc chắn cũng có người đang theo dõi sát sao trong thành U Châu.
“Nếu là hoàng đế muốn ra tay,” Lý Nguyên Anh nói với thân tín, “ngài ấy sẽ cho nội thị đến ban rượu độc trước. Quân đã muốn thần chết, con làm sao dám trái? Còn nếu cẩn trọng hơn, sẽ triệu ta về Trường An rồi mới xuống tay. Nhưng nếu là Thái tử Lý Thừa Nguyên hay Ngụy vương Lý Nguyên Sài đứng sau, thì càng hợp lý hơn. Hoàng đế bệnh nặng lâu ngày, e rằng ai ai cũng đã tỏ tường.”
Rồi chàng trầm giọng:
“Đã đến lúc, chúng ta phải đổi người.”
Việc Vi Huấn từng thoáng hiện mà không chịu ra mặt khiến Bảo Châu phiền muộn không yên. Nhưng đại sự trước mắt liên quan đến bao người, nàng chẳng thể để những tình riêng cản bước. Chỉ đành cắn răng đè nén suy nghĩ rối bời trong lòng, quay về chuẩn bị cung tên thuận tay và hành lý gọn nhẹ.
Trước lúc lên đường trong đêm, Lý Nguyên Anh không thay y phục đơn sơ, mà ăn vận nghiêm chỉnh, trịnh trọng báo cho Hoắc Thất Lang về chuyện chàng cùng muội muội sẽ lên đường trở lại Trường An, đồng thời giao phó mọi việc sau lưng.
“Sau khi ta rời đi, ngươi phải cải trang thành ta, tiếp tục trấn giữ U Châu. Chỉ cần những người quan trọng trong vương phủ và Mạc phủ còn nhìn thấy ‘ta’ ở đây là được. Không cần phải nói gì, cũng không cần xử lý việc gì, mọi chuyện đã có Lệ phu nhân sắp xếp.”
Hoắc Thất Lang chống cằm, mắt chớp chớp hỏi:
“Vậy đây là nhiệm vụ cuối cùng sao?”
“Phải.” Lý Nguyên Anh gật đầu. “Từ lúc xuất phát đến lúc hồi tin, khoảng một tháng. Cùng lắm hai tháng rưỡi, kết quả sẽ được đưa về U Châu.”
Chàng trầm ngâm rồi dặn tiếp:
“Nếu nghe tin ta thất bại, lập tức cưỡi Ngọc Lặc Chuy mà trốn về phía bắc. Không cần mang theo bất cứ vàng bạc hay vật gì, những thứ ấy chỉ làm chậm bước. Qua được biên giới, đặt chân vào đất Khiết Đan hay Hề thì sẽ không còn bị truy đuổi. Tới nơi an toàn, bán ngựa đi, chỉ cần ngươi đừng ham đánh bạc, thì số bạc đó đủ sống cả đời.”
Hoắc Thất Lang tròn mắt kinh ngạc:
“Ngọc Lặc Chuy? Ngài thật sự muốn tại hạ giữ con ngựa quý nhất của mình sao?”
“Chỉ là một con ngựa thôi. Mục đích là để dùng khi lên đường. Ta hiện giờ không còn cưỡi nổi nữa, giữ nó cũng vô ích.”
Lý Nguyên Anh tiếp lời:
“Nếu nghe được tin ta thành công, thì nhiệm vụ của ngươi cũng xem như chấm dứt. Lúc ấy, cứ tẩy trang, rời khỏi U Châu, ta sẽ phái người khác đến thay thế.” Chàng ngừng một chút, yết hầu khẽ nhấp, như đang gom hết dũng khí để nói lời tiếp theo, “Đến lúc đó… đến lúc đó…”
Đến lúc đó, ngươi hãy cưỡi Ngọc Lặc Chuy, đến Trường An… tìm ta.
Tới Trường An, tìm ta đi.
