Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp

Chương 83

Đám người Tàn Dương Viện tuy bề ngoài có vẻ lười biếng, nhưng từ lúc bước chân vào gian “khuê phòng” kỳ thực chẳng khác ngục thất ấy, lại trở nên đặc biệt thận trọng. Trước hết là Hoắc Thất Lang tiến vào dò xét, sau đó mới cùng Bảo Châu vào trong, còn Hứa Bạo Chân thì ở lại ngoài cửa để phòng hờ, tránh trường hợp bị mai phục chẳng khác chi “cá chui vào rọ”.

Vừa bước qua ngưỡng cửa, cảm giác đầu tiên đập vào người là một luồng áp lực nặng nề.

Nếu nơi đây vốn là phòng chứa vật dụng, thì hẳn có tính toán đề phòng trộm cắp vì cửa sổ chỉ là một ô vuông nhỏ bằng lòng bàn tay, thông khí kém, bên ngoài lại giăng đầy song sắt. Lớp gỉ đã dày, rỉ đỏ ăn mòn tới tận chân sắt, hiển nhiên là đã nhiều năm chưa từng thay thế.

Trong phòng, bàn ghế vật dụng toàn bộ đều mới toanh, làm bằng gỗ hoàng dương, kiểu cách tinh xảo, hoa văn chim chóc sặc sỡ uốn lượn như tranh vẽ, có lẽ cũng là đồ sính lễ từ Bàng gia đưa tới. Ngoài ra còn thấy không ít sách vở, nghiên bút, giấy mực… dấu vết sử dụng rõ ràng, hiển nhiên chủ nhân là người thường xuyên đọc sách, viết chữ.

Bảo Châu thuận tay lật vài trang viết, thấy chữ viết ngay ngắn thanh tú, nét bút như trâm hoa rơi nhẹ, vượt xa mấy nét chữ xấu tệ của Bàng Lương Ký. Chỉ là trong nhà âm u, ánh sáng tù mù, muốn đọc sách viết chữ thì dẫu giữa ban ngày cũng phải đốt đèn mới sáng.

Bảo Châu lấy làm lạ, hỏi:
“Tiêu phủ tuy không rộng rãi, nhưng chẳng đến nỗi không dành nổi một gian phòng sáng sủa cho cô nương ở tạm?”

Tiêu Nhẫm đáp khẽ:
“Là phụ thân cố chấp muốn muội ấy ở đây.”

Nói đến đây nàng hơi ngập ngừng, như đang cân nhắc có nên nói ra thực tình hay không.

“Nếu các vị là người nhà Bàng gia, vậy ta xin nói thật. Năm xưa nhà ta ở sát vách Bàng phủ, A Nhiễm lúc ấy còn nhỏ, người giữ cửa lại không nghiêm nên muội ấy có dịp làm quen với công tử nhà họ Bàng. Chính vì điều ấy mà lần đầu nàng xuất giá đã khiến Lư gia sinh lòng khó chịu. Lần này nàng trở về nhà mẹ đẻ, phụ thân liền nhất quyết bắt nàng nhốt trong phòng, bắt chép sách, không cho bước ra khỏi cửa.”

Bảo Châu thầm nghĩ: vậy chẳng khác nào trong cung gọi là “giam cung” — một hình thức giam cầm nữ nhân không danh không phận.

Chỉ bởi vì thời thơ bé từng quen biết Bàng Lương Ký mà rộ lên những lời đồn thất thiệt, khiến Tiêu Sĩ Liêm chẳng rõ vì tâm địa vặn vẹo hay hẹp hòi mà giam con gái chẳng khác gì phạm nhân. Một nhà vốn mang tiếng danh gia vọng tộc, vậy mà hành xử chẳng khác gì kẻ tiểu nhân hèn mọn, khiến người khác chỉ thấy ngột ngạt khó thở.

Hoắc Thất Lang nhảy phắt lên bàn, vung tay thử vào dãy song sắt nơi cửa sổ, không ngờ bẻ ra được một thanh gỉ sét.

