Hoắc Thất Lang thấy mỹ nhân đôi mày nhíu chặt, nước mắt còn đọng trên má, lòng bỗng sinh thương xót. Nàng chẳng chút ngần ngại, bước đến trước mặt nàng, ngồi xếp bằng xuống, giọng dịu dàng hỏi han: “Sao lại khóc đến thế? Có điều gì uất ức, cứ nói với Hoắc Thất một tiếng. Nàng mà khóc kiểu ấy, lòng ta cũng đau như ai cắt.”
Dương Hành Giản vừa nghe xong liền sa sầm nét mặt, quay ngoắt sang Vi Huấn, trừng mắt như muốn thiêu người. Cái lườm kia như muốn nói rõ: Ngươi rốt cuộc tìm đâu ra thứ này, miệng lưỡi bỡn cợt, mang tới giúp lúc này?
Vi Huấn cũng thoáng hối hận. Lẽ ra lúc vào thành nên xé miệng nàng trước đã rồi hãy dẫn theo. Nhưng nghĩ lại, nàng ấy có thể không chút đổi sắc mà buông lời cợt nhả như không, há chẳng phải cũng là một bản lĩnh? Lúc này việc cứu người cấp bách, bên cạnh không ai có thể che chở cho Bảo Châu, cũng chỉ đành tạm nhẫn nại một lúc rồi xoay mình đi ra ngoài dò xét địa hình.
Hoắc Thất Lang không chỉ dung mạo tiêu sái, phóng khoáng lại còn có bản lĩnh trời sinh gặp ai cũng dễ trò chuyện, chẳng mấy câu đã khiến người cảm mến. Bảo Châu biết nàng là đồng môn với Vi Huấn, lại chính tay hắn mời đến giúp, trong lòng liền vơi bớt cảnh giác. Lo lắng ngập lòng, nàng liền cất tiếng hỏi gấp: “Thập Tam Lang có thể chịu nổi roi đòn trong ngục không?”
Hoắc Thất Lang liền cười trấn an:
“Tiểu cô nương chưa rõ việc luyện võ chúng ta. Tiểu đầu trọc ấy tu tập là nội công của sư môn, vốn thiên về khổ luyện, rèn gân luyện cốt. Đừng nhìn hắn nhỏ con, thật ra sức bền bỉ còn hơn cả ta. Mấy cái roi ấy chẳng qua là da thịt ngoài da, không tổn hại đến căn cốt. Chờ ta cùng Vi đại ca cứu được hắn ra, ngươi mua cho hắn vài chiếc bánh ngon, đảm bảo hắn liền quên luôn cả đau.”
Bảo Châu nhớ lại đêm nọ Thập Tam Lang vụng về leo tường, lặng lẽ đến an ủi nàng, lòng không khỏi chua xót. Nàng thở dài: “Ngươi và Vi Huấn đều vượt tường trèo nóc, Thập Tam Lang thì không được như vậy. Nếu đệ ấy linh hoạt chút, đã chẳng rơi vào bước đường nguy hiểm. Sư phụ các ngươi là Trần Sư Cổ gì đó, thật bất công, thế mà không dạy đề ấy khinh công.”
Hoắc Thất Lang bật cười: “Khinh công của sư môn ta muốn học được thì phải có căn cơ nội lực vững vàng. Ngoài sư phụ ta, ít ai có thể vừa học nội công, vừa luyện hộ pháp. Người trong sư môn chỉ được chọn một. Tiểu đầu trọc tuy rất muốn học, nhưng không có căn cơ nội lực, Vi đại có muốn dạy cũng đành bó tay.”
Nàng len lén liếc Vi Huấn, nghĩ thầm: Người này thiên tư trác tuyệt, nếu có thể sống lâu thêm chút nữa, e rằng sau này có thể đuổi kịp Trần Sư Cổ, đạt đến cảnh giới tuyệt đỉnh. Nhưng võ học là tàn nhẫn, không dung thứ. Trên đời này chẳng có “nếu”, chỉ có “được” và “không được”.