Những lời ấy vẫn nằm trong miệng, lăn tăn mãi nơi đầu lưỡi, như một viên ô mai mặn mà có lớp vỏ sáp bọc ngoài, khó nuốt cũng chẳng nỡ nhả ra.
Chốn lao tù lộng lẫy ấy vốn chẳng dành cho những người không chịu bị trói buộc. Huống chi thời gian của chàng cũng chẳng còn nhiều. Mỗi ngày trôi qua là một lần rơi rụng, sớm muộn cũng đánh mất điều nàng từng ưng ý nơi mình. Khi lòng đã bắt đầu ngán ngẩm, nếu còn dây dưa không dứt, thì lại càng thêm đau. Đã đánh cược cả đời vào một ván, chàng không nên tham lam muốn đổi cả gió xoay chiều đến lúc buông tay, phải biết mà buông.
Lặng thinh hồi lâu, Lý Nguyên Anh rũ mắt, khẽ nói:
“Đến lúc đó… ngươi hãy cưỡi Ngọc Lặc Chuy… đi tới bất cứ nơi nào ngươi muốn.”
Hoắc Thất Lang ngẩng đầu nhìn thẳng vào chàng, cũng lặng lẽ không nói gì một hồi.
“Chắc ngài chưa từng chia tay ai bao giờ, phải không?”
Từ vẻ mặt bối rối của chàng, nàng đã dễ dàng đoán ra đáp án. Hoắc Thất Lang bật cười khẽ:
“Vậy để tại hạ dạy ngài cách chia tay.”
Nàng nghiêng người lại gần, dang tay ôm lấy chàng, trán tựa trán, rồi đưa tay dịu dàng vu.ốt ve đôi môi đang mím chặt kia.
“Lúc này… không cần phải nói thêm lời nào cả.” Nàng dịu dàng thì thầm, rồi cúi xuống hôn chàng thật sâu.
Người đời chẳng dễ gặp nhau, mỗi lần hội ngộ như ánh trăng in giữa làn sương mỏng. Đêm nay, ánh đèn vẫn sáng, đêm vẫn dài và có những người, cứ thế thao thức suốt canh trường.
Trời vừa hửng sáng, khi chuẩn bị rời U Châu, Lý Nguyên Anh và phu nhân Vu cùng ngồi trên một cỗ xe ngựa đơn sơ. Bảo Châu thì dắt theo một con chiến mã dũng mãnh được tuyển từ Thành Đức.
Lý Nguyên Anh liếc nhìn con ngựa nàng dắt, hỏi:
“Không định cưỡi con lừa bảo bối của muội sao?”
Bảo Châu đáp:
“Giờ không giống lúc đến. Chuyến đi này phải gấp rút ngày đêm, giữa đường còn phải đổi nhiều ngựa. Muội luyến tiếc không nỡ để Lư Sơn công chết vì kiệt sức.”
Rồi nàng hỏi lại: “A huynh chẳng phải cũng không mang theo Ngọc Lặc Chuy đó sao?”
Lý Nguyên Anh mỉm cười, ánh mắt nhìn về phía xa:
“Phải, ta cũng không nỡ để nàng ta chết.”
Dưới sự đỡ đần của phu nhân, chàng bước lên xe ngựa, cùng muội muội lặng lẽ rời khỏi U Châu. Một canh giờ sau, vị Thứ sử U Châu “Thiều Vương” lại bắt đầu một ngày chính vụ mới như thường lệ.
Muốn giành được ngôi vị, trước hết phải trở lại trung tâm quyền lực. Từ xưa tới nay, chưa từng có hoàng tử nào còn sống xa kinh đô mà có thể đăng cơ thành công.
