Tống Thanh Thư lúc ra cửa, tự mình nới lỏng đai lưng, lại thuận tay chỉnh chỉnh cổ áo, trên cổ áo còn dính chút gì đó, khiến hắn thoáng cau mày. Ban đầu hắn còn thấy không vui, nhưng nghĩ đến thái độ hiện giờ của Nặc Nặc đã tốt hơn trước không ít, liền tạm bỏ qua.
Còn chưa kịp dặn dò gì thêm, Phúc Tử đã vội vã chạy tới.
Phúc Tử sắc mặt mang theo vẻ sốt ruột, nhanh chóng ghé sát vào tai chủ tử thấp giọng bẩm:
“Vương gia, vị Lưu đại công tử kia… hình như chuyện này đã ầm ĩ lớn lên rồi.”
Tống Thanh Thư chẳng thèm để tâm, khẽ cười lạnh, khóe môi toàn là ý khinh miệt: “Hừ, chỉ là một tên ngu xuẩn thôi. Đã chết thì chết, Nặc Nặc có mềm lòng, nhưng bổn vương thì không.”
Phúc Tử nghe vậy, trong lòng bỗng rùng mình, dù sao đó cũng là công tử nhà mệnh quan triều đình. Đêm đó hắn ta vốn tưởng Lưu đại công tử có thể thật sự giữ được cái mạng, ngờ đâu Vương gia vẫn xuống tay hạ thủ.
Hắn ta không kìm được run lên một cái. Đã bao lâu rồi hắn ta chưa bị nỗi sợ này siết chặt đến vậy.
Tư Nam thấy Tống Thanh Thư đã rời đi, liền cầm mấy hạt dưa hấu mập mạp trong tay, cùng Yến Yến đi đến khu vườn hoa kia. Lão Tiền vẫn đang loay hoay chăm đất, chuẩn bị làm cho đất tơi xốp hơn.
Lão Tiền chống cuốc, nở nụ cười thật thà: “Cô nương, chờ đến sáng mai, chúng ta rải hạt xuống, không quá bảy ngày là nó sẽ nảy mầm thôi…”
Tư Nam nhìn gương mặt đầy hứng khởi của ông ta, trong lòng không khỏi sinh ra vài phần hâm mộ. Ông ta làm thợ trồng hoa, tình cảm dành cho hạt giống và thổ nhưỡng sâu sắc đến thế. Còn nàng… đã rất lâu rồi không còn biết đến cảm giác vui mừng đơn giản như vậy.
“Lão Tiền, đưa cái cuốc đây, ta làm thử một đoạn.”
Lão Tiền hoảng hốt, vội vàng xua tay lia lịa: “Không được không được, cô nương, ngài chỉ cần xem là được rồi. Việc nặng thế này cứ để lão làm cho!”
Nhưng Tư Nam không chấp nhận từ chối, trực tiếp nhận lấy cái cuốc, bắt đầu cuốc đất, động tác tuy chưa thật thành thục, nhưng cũng khá có dáng dấp, gọn gàng từng nhịp một.
Lão Tiền nhìn mà mắt tròn mắt dẹt, đầy vẻ ngạc nhiên: “Cô nương… thì ra ngài biết làm sao?”
Ông ta quả thật rất bất ngờ, cái ngày cô nương này mới tiến phủ, trông cứ như một đoá mẫu đơn kiêu sa nở rộ, dáng vẻ điển hình của tiểu thư nhà quyền quý, làm sao ngờ được nàng lại biết thực hiện những công việc đồng áng như vầy.
Tư Nam cố sức nâng cuốc bổ xuống, đất bùn đã được xới trước nên mềm xốp, mỗi nhát đều phá ra rất dễ dàng. “À, trước kia bà ngoại ta thích trồng rau, ta cũng hay đứng bên cạnh giúp một tay.”