Bảo Châu nghe nàng nhắc tới lắm điều lạ lẫm, hiểu được đôi phần, lại thấy lòng vẫn rối ren, không dám tin trọn. Nàng chỉ muốn tìm lời chuyện phiếm cho vơi bớt sầu lo, gượng cười quay sang Dương Hành Giản: “A gia, người nghe có buồn cười không, sư phụ bọn họ tên là Trần Sư Cổ, mỗi chữ đều như từ miệng người chết bước ra. ‘Sư Cổ’ nghe thì có vẻ tốt lành, nhưng phát âm lên lại hao hao ‘thi cốt’, chẳng lấy gì làm may mắn.”
Dương Hành Giản thoáng ngượng, giọng hòa nhã: “Có lẽ không phải trùng hợp. Người này chắc không liên quan đến vị Trần Sư Cổ mà chúng ta biết. Vị đó là tiến sĩ năm Đại Bảo xưa.”
Khoa cử đời Đường cực kỳ khó khăn. Dân gian vẫn bảo: “Ba mươi mới minh kinh, năm mươi mới đỗ tiến sĩ.” Một năm tiến sĩ chỉ đếm trên đầu ngón tay, lại đều là nhân tài đệ nhất thiên hạ, danh vọng không gì sánh kịp. Dẫu có là con cháu quý tộc trăm năm, đứng trước tiến sĩ trẻ tuổi, cũng phải cúi đầu xưng “tiên sinh”.
Ý của Dương Hành Giản là, người có thể thi đậu tiến sĩ hẳn chẳng phải hạng giang hồ càng không thể dính dáng đến chuyện trộm mộ mờ ám. Huống hồ năm ấy đã bốn mươi năm trôi qua, những người đồng khoa năm ấy, nay có khi đã mồ yên mả đẹp.
Trần Sư Cổ xưa nay lạnh lùng khắc nghiệt, tình nghĩa sư đồ nhạt nhẽo, đám đệ tử cũng chẳng mấy người kính trọng thầy. Hoắc Thất Lang chẳng để lời khen chê ấy trong lòng, chỉ cười quay sang Bảo Châu: “Muốn nói đến phúc tướng, tiểu cô nương đây thật sự là số tốt. Tướng mạo cao quý, dáng dấp khác người, đúng là người sinh ra để hưởng phúc lớn.”
Bảo Châu khẽ thở dài, giọng trầm xuống: “Trước kia ta cũng xem là may mắn, nhưng hai tháng nay, thật sự cảm giác như rơi xuống đáy vực, vận hạn bủa vây, chẳng thoát ra được.”
Hoắc Thất Lang tươi cười: “Đã rơi xuống đáy thì sau chỉ có thể ngoi lên. Nàng xem đôi tai ôm sát, vành tai mềm mại, đây là tướng phú quý trời ban; trán rộng tròn trịa, mắt mũi rõ ràng, môi hồng răng trắng, nét nào cũng đẹp. Dù giờ có gặp trắc trở, về sau cũng định sẵn sống trong nhung lụa.”
Thấy nàng nói có phần đúng, Bảo Châu càng thêm tò mò: “Ngoài võ nghệ, chẳng lẽ ngươi còn biết xem tướng?”
Hoắc Thất Lang cười hì hì: “Xem tướng cũng biết chút ít, xem cốt càng không tệ. Nếu nàng muốn đoán thử vận số, ta xem tặng cho một quẻ, không lấy tiền. Mời cô nương đưa tay ra cho ta xem thử.”
Bảo Châu nào hay nàng chính là “Khỉ La Lang Quân” nổi danh giang hồ, người từng khiến bao kẻ nam nữ chết mê chết mệt. Chỉ thấy nàng bỡn cợt mà chẳng hề thất lễ, lại tưởng là nữ tử hiền lành, trong lòng không hề cảnh giác. Lại thấy lời nàng thú vị, nên cũng nửa do dự, nửa tò mò, khẽ đưa tay ra, để mặc nàng xem thử một quẻ số mệnh.
Hoắc Thất Lang đang cười tươi rói, còn định nói thêm đôi câu, chợt sau gáy thoáng qua một làn gió lạnh. Một luồng sát khí như có hình có bóng lướt qua khiến lưng nàng rợn gai ốc, từng lớp lông tơ dựng đứng.
