Các loại tà thuật kỳ môn từ xưa đến nay đều là đại kỵ trong cung cấm. Kẻ nào dây vào, nhẹ thì biếm lãnh cung, nặng thì tru di tam tộc, tuyệt không có chuyện khoan thứ. Công chúa nhận lấy chiếc mặt nạ gỗ nặng trịch, thấy mặt trong còn lấm tấm vết phấn trắng và son nhòe nhoẹt. Nàng dùng ngón tay nhẹ vê thử một chút, sắc phấn và chất phấn ấy đúng là thứ nàng từng quen dùng ngày trước, trong lòng bất giác khẽ chấn động.
Thập Tam Lang , tuổi nhỏ lòng còn non nớt, thấy thế liền nói với công chúa: “Có người bệnh mà hơi thở mỏng, tay chân lạnh ngắt như xác chết, bị người nhà lầm tưởng là đã mất, vội vàng nhập liệm mai táng gấp rút, chuyện như thế… xưa nay không phải chưa từng có. Có lẽ… công chúa cũng bởi vậy mà bị chôn nhầm.”
Thiếu nữ không đáp, chỉ lặng lẽ xoay xoay chiếc mặt nạ dữ tợn trong tay. Nàng tuy chưa từng tự mình chủ trì tang lễ, nhưng cũng đã dự phần không ít quốc tang trong hoàng thất. Từ lễ sơ chung, chiêu hồn,… đều vô cùng rườm rà. Thật khó mà tưởng tượng, đường đường một công chúa như nàng lại có thể vì bệnh mà chết bất giác, không một ai phát hiện.
Hơn nữa, dù có trăm ngàn lần trùng hợp như thế, thì cũng tuyệt không ai dám cả gan phạm vào điều bất kính tày trời, mà âm thầm đặt thứ tà vật trấn hồn như chiếc mặt nạ ấy vào trong kim quan của công chúa.
Vi Huấn cất giọng chậm rãi: “Theo lệ, người mất đều được phủ mặt bằng tấm lụa trắng mỏng, một là để giữ lễ, hai là có thể phát hiện hô hấp mong manh nếu chẳng may chưa tắt thở. Nhưng trên mặt ngươi lại đè một chiếc mặt nạ gỗ nặng nề như thế này, dù có hô hấp đi nữa, ai mà phát hiện cho nổi?”
Công chúa vẫn chưa chịu tin. Nàng đưa tay nâng chiếc kỳ đầu lên, thử áp vào mặt. Nhưng vừa cảm nhận sức nặng đè xuống, cộng thêm mùi gỗ ẩm mốc xộc vào mũi, lập tức toàn thân rùng mình, ném phắt chiếc mặt nạ ra xa.
Không sai. Mặt nạ kia dữ tợn với bốn con mắt, giống hệt như trong cơn ác mộng từng vây hãm nàng. Khi ấy nàng bị giam trong bóng tối vô biên, ánh sáng mơ hồ xuyên qua khe hở cũng chính là từ đôi mắt mặt nạ. Rồi sau đó, tất cả rơi vào tĩnh mịch như mộ phần bị phong kín. Nàng gào thét, vùng vẫy, nhưng thân thể cứng đờ, tựa như bị quỷ đè, không sao động đậy được.
Dù khi ấy chẳng rõ ràng, nhưng cái cảm giác bị chôn sống thấu xương ấy, cho đến nay vẫn còn khiến nàng run rẩy tận cốt tủy. Môi anh đào tái nhợt, sắc mặt trắng bệch như tờ giấy.
Thập Tam Lang nhìn mà không khỏi sinh lòng thương cảm. Vi Huấn cúi người nhặt lại chiếc kỳ đầu, dùng vải gói kín, giao cho sư đệ đem giấu nơi phía hành lang, khuất khỏi tầm mắt công chúa.
Chờ cho nàng lấy lại được một chút bình tĩnh, Vi Huấn mới mở lời, hỏi vào chuyện cốt lõi: “Cái ngày ‘trước khi chết’ ấy… rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”
Công chúa vẫn chưa hoàn hồn, lẩm bẩm nhớ lại: “Ta cũng chẳng thấy gì lạ… Ngày hôm trước còn chuẩn bị đi săn, buổi sáng thức dậy soi gương trang điểm, phát hiện váy lụa định mặc còn chưa được ủi phẳng, ta bèn sai cung nữ đi lấy chiếc khác. Kết quả, con nha đầu ấy lại mang đến một chiếc váy thạch lựu… khiến ta giận đến suýt ngất.”