Yến Yến thấy thú vị, cũng nhào xuống cùng làm. Ba người hợp lực, chỉ một lúc đã cuốc xong cả thửa đất phủ đầy hoa, rồi chia luống ngay ngắn.
Buổi tối, Tư Nam lại ăn hết một chén cơm đầy. Trên bàn còn có canh gà ác hầm đông trùng hạ thảo, xem ra Tống Thanh Thư đã nghe lời đại phu nói. Hắn rõ ràng không muốn nàng chết quá sớm, vì thế nàng cũng dứt khoát hung hăng uống liền ba chén canh.
Yến Yến đứng cạnh nhìn mà trong lòng cực kỳ vui mừng. Cô nương mấy ngày trước còn trắng bệch mỏng manh, tưởng chừng chỉ cần một cơn gió cũng đủ quật ngã, hiện giờ đã chịu ăn uống, thân thể sắp khôi phục, đến lúc đó chắc chắn Vương gia sẽ càng thêm sủng ái.
Đêm ấy vô cùng yên ổn, Tư Nam ngủ một mạch đến sáng, tỉnh lại mới phát hiện Tống Thanh Thư thế nhưng lại không đến.
Mặt trời mới nhô lên, ánh sáng đầu ngày rải xuống như những sợi chỉ vàng nhạt. Lúc này trời sáng mà không chói, ánh nắng len qua kẽ lá, chiếu lên đám hoa cỏ thấp nơi mặt đất, như mưa móc nhuốm sương, tất cả đều là khí tức sinh trưởng đầu xuân.
Tư Nam mang theo hạt giống dưa hấu ra vườn, lão Tiền đã đến từ sớm và đang chờ.
Ông ta đào sẵn một mảnh đất nhỏ độ một bước, rồi quay lại nói với Tư Nam: “Cô nương, chúng ta phải ươm giống trước, chờ hạt nảy mầm, rễ phát triển ổn định rồi mới đem ra trồng phân luống…”
Tư Nam chăm chú lắng nghe. Mảnh vườn hoa chừng mười thước vuông này, nếu muốn trồng cho tốt, đại khái cũng chỉ có thể gieo khoảng mười gốc dưa hấu, giữa chừng còn phải bón phân không ngừng.
Nàng cũng không để bụng, vốn nàng đâu phải đơn thuần chỉ để trồng dưa hấu. Chờ gieo xong hạt rồi tưới nước xong, nàng lại bắt đầu chạy vòng quanh vườn hoa; hiện giờ vừa vận động một chút, chân cẳng đã dần không còn nhức mỏi như trước.
Sáng sớm, nàng lại một hơi ăn hết hai cái bánh bao thịt, còn uống sạch đầy một chén cháo kê.
Vừa mới dùng xong đồ ăn sáng, đã thấy Phúc Tử vội vàng chạy tới, cả mặt đầy mồ hôi, không biết từ chỗ nào hấp tấp quay về.
Phúc Tử còn chưa kịp lau mồ hôi, đã vội mở miệng: “Cô nương, Thái hậu nương nương nói muốn gặp ngài, ngài mau thu dọn một chút, theo ta vào cung.”
Toàn thân Tư Nam khẽ run lên, Thái hậu nương nương muốn gặp nàng? Một kẻ vô danh không họ như nàng, Thái hậu gặp nàng để làm gì?
Nhưng nàng không thể không đi. Trong thời đại này, quyền lực là lá bùa giữ mạng tốt nhất, nàng còn chưa muốn ch·ết.
Tùy tiện thay một bộ xiêm y sạch sẽ, Tư Nam tháo hết kim thoa trâm bạc trên đầu, nàng không muốn khiến bản thân quá mức gây chú ý.
Cũng may Yến Yến khéo tay, chỉ dùng một dải lụa sắc yên hà, liền buộc gọn mái tóc đen dài của nàng thành một búi đơn giản. Trong gương soi, người nhìn không quá nổi bật, Tư Nam thấy thế lại cảm thấy khá vừa ý.