“Chà, sắt gỉ mục đến thế này rồi.” — Nàng chìa thanh sắt đưa cho Bảo Châu, nói: “Một khi đã bẻ xuống rồi thì coi như không thể gắn lại. Trong phòng mùi ẩm mốc nặng nề, xem ra từ lâu không ai đến chỉ có thể ra vào bằng cửa chính thôi.”

Bảo Châu hỏi Tiêu Nhẫm:
“Thường ngày căn phòng này vẫn khóa chặt vậy sao?”

Tiêu Nhẫm gật đầu:
“Phần lớn thời gian là vậy. Chỉ khi phụ thân ra ngoài, ta mới lén mở cửa cho muội ấy ra ngoài hít thở khí trời. Trong thời gian tổ chức hôn lễ, phòng này hoàn toàn khóa kín. Sính lễ của Bàng gia có nhiều đồ quý giá, người ra kẻ vào lại lắm tay tạp, sợ thất thoát, nên ai cũng bị kiểm tra gắt gao.”

Bảo Châu càng nghe càng thấy phản cảm. Một nhà chỉ biết nhìn tiền, nhốt con gái như nhốt tù nhân. Nàng quay sang nói:
“Chúng ta cần xem xét kỹ căn phòng này. Phiền Tiêu đại nương ra ngoài nghỉ tạm một lúc.”

Tiêu Nhẫm thoáng khựng lại. Nhận ra thiếu nữ kia đang thay mặt quản lý, ra lệnh cho chính mình người chủ sự Tiêu gia lui ra, mà giọng điệu lại vô cùng tự nhiên, khiến nàng bỗng có cảm giác nơi đây không phải Tiêu phủ của mình, mà như thể chỉ là một tiểu viện mà Bảo Châu cai quản, còn bản thân nàng chỉ là một kẻ sai vặt dưới tay người ta. Phải chăng đây mới thực sự là phong thái của con nhà thế gia, danh môn đích nữ?

Trong lòng Tiêu Nhẫm bất giác dâng lên nỗi tự ti, không nói gì thêm, lặng lẽ lui xuống.

Bảo Châu và Hoắc Thất Lang liền chia nhau ra tìm. Một người lật giở sách vở, giấy bút; người kia thì xem xét từng góc khuất sau kệ tủ, tường vách, đề phòng có hầm ngầm hay cửa bí mật.

Tiêu Nhiễm không chỉ dung mạo xinh đẹp, mà tài văn cũng đáng kinh ngạc. Thơ phú nàng viết cao nhã thanh khiết, như lan như huệ giữa núi rừng u tịch. Bảo Châu lần dở tập thơ bản thảo, nghĩ bụng: cô nương này tài học ắt vượt xa huynh trưởng, tiếc thay sinh làm nữ tử, bị nhốt trong trăm điều lễ giáo, trói buộc bởi những toan tính hôn nhân tầm thường. Nếu sinh làm nam nhi, ắt sẽ được tung hoành trong chốn khoa trường, chẳng đến nỗi Tiêu gia giờ đây nghèo túng, luẩn quẩn bán con lấy tiền.

Hoắc Thất Lang lục lọi một hồi chẳng thấy manh mối gì, quay sang hỏi:
“Vậy rốt cuộc chúng ta đang tìm cái gì?”

Bảo Châu đáp:
“Ta cũng chưa biết. Manh mối thường chỉ lộ ra khi bản thân bước tới gần nó. Án này xoay quanh chuyện ba nhà tranh giành một nữ nhân: chồng cũ họ Lư, nhà mẹ đẻ họ Tiêu, và tân lang họ Bàng. Nàng vốn là người do cha mẹ sinh dưỡng, rồi bị bán cho nhà chồng, sau đó lại bị bán lần nữa mà mỗi lần như vậy đều vì tiền. Kẻ nào bỏ tiền ra thì có quyền “mua lại”. Thân phận nàng chẳng khác gì món hàng bị đem ra đổi chác, còn nàng thì vĩnh viễn không thể tự quyết vận mệnh chính mình.”