Đường về Trường An xa xôi, dù là người khỏe mạnh đi nữa cũng phải gắng sức lắm mới trụ nổi. Để bảo đảm Lý Nguyên Anh người mang trọng bệnh có thể an toàn tới nơi, hai vú nuôi đã chuẩn bị chu đáo mọi thứ cho chuyến đi. Bánh xe được bọc lớp vải nỉ dày, trong thùng xe trải lót nhiều tầng gấm lụa, dẫu ngựa chạy nhanh đến đâu thì bên trong cũng êm ái đủ cho người bệnh nghỉ ngơi.
Lúc từ Trường An đến U Châu, Bảo Châu chỉ là người được bảo vệ. Còn lần này trở về, nàng là người tự tay vạch tuyến đường, đích thân dẫn thị vệ bảo hộ huynh trưởng. Trong những đêm giá buốt, giấc mộng dần rõ hình. Thoắt cái, một tháng trôi qua trong gấp rút.
Mùa đông băng giá, lạnh lẽo khiến dân thường áo mỏng căm ghét cuối cùng cũng dần trôi qua. Lại một năm xuân về trên đất lớn, khắp Trường An cây hòe bắt đầu nhú mầm non xanh mướt. Vạn vật rộn ràng đón ánh xuân, hân hoan bừng nở.
Nhưng bên trong Đại Minh cung lại chỉ là cảnh tiêu điều, u uất.
Hoàng đế đang bệnh nặng, chuyện ấy ai trong cung ngoài nội đều ngầm hiểu. Dẫu từng được xưng là thiên tử, dẫu ngọc tỷ có khắc mấy chữ “Nhận mệnh từ trời, vĩnh thọ xương hưng”, thì tuổi thọ cũng đâu khác người thường là bao.
Triều thần khuyên can mãi, nhưng hoàng đế vẫn không chịu lập Thái tử. Gần đây, thậm chí còn cho người thu lại con dấu từ tay các quan, luôn mang bên mình, chẳng chịu rời nửa bước. Kẻ từng nắm quyền, dẫu đã gần đất xa trời, cũng không cam lòng buông bỏ. Càng đến gần cái chết, lại càng níu chặt thêm.
Tẩm điện chìm trong hương khói, ánh đèn chập chờn, như mộng như thực. Đám đạo sĩ bày đầy bùa chú, hương đàn trên sàn, mong xua đuổi tà ma quấy phá. Những năm tháng dài triền miên lo lắng, cộng thêm thuốc men tàn phá, cuối cùng cũng khiến thân thể hoàng đế suy kiệt.
Ngài nằm trên long sàng, th* d*c từng hơi, tâm trí mải nghĩ ngợi.
Ngày xưa từng lập trưởng tử Lý Thừa Nguyên làm Thái tử, nhưng đứa con ấy kiêu căng ngạo mạn, làm nhiều chuyện trái tai gai mắt, khiến cả triều trong ngoài đều chán ghét. Sau lại thấy con thứ Lý Nguyên Anh thông minh khôn khéo, từng kỳ vọng sẽ trao ngôi, nhưng lời sấm “Xuyến đi trung thẳng truyền thiên hạ” khiến ngài do dự, cuối cùng đành dập tắt ý định truyền ngôi. Tam tử Lý Nguyên Sài thì ngu độn, không thể gánh vác đại nghiệp. Các con khác còn quá nhỏ.
Ngài từng có nhiều con trai con gái hơn nữa nhưng sau biến loạn binh đao đưa ngài bất ngờ lên ngôi, những đứa trẻ ấy đều đã chết cả. Giờ đây, ngay cả tên tuổi hay dung mạo của chúng, ngài cũng chẳng còn nhớ nổi.
Có lẽ sau cùng, sẽ để đám hoạn quan lựa chọn một người “biết điều” trong số hoàng tử còn lại dễ bảo, dễ sai khiến như chính ngài. Nhưng đó là chuyện sau khi ngài đã nhắm mắt, là nỗi buồn chẳng còn liên can gì nữa.
“Người đâu…” Hoàng đế buột miệng gọi nhỏ.