Thấy hai người trước mặt còn ngơ ngác, công chúa chậm rãi giải thích: “Mẫu phi ta khi còn sống rất yêu mặc váy thạch lựu. Người là đệ nhất mỹ nhân của cả thiên hạ, ai cũng không dám mặc đồ đỏ trước mặt người, sợ bị xem là tục. Sau khi mẫu phi qua đời, phụ hoàng mỗi lần trông thấy váy thạch lựu lại sầu thảm không thôi, có khi khóc không thành tiếng, có khi nổi trận lôi đình. Từ đó về sau, trong cung tuyệt không ai dám chạm đến váy đỏ.”
Huynh đệ Vi Huấn đối với chuyện y phục hậu cung vốn chẳng tường, chỉ thấy hậu cung quả thật rối rắm khó dò.
Vi Huấn hơi khinh thường, cười nhạt bảo: “Chuyện nhỏ nhặt như thế mà cũng khiến một đấng quân vương biến sắc, há chẳng phải tính khí thất thường hay sao?”
Công chúa giận dữ: “Ngươi là kẻ to gan, lại dám vọng luận thiên tử!”
Vi Huấn chỉ nhún vai cười cười, vẻ không chút để tâm: “Dù sao tội đào mộ đã là trọng tội, đầu này của tại hạ vốn đã không còn giá trị, lại chẳng có người thân cha mẹ gì để bị liên lụy, chẳng lẽ hắn còn có thể xử ta thêm một lần nữa?”
Công chúa nghẹn lời, trong lòng cũng thoáng sinh kinh ngạc. Người này tuy xưng là Vi Huấn, nhưng chẳng có chút nào giống với tên gọi “Huấn” chẳng cung kính, chẳng nhún nhường, ngược lại toàn thân tỏa ra khí chất cuồng ngạo bất tuân, không sợ trời đất. Oái oăm là, nàng hiện giờ thân cô thế cô, thực sự chẳng làm gì được hắn, chỉ đành gắng nhẫn nhịn, nuốt giận vào trong.
Thấy thế, công chúa dịu giọng mà nói: “Chuyện đó… chỉ là do mấy tên phương sĩ tà đạo quấy nhiễu, phụ hoàng vốn dĩ tính tình ôn hòa, gần đây bị lừa dùng mấy loại đan dược không rõ nguồn gốc, nên mới trở nên thất thường như vậy…”
Nàng dừng lại, thầm nhủ trong lòng: mình quả là hồ đồ đến ngây dại, sao lại đem hết chuyện trong cung kể lể với hai kẻ lạ mặt này? Xét từ tình cảm mà nói, phụ hoàng đối với ái phi đã mất tình thâm nghĩa trọng, sớm chiều tưởng nhớ, hễ trông thấy váy thạch lựu liền thương tâm rơi lệ, hoặc nổi giận đùng đùng, hoặc sụt sùi không thôi. Làm con gái, nàng chỉ thấy xót xa cảm động, nào dám có lời trách móc? Chỉ là, đối với bọn phương sĩ miệng đầy tà môn, trong lòng nàng vẫn có phần bất mãn.
Bèn quay lại câu chuyện ban nãy: “Lúc đó, ta nghĩ nha đầu kia theo hầu chưa lâu, lại còn nhỏ tuổi, có lẽ chưa quen thuộc với những điều kiêng kỵ trong cung, nên cũng chỉ mắng qua loa mấy câu rồi sai người khác lấy váy lụa khác. Mặc y phục xong, ta lập tức lên ngựa xuất cung đi săn. Hôm đó gió thu dịu nhẹ, ta săn được hai con hươu, một con hoàng dương, thêm vài món thú nhỏ.”
Vi Huấn và Thập Tam Lang đưa mắt nhìn nhau, trong lòng có chút hồ nghi. Bọn họ khó tin một vị công chúa cao quý thật sự giỏi săn bắn đến thế. Nhưng lại nghĩ đến chuyện trong hoàng tộc, các quý nhân thường ưa thích săn bắn, mà đám thị vệ thì lại khéo bày sẵn bẫy lưới, dồn con mồi đến sát chân ngựa, để chủ nhân dễ dàng vung tay bắn vài mũi là có chiến tích đem về.
“Vậy trong lúc đi săn, có xảy ra chuyện gì khác thường chăng?”
Công chúa lắc đầu: “Mọi chuyện đều rất suôn sẻ. Đến khi từ Đại Hưng Uyển trở về đã qua giờ Thân, ta cảm thấy nóng nực khó chịu, bèn sai người chuẩn bị nước tắm gội. Vì buổi tối còn phải tham dự dạ yến, e rằng phải thức suốt đêm, nên ta chỉ ăn qua loa vài món rồi đi nghỉ.”
Vi Huấn lập tức truy vấn: “Người đã ăn những gì?”
Công chúa ngẫm nghĩ rồi đáp: “Ta uống nước quả thạch lựu, ăn ít lê ướp lạnh.”
“Có thấy hương vị gì khác lạ không?”