Hoắc Thất Lang nghe mà chấn động:
“Người trong giang hồ bọn ta vẫn tưởng nữ nhân nhà quyền quý sống trong nhung lụa, áo gấm rượu ngon, chẳng ngờ bị nhốt trong cái phòng như ngục tù thế này, bị giam giữ, định giá, không có một chút quyền tự do. Thế khác gì súc vật đâu?”

Bảo Châu thầm nghĩ, ngay cả thân là công chúa như nàng, hôn nhân cũng chẳng hơn gì Tiêu gia tỷ muội. Đến tuổi thì cũng phải nghe cha mẹ, nghe lời mai mối, trở thành công cụ quyền lực trong tay triều đình. Nếu không được vua cha thương yêu, thì có khi còn bị đưa đi hòa thân nơi phiên bang, chẳng có lấy một con đường phản kháng. Muốn thực sự có được tự do, chỉ còn cách bỏ lại tất cả, sống lang bạt giữa đời loạn, tóc tai rối bời, miếng ăn bữa đói bữa no, một bước xuống giang hồ, chẳng biết ngày về.

Nàng mở một chiếc rương đỏ, xem xét bên trong, chỉ thấy vài hộp phấn son cũ kỹ chẳng có lấy một món trang sức nào. Ở đáy rương, lại tìm được một tờ giấy dùng để pha màu, mặt trên nguệch ngoạc mấy dòng thơ:

“A gia luyến Kim Trọng,
Thân huynh muốn mã kỵ;
Đem bán tiểu nữ nhi,
Gả cùng chơi xuân nhi.”

Đây vốn là thơ của Nguyên Chẩn trong bài Đại cửu cửu, nói về một người cha vì tham lam mà bán con gái cho kẻ trăng hoa. Bốn câu ấy, chỉ đổi “a mẫu” thành “a gia”, mà chẳng lệch một nghĩa nào quả đúng với hoàn cảnh của Tiêu gia lúc này.

Bảo Châu đọc đến đó, lòng bất an, thấp giọng nói:
“Hỏng rồi!”

Hoắc Thất Lang ngạc nhiên ghé tới:
“Sao lại thế?”

Bảo Châu chỉ vào tờ thơ:
— “Chơi xuân nhi” chính là kẻ trăng hoa, ăn chơi trác táng. Nữ nhân trong bài thơ tự biết mình gả nhầm người, kết cục là:

“Sao Sâm, sao Thương nửa đêm khởi,
Cầm sắt một tiếng ly.
Nỗ lực tân tùng diễm,
Cuồng phong thứ tự thổi.”

Nghĩa là nàng ấy quyết rời khỏi kẻ chồng không xứng đáng, mở ra một đời sống mới. Nếu “chơi xuân nhi” ám chỉ chính là Bàng Lương Ký, thì rất có thể Tiêu Nhiễm chưa từng muốn lấy hắn!

Hoắc Thất Lang chết sững:
“Chẳng lẽ cô nương ấy thật sự rất chán ghét lão Lục?”

Việc tráo tân nương đã khiến cả kinh thành bàn tán xôn xao, vậy mà phụ thân và tỷ tỷ nàng vẫn thản nhiên như không, quả là đáng nghi. Bảo Châu vốn tưởng Tiêu Nhiễm và Bàng Lương Ký là thanh mai trúc mã, tình cảm mặn nồng. Nhưng Tiêu Nhiễm bị nhà mẹ đẻ cưỡng ép đoạt lại từ tay nhà chồng, rồi bị giam lỏng trong căn phòng tối như ngục này, từ đầu đến cuối đều là nghe lệnh cha mẹ, do người mai mối sắp đặt.

Vậy Bàng Lương Ký có từng tự thân đến hỏi nàng về hôn nhân này chưa? Hay chỉ là hắn một mình si tình, mê muội theo đuổi mà không biết người ta chẳng hề mong muốn? Đứng ở góc nhìn của tân nương, có khi hắn chẳng khác nào một tên hào phú mặt dày, dùng tiền ép cưới, lại còn mượn danh nghĩa “hộ vệ” mà đưa cả sư huynh đệ hung hăng đến ép buộc nàng… Như thế, há chẳng phải đáng sợ hay sao?