Ngài chẳng đói cũng chẳng khát, chỉ cảm thấy trong người bứt rứt, khó chịu. Ngài khao khát một sức mạnh kỳ diệu nào đó, để còn có thể buông lời trách phạt một số kẻ, khiến người khác khiếp đảm run sợ, qua đó tìm chút an ủi cuối cùng trước cái chết gần kề.
Chỉ trong tháng vừa rồi, ngài đã giết hơn mười nội thị hầu hạ bên cạnh.
Nóng lạnh thất thường, khi thì ban thưởng, khi thì nổi giận giết người đó là quyền lực tối cao mà một đế vương nắm giữ. Quyền lực ấy còn gây nghiện hơn cả thuốc tiên, khiến người ta không thể dứt, chẳng thể buông.
Trong tẩm điện vắng lặng, tiếng gọi khàn khô của hoàng đế quanh quẩn giữa bốn bức tường, nhưng không ai đáp lại.
“Khụ… khụ… Có ai không?” – Ông lại gọi lớn. Sự giận dữ đột ngột dâng lên, ông định sẽ lại xử tội vài kẻ hầu hạ chậm chạp, để trút cơn tức.
Một bóng áo đỏ khẽ bước vào.
Người ấy bước nhẹ như làn gió, dáng uyển chuyển vượt qua pháp trận hương trừ tà được vẽ trên nền đá, tà váy lụa đỏ lay động nhẹ nhàng trong ánh đèn lập lòe.
Là váy thạch lựu.
Đôi mắt đã mờ đục của hoàng đế khẽ co lại. Rõ ràng ông đã từng hạ lệnh cấm không cho ai được mặc kiểu váy ấy trong cung…
Nàng người khoác váy thạch lựu đã bước đến rất gần. Tóc vấn cao, dung nhan rực rỡ, làn da trắng ngần. Trên đời này, không có bất kỳ ai có thể sánh được với nàng, dù chỉ nửa phần ánh sáng nàng từng có.
“Biện Thật?” – Hoàng đế thì thầm, giọng như gió lướt trên mặt hồ.
Nàng không đáp, chỉ lặng lẽ ngồi xuống mép long sàng, mắt nhìn ông không rời.
Tám năm qua, ông đã dốc hết tâm lực để xóa bỏ bóng hình người con gái ấy khỏi tâm trí mình, nhưng cuối cùng, vào lúc cận kề sinh tử, nàng lại đường hoàng bước tới trước mặt ông như thể chưa từng khuất bóng.
Lạ lùng thay, ông không cảm thấy sợ. Có lẽ bởi nàng không phải hiện về như một lệ quỷ đẫm máu, mà vẫn là dáng hình rực rỡ, yêu kiều như ngày nào.
“Biện Thật, nàng gầy quá…” – Ông không rõ mình đang nằm mộng, hay là giữa lằn ranh sống chết.
Nàng người ông từng yêu nhất là người vợ từng cùng ông vượt qua cảnh lưu đày khốn khó, là mẹ của ba đứa con ông, là người duy nhất từng được phong Hoàng hậu. Nàng từng là tất cả yêu thương và mê đắm, cũng là mọi khủng hoảng và ân hận trong đời ông.
“Ta cũng già rồi… nàng tới đón ta sao?” – Ông hỏi.
Người đàn bà áo đỏ không đáp. Nàng chỉ nhìn ông một lúc lâu, rồi lấy ra hai cuộn chiếu thư. Mở một cuộn ra, nàng lặng lẽ cúi xuống lục tìm bên người ông, lấy ra ngọc tỷ, rồi nhét vào tay ông.
Đôi mắt lờ mờ của hoàng đế chỉ miễn cưỡng đọc được mấy chữ lớn phía trên: Chiếu lập Thái tử.
Ông hiểu nàng muốn ông ấn ngọc tỷ vào tờ chiếu thư ấy.