Công chúa lắc đầu: “Ta biết ngươi nghi ngờ gì. Nhưng từ trước đến nay, mọi món ăn đưa tới đều do Thượng Thực Cục chuẩn bị. Mỗi món đều có người nếm trước, dùng để thử độc, không thể sơ suất.”
“Sau đó thì sao?”
“Ta chỉ nhớ sắc trời dần tối, đèn trong cung lần lượt được thắp sáng. Bỗng dưng bụng quặn đau dữ dội, tiếp đó nôn mửa không ngừng. Bọn cung nữ sợ hãi, hô hoán: ‘Công chúa thổ huyết!’ rồi cuống quýt chạy đi. Đệ đệ ta là Lý Nguyên Ức khi ấy đang nghe giảng, nghe tin hoảng hốt trở về, vừa trông thấy liền sợ đến đờ người. Ta lo hắn kinh hãi mà sinh bệnh, liền sai nữ quan đưa hắn đến chỗ Tống Thái phi tạm nghỉ.”
“Lúc ấy có mời ngự y, dùng thuốc gì không?”
Công chúa thoáng cau mày, tựa hồ cảm thấy câu hỏi có phần dư thừa, đáp: “Đương nhiên là có. Chẳng bao lâu sau ngự y liền đến, kê đơn bốc thuốc, lại thêm châm cứu trị liệu. Thế nhưng ta vẫn đau bụng không ngừng, uống thuốc xong lại nôn, chẳng mấy chốc trước mắt liền tối sầm, rồi cứ thế mơ mơ hồ hồ không biết gì nữa. Sau đó… thì bị các ngươi mang tới Thúy Vi Tự rồi.”
Thập Tam Lang chen vào: “Đau bụng thổ huyết đột ngột, nếu không phải trọng thương nội tạng, thì đều là bệnh cũ của người già. Nhưng người trẻ tuổi như công chúa mà nôn ra máu thì nghe rất giống trúng độc.”
Vi Huấn cũng nói tiếp: “Hôm ấy tại hạ từng thử độc trong miệng công chúa, quả thực không phát hiện gì.”
Công chúa cả kinh, đưa tay che ngực, thất thanh: “Ngươi… lại dám thử độc trên người ta?!”
Vi Huấn thản nhiên đáp: “Người khi ấy đã mê man, tại hạ lại rảnh tay. Mà có độc hay không, cũng chưa chắc là điều an toàn. Có thể là thứ độc đã ngấm từ nhiều ngày trước rồi.”
“Nhưng nếu thực có người hạ độc, thì sao có thể qua mắt được Thượng Thực Cục? Là ai dám cả gan như thế? Ta nhớ… sau khi đi săn về, không còn thấy nha đầu buổi sáng mang váy tới. Lúc ấy ta chỉ mắng nàng vài câu, chưa hề trách phạt. Có lẽ bị nữ quan khác xử lý rồi. Chẳng lẽ nàng sinh oán mà hạ độc? Nhưng nàng làm sao dám…”
Công chúa tiếp tục trầm tư, hồi tưởng lại cảnh tượng hỗn loạn lúc hoàng hôn. Đúng là đêm đó có một vài chi tiết bất thường. Thường ngày, người đến Tê Phượng Điện chẩn mạch cho nàng là hai vị ngự y Trần Nguyên Các và Thẩm Nhạc Hiền, nhưng đêm ấy, trong ba người tới chỉ có hai người nàng từng thấy mặt, lại không thân quen. Người còn lại là một ngự y trẻ tuổi, nàng hoàn toàn xa lạ.
Vi Huấn trầm giọng: “Bất kể là bệnh phát đột ngột hay ngấm độc từ trước, điều đáng ngờ nhất vẫn là: công chúa đột tử trong cung, hoàng đế chẳng những không truy tra kỹ càng, lại vội vã mai táng, thậm chí còn sử dụng đủ loại pháp thuật trấn hồn, như thể sợ công chúa chết oan sẽ thành lệ quỷ báo thù vậy.”
Lời hắn vừa dứt, Vạn Thọ Công Chúa đã sắc mặt tái nhợt như giấy, muốn quát lên trách mắng hắn vọng ngôn, nhưng lại chẳng nói nên lời. Năm ngoái, huynh trưởng nàng là Thiều Vương Lý Nguyên Anh người từng được thánh ân sủng ái bị biếm đi U Châu, khiến lòng nàng sớm đã sinh nghi. Giờ nghe Vi Huấn nói thẳng ra, chỉ thấy nỗi nghi hoặc trong lòng như cỏ dại mọc lan, không sao nhổ sạch.
Trăm mối tơ vò không lần ra manh mối. Thiếu nữ xiêu xiêu đứng dậy, đôi mắt đỏ hoe, giọng run run nói: “Ngươi không chịu đưa ta đi, vậy thì ta tự trở về Trường An.”