Vi Huấn chẳng biết trở lại từ lúc nào, tay áo khẽ lay, đứng ngay sau lưng Hoắc Thất , cười nhạt: “Lão Thất, ta thấy cái đầu ngươi cũng coi như xinh xắn, cổ lại dài…”
Câu “tiện tay chém xuống” chưa kịp nói hết, song ai nghe cũng hiểu. Hoắc Thất Lang hít sâu một hơi, cứng người rụt tay về, giả vờ cười cợt quay sang Bảo Châu: “Không cần xem tay nữa, chỉ cần nhìn mặt là đủ biết cao quý vô cùng rồi, hì hì…!”
Nói đoạn, nàng lẹ làng lui ra xa, cố kéo giãn khoảng cách giữa mình và Bảo Châu.
Vi Huấn trừng nàng một cái sắc lẻm, rồi đi tới, ngồi xuống ngay bên cạnh Bảo Châu, chiếm chỗ gần nhất, ngửa đầu nói: “Điểm cần dò đã xong, chỉ đợi thời cơ chín muồi. Việc sáng nay ngươi dặn ta làm, cũng đã xong đâu vào đấy.”
Vừa nói, vừa lấy từ trong áo ra một tờ giấy tiền, đặt cạnh tờ giấy thu được từ tay Bảo Lãng khi treo đầu dê bán thịt chó hôm trước.
Bảo Châu nghiêng người nhìn, thấy hai mảnh giấy màu sắc, chất liệu đều giống hệt nhau, hệt như được cắt ra từ cùng một tờ lớn. Nàng kinh ngạc kêu khẽ: “Ở đâu mà ra cái này?!”
Vi Huấn liền kể lại đầu đuôi: từ nguồn gốc tờ tiền, chuyện những người thợ dựng trại ngoài trời ăn ngủ kham khổ, cho đến lễ tang kỳ quặc nọ, đều rành rọt thuật lại.
Nghe xong, trong đầu Bảo Châu vụt hiện lên một loạt chữ viết từng gặp nơi thư phòng các bậc danh gia, mắt sáng bừng, nàng kêu lên: “Ta biết ai là người viết tờ giấy đó rồi!”
Hai má nàng hồng lên vì phấn khích, quay sang nói với Dương Hành Giản: “Nếu a gia muốn cầu chữ của Trương Húc, chỉ có một trường hợp nhất định buộc ông ấy phải viết chữ Khải, đó là giả như ta đã chết…”
Dương Hành Giản nghe nàng tuổi còn nhỏ mà mở miệng nói chuyện chẳng lành, định bụng khuyên mấy câu, bỗng sực hiểu ra ý tứ trong lời nàng, vội la lên: “Bia mộ! Bia mộ nhất định phải dùng chữ Khải!”
Bảo Châu gật đầu: “Mời danh gia viết bia mộ vốn là lẽ thường nơi môn hộ cao quý. Bia mộ phải khắc lên bia đá, cho nên người đục bia cần phải hiểu thư pháp, biết khí cốt từng nét bút, chép lại thật đúng bản mẫu. Mà mấy người này tuy có tài, lại xuất thân thấp hèn, không thể dùng giấy tốt, ngày thường chỉ luyện tay bằng giấy ma bản rẻ tiền thôi.”
Dương Hành Giản gật gù: “Thảo nào nét chữ cao tay như thế lại viết trên loại giấy ấy, thì ra là vậy.”
Bảo Châu quay sang nhìn Vi Huấn, cả hai cùng nhớ tới một người từng gặp. Bảo Châu chần chừ hỏi: “Người què kia cũng biết khinh công vượt nóc băng tường sao?”
Vi Huấn đáp: “Giang hồ chẳng thiếu kẻ thân tàn mà võ nghệ cao. Có người cụt tay cụt chân vẫn đi như bay, chẳng qua chuyện trèo tháp thì khó hơn một chút. Có thể là chính tay hắn viết, nhưng kẻ đột nhập thì lại là người khác.”