Lên xe ngựa rồi, Tư Nam vẫn có chút thấp thỏm, hỏi Phúc Tử rốt cuộc có chuyện gì, nhưng Phúc Tử lại cứ ấp a ấp úng, không chịu nói. Mãi đến khi nhìn thấy cửa cung nguy nga hùng vĩ, trong lòng nàng chợt bình ổn lại.
Giặc đến thì chém, nước dâng thì đắp nền, hiện giờ thế nào cũng mặc kệ, nhẫn qua được thì ổn.
Phúc Tử có chút lo lắng: “Cô nương, Vương gia hiện vẫn đang ở trong cung. Chốc nữa nếu có chuyện gì, ngài vạn lần đừng giống như đối với Vương gia thường ngày mà đối chọi g·ay gắt. Vương gia sủng ái ngài, nhưng Thái hậu thì chưa chắc...”
Tư Nam ngẩn ra một thoáng, rồi nhẹ gật đầu: “Phúc Tử, cảm ơn ngươi, ta hiểu.”
Nàng đại khái đoán ra hôm nay không phải chuyện tốt đẹp gì. Nếu không, Phúc Tử sao lại luống cuống đến thế?
Dưới ánh mắt lo lắng của Yến Yến, Tư Nam đi theo nội thị tiến vào, hẳn là cổng hông của hoàng cung. Dù sao nàng cũng chỉ là kẻ không danh không phận, đâu được đi cổng chính như khách quý.
Nhưng chỉ nhìn qua cũng đủ cảm nhận được sự uy nghiêm hùng vĩ: tường đỏ ngói xanh, mặt đất lát gạch cứng, mái cong đấu củng (*), trang nghiêm đến khiến người nín thở. Phúc Tử theo phía sau
không nói lời nào, Tư Nam cũng chỉ có thể lặng im, đợi phán quyết của vận mệnh ở phía trước.
(*) Mái cong: Là kiểu mái nhà uốn cong ở bốn góc, thường vểnh lên nhẹ, tạo nên dáng vẻ uy nghi, thanh thoát. Kiểu mái này rất phổ biến trong cung điện, chùa chiền thời cổ.
Đấu củng: Là một dạng kết cấu gỗ rất đặc trưng trong kiến trúc cổ Trung Hoa. Nó là hệ thống giá đỡ gồm các khối gỗ vuông (đấu) và thanh ngang (củng) lồng ghép với nhau, xếp thành từng lớp để đỡ mái. Đấu củng không chỉ chắc chắn mà còn có tính trang trí cao, tượng trưng cho địa vị và quyền lực, thường chỉ thấy trong cung điện, miếu mạo, chùa lớn.
Nghĩ đến đây, Tư Nam chỉ cảm thấy bản thân thật bi thống, mạng sống hoàn toàn không nằm trong tay mình. Sớm biết vậy thì mấy năm trước nên học võ, ít nhất cũng còn có thể chống đỡ thêm đôi chút. Trước đây xem phim, chẳng phải vai chính đều liều chết chống đỡ đến giây phút cuối cùng rồi mới chờ được cứu viện sao?
Nàng đi theo đám người vòng vèo rất lâu, hành lang nối tiếp hành lang, cầu bắt qua ao, đình đài lầu các chồng lớp quanh co, đến mức đầu óc nàng choáng váng quay cuồng.
Lại qua thêm một cây cầu hành lang nữa, cuối cùng mới khó nhọc đến trước một tòa cung điện. Kiến trúc cổ kính trang nghiêm, nàng còn chưa kịp ngẩng đầu nhìn rõ bảng hiệu phía trên đề gì, đã bị một tiếng quát lớn vang lên chấn động tim gan.
Người dẫn đường là nội thị ghé tai nói thầm với người bên trong, không biết bàn luận điều chi. Tư Nam bèn cúi thấp