“Là… vì Nguyên Anh sao?” – Ông thốt lên, kích động. – “Tiểu hồ… đứa con của ta… nàng muốn nó làm Thái tử.”
Trí óc lão hoàng đế mờ nhạt nhớ lại thời khắc quan trọng nhất đời mình: một đêm u tối, con bạch hồ phát sáng trở về cùng người phụ nữ đẹp nhất đời ông. Sau đó là hài nhi chào đời, và ngai vàng đến tay như thể số mệnh đã an bài.
“Phải rồi… là con ta, là con chúng ta… Ta không nên nghi ngờ… Tất cả là bọn gian thần ly gián!”
Người đàn bà áo đỏ giữ chặt tay ông, chấm chu sa, rồi ấn ngọc tỷ xuống chiếu thư.
“Ta lập Nguyên Anh làm Thái tử… nàng tha thứ cho ta phải không? Ta chỉ là nhất thời mê muội… Người ta yêu nhất… vẫn là nàng…” – Ông run rẩy phân trần. – “Từ sau khi nàng mất, Đại Minh Cung chưa từng có thêm đứa trẻ nào ra đời nữa.”
Chỉ kẻ yếu mới cần biện hộ. Bản năng của một hoàng đế khiến ông mơ hồ cảm thấy: khi bước sang thế giới bên kia, người đàn bà áo đỏ ấy sẽ trở nên mạnh mẽ hơn ông gấp bội. Quyền lực trần thế không thể so sánh với uy lực của bóng tối. Trong khoảnh khắc, ông từ kẻ nắm quyền biến thành kẻ sợ hãi, từ kẻ chỉ tay sai khiến thành người chỉ còn biết van lơn.
Nhưng nàng không đáp. Nàng cuốn lại tờ chiếu lập Thái tử, rồi mở tờ thứ hai. Trên đầu cuộn giấy, nổi bật hai chữ: Di chiếu.
Hoàng đế giật mình hoảng loạn.
Ông ghét hai chữ này. Đó là tờ giấy dành cho người sắp chết. Ông không muốn chết. Ông không muốn buông quyền lực, không muốn giao ngọc tỷ cho ai hết.
Nhưng bàn tay của nàng mạnh mẽ đến đáng sợ. Nàng ép tay ông, bắt ông ấn ngọc tỷ lên tờ di chiếu. Dưới ánh nến lay lắt từ cây đèn chạm hình rồng vàng, dấu ấn chu sa in xuống chiếu thư, đỏ rực như máu.
“Ta không thể thay thế mẫu thân ngươi tha thứ cho ngươi…” – cuối cùng nàng cũng lên tiếng, nhưng giọng nói phát ra lại là một giọng nam, lạnh như sương đêm. – “Tuy nhiên, có người ngươi có thể tự mình hỏi xem nàng có sẵn lòng tha thứ hay không.”
Trong bóng tối, người thứ hai bước vào điện.
Người ấy mặc áo liệm trắng của người chết, đầu đội mười hai vòng trâm hoa tang chế. Không thể nhìn rõ mặt nàng vì khuôn mặt đã bị che bởi một chiếc mặt nạ quái dị, âm u.
Hoàng đế bỗng thấy da đầu tê dại, từng sợi lông dựng đứng, cả người lạnh toát. Nỗi sợ hãi cuộn trào như lũ vỡ bờ, nhấn chìm ông vào bóng tối.
Từ sau chiếc mặt nạ dữ tợn, vang lên một giọng nói quen thuộc mà xa xăm giọng của người con gái ông từng yêu thương nhất đời:
“A gia… con còn sống. Vì sao người lại vội vã đem con chôn sống?”
Hoàng đế không sao trả lời nổi câu hỏi ấy.
Một cơn nghẹn bỗng trào lên nơi cổ họng. Ông thở hổn hển, cố gắng hít lấy một hơi cuối cùng. Mọi hình ảnh trước mắt nhòa dần, tan vào màn đêm…