Trong bụng hắn thầm nghĩ: trại kia có đến trăm người, nếu quả thực có cao thủ che giấu đến nỗi hắn cũng không nhận ra, thì đúng làsâu không lường được đáy.
Trong lúc Bảo Châu và Vi Huấn mải bàn chuyện giấy tiền, lễ tang và thủ pháp thư pháp, thì Hoắc Thất Lang ngồi một bên lạnh nhạt, dửng dưng, ánh mắt lặng lẽ dõi theo. Nàng thấy Vi Huấn đối diện cô nương nhà họ Dương, bỗng như biến thành một con người khác thần sắc rạng rỡ, tay chân như cũng cẩn thận nhẹ nhàng hơn. Tư thế ngồi nghiêng hẳn về phía nàng kia, hễ nàng mở miệng, ánh mắt hắn liền sáng lên một tia lấp lánh.
Khỉ La Lang Quân hành tẩu giang hồ, mắt nhìn người không sai bao giờ, lập tức nhận ra ngay có chuyện gì đó. Trong lòng nàng rộn lên một trận kinh ngạc.
Trần Sư Cổ có mười ba đệ tử, ngoài vài kẻ nhập môn muộn, thì ai nấy đều lớn hơn Vi Huấn. Nhưng cái kẻ trắng bệch nhỏ thó kia từ khi sinh ra như thể chỉ để luyện võ. Dù là bạo phát, ngộ tính hay định lực, hắn đều đứng đầu. Lại khắc khổ, tự kỷ luật, cứ hễ học thứ gì là luyện mấy hôm đã vượt người ta luyện mấy chục năm. Đã thế còn nội công, ngoại công đều không thiếu.
Thiếu niên có tài, tính tình lại lạnh lùng cao ngạo. Mấy năm nay, hắn ép cả sư huynh đệ khác không ngóc đầu nổi. Cho dù sau này mấy kẻ đã ra lập môn riêng như Động Chân Tử, gặp hắn vẫn phải ngoan ngoãn cúi đầu gọi một tiếng “đại sư huynh”. Hắn không nhiều lời, cũng chẳng dễ gần. Khi động thủ thì đánh không lại cũng chẳng ai trốn nổi, ai cũng sợ hắn.
Nhất là mười bốn mười lăm tuổi, hắn ngạo mạn đến nỗi trời đất đều không dung. Đồng môn ai cũng ngầm mong có ngày hắn trượt chân ngã đau một phen, cho hả dạ.
Chỉ là, Hoắc Thất Lang vạn lần không ngờ, Vi Huấn lại “ngã” theo kiểu như thế này. Hắn xưa nay chưa từng bận tâm chuyện nam nữ, cái gì cũng từng thấy, cái gì cũng chẳng buồn để tâm. Dù đồng môn có vài người dung mạo hơn người, trong mắt hắn cũng chỉ là bùn đất. Bàn luận đánh giá, hắn tuyệt chẳng thương hoa tiếc ngọc, xuống tay thì tàn nhẫn như nhau.
Vậy mà giờ đây, hắn lại bày ra dáng vẻ rối loạn, nặng lòng, lo được lo mất khiến nàng chỉ muốn ngửa mặt cười lớn. Dù chuyến này không lấy được đồng nào, cũng đã quá lời rồi! Lại nghĩ kỹ hơn, cảm thấy có lẽ chính hắn cũng chưa nhận ra mình đã rơi vào hố nào, rơi bao sâu, càng khiến nàng thấy buồn cười đến cực điểm. Hoắc Thất Lang hận không thể lập tức phát tín hiệu gọi hết đồng môn đến, để chứng kiến con mèo rừng tinh quái kia bỗng chốc hóa thành mèo ngoan.
Vi Huấn thấy vẻ mặt nàng kỳ lạ, mắt đảo tứ tung mà chưa chịu rời đi, liền cau mày, giọng gắt: “Ngươi ngồi đây than thiền hả? Ta bảo ngươi chuẩn bị đồ đạc đâu rồi?”
Khóe miệng Hoắc Thất Lang hơi nhếch, nụ cười ý vị sâu xa: “Đại sư huynh đừng vội, việc thế này không thể hấp tấp. Cái gì nên có, rồi sẽ có thôi.”