Bảo Châu ngẫm nghĩ một hồi, đoạn nghiêm giọng nói:
“Nếu tra ra sau cùng là Tiêu Nhiễm tự ý bỏ trốn, vậy ta cũng chẳng thể ép nàng quay về, chỉ đành bảo Bàng Lương Ký đi tìm một mối khác mà kết duyên.”

Hoắc Thất Lang nghe vậy thì khẽ thở dài, lòng như có chút vướng bận. Một lát sau mới lên tiếng:
“Cũng phải thôi, bọn ta tuy chẳng phải hạng người tốt lành gì, nhưng chuyện cưỡng ép nữ nhân, quả thật chẳng đành lòng làm ra. Nàng không muốn, thì đành chịu vậy.”

Khám xét khuê phòng chẳng thấy thêm manh mối nào, Bảo Châu rảo bước ra ngoài sân, đang định nghĩ xem bước tiếp theo nên dò hỏi nơi nào, thì bất chợt nhớ lại lời Vi Huấn từng nói: trong lễ cưới hôm ấy, có kẻ trà trộn giữa đám phụ nhân nhà chồng dùng gậy sắt đánh lén. Hắn vì ngại tình thế không tiện phản đòn nên chỉ đoạt lấy vũ khí rồi tiện tay ném lên mái nhà.

Nhìn thấy Hứa Bạo Chân vẫn ung dung đứng tựa cột bên hành lang, Bảo Châu bèn sai:
:Phiền đạo trưởng lên mái xem giúp, thử coi có tìm được hai cây gậy sắt hay không?:

Hứa Bạo Chân lơ đễnh liếc nàng một cái, phất nhẹ tay áo, coi như không nghe thấy.

Hoắc Thất Lang bật cười:
“Nhị sư huynh xưa nay vốn kén chọn cao ngạo, thôi để Lão Thất ta vì ngươi chạy chân một phen.”
Dứt lời, nàng liền nhanh nhẹn phóng lên mái nhà tìm kiếm.

Bảo Châu trong lòng không khỏi bực bội. Đạo sĩ kia rõ ràng là theo nàng ra đây, nhưng hết lần này đến lần khác lại chẳng chịu nghe lời sai khiến. Lúc này nàng mới để ý: y phục Hứa Bạo Chân mặc khác hẳn đám đồng môn áo vải mũ cỏ. Trên đầu hắn đội một chiếc mũ nạm vàng, thân khoác áo bào tím rộng tay thêu sao dệt gấm, từ cách may đến màu sắc đều giống hệt mấy vị pháp sư hầu bên long giá trong cung.

Mà áo bào màu tím chính là lễ phục dành riêng cho hoàng thân quốc thích hoặc quan lại từ tam phẩm trở lên, do đích thân Thái Tông sắc định. Chẳng biết mấy năm gần đây, thánh thượng mải mê đan dược trường sinh, đem y phục tôn quý ấy ban cho lũ “chân nhân”, “thiên sư” trong cung, khiến cả triều trên dưới đều lấy làm khó chịu.

Bảo Châu lạnh lùng hỏi:
“Bộ quần áo này là ngự ban sao? Ngươi có thân thế gì mà dám mặc đồ trong cung?”

Hứa Bạo Chân trong lòng chợt dâng nghi hoặc, ánh mắt lạnh như nước lướt nhanh qua gương mặt nàng. Cùng lúc đó, chiếc phất trần khẽ rung, như cảm ứng sát khí từ đâu bất ngờ ập tới. Hắn liền trấn định lại tinh thần, cúi mi rũ mắt, điềm nhiên đáp:
“Mắt ngươi tinh tường thật đấy, sao lại nhận ra?”

Bảo Châu bịa đại:
“Nhà ta có người là thương nhân có giao tình với hoàng thân. Thân mặc ngự phục, sao không ở lại bên thánh thượng? Cung đình đãi ngộ chẳng phải cao quý hơn giang hồ gió bụi nhiều lắm sao?”

Hứa Bạo Chân cười nhạt:
“Vua chúa đời nào cũng mong sống lâu trăm tuổi, nhưng chẳng ai muốn bỏ công sức thật sự. Chỉ muốn động cái miệng mà đòi đan dược trường sinh bất tử, há chẳng là mơ chuyện hoang đường? Ta lười phụng hầu, cũng chẳng quen nói lời nịnh hót dối trá.”
Dứt lời, mặc nàng có hỏi thêm, hắn cũng nhất quyết không mở miệng nữa.

Hoắc Thất Lang từ mái hiên nhẹ nhàng đáp xuống, trong tay cầm hai cây gậy sắt, cười nói:
“Mua một tặng một, vận may tốt thật! Tìm gậy còn lượm thêm được một quyển sách nữa.”
Nói xong, nàng đưa cho Bảo Châu một quyển sách bọc trong giấy dầu.

Bảo Châu lòng dấy nghi ngờ, liền tháo giấy ra xem, trải tờ bìa đầu tiên, chỉ thấy một hàng chữ tựa như ca dao, lại tựa như câu đố:
“Một mảnh lửa, hai mảnh lửa,
Trẻ áo bay ngồi giữa điện đình.”

Mắt vừa lướt qua câu đó, sắc mặt nàng liền biến hẳn, lập tức khép chặt quyển sách lại.

Sắc mặt nàng nghiêm trọng chưa từng thấy, trầm giọng hỏi:
“Ngươi đã xem nội dung bên trong chưa?”

Hoắc Thất Lang nhướng mày hỏi lại:
“Trong ấy có nhắc đến tên ta sao?”

Bảo Châu lắc đầu.

Nàng lại hỏi:
“Vậy có thứ nào giống trò gieo xúc xắc, đánh bài, hay trò chơi cờ lá không?”

Bảo Châu biết đó là mấy trò bạc bẽo mà Hoắc Thất Lang mê mẩn, bèn lại lắc đầu.

Nghe vậy, nàng cười phá lên:
“Vậy thì chẳng có can hệ gì tới ta. Ta không quen sách, sách cũng chẳng quen ta.”

Bảo Châu thầm thở phào. Nghĩ bụng, đôi khi không biết chữ lại hóa ra tránh được hoạ. Nàng vội ôm quyển sách giấu vào trong ngực, rồi gọi một nha hoàn tới, sai dẫn mình đến gặp riêng Tiêu Nhẫm cùng gia chủ Tiêu Sĩ Liêm để nói chuyện kín.

Hoắc Thất Lang gọi giật lại:
“Còn hai cây gậy này thì sao, bỏ à?”

Bảo Châu vừa đi vừa đáp, giọng khẩn trương như có lửa đốt lòng:
“Gậy sắt cùng lắm chỉ dùng để đánh người. Còn quyển sách này… có thể khiến cả nhà chết không kịp chạy!”
Nói rồi nàng rảo bước đi thẳng vào nội đường.

Hoắc Thất Lang cùng mấy người còn lại bị giữ lại ở sân ngoài. Hứa Bạo Chân nhếch môi khinh khỉnh:
“Nhìn bộ dạng ân cần kia mà chướng mắt. Chẳng khác gì đám tay sai l**m gót vương công quý tộc.”

Hoắc Thất Lang bị mắng một hồi, chỉ cười cười, chẳng lấy làm phiền:
“Ngươi chưa thấy Đại sư huynh của ta đâu. Bộ dạng chạy đông chạy tây lấy lòng còn ân cần hơn ta gấp bội.”

Hứa Bạo Chân lạnh lùng nói:
“Hắn sớm muộn cũng chết nên mới dám muốn gì làm nấy. Còn ngươi cũng muốn đi vào vết xe đổ ấy sao?”

Hoắc Thất Lang nhún vai:
“Chẳng ai sống mãi với đời. Tất cả chúng ta rồi cũng sẽ chết. Trước khi chết, được sống theo ý mình, sống vui một chút, vậy chẳng tốt hơn sao?
Ta thì thích vui vầy bên mỹ nhân, chẳng mưu tính lớn lao gì, nhưng tâm lại thảnh thơi khoan khoái.”

Bình Luận (0)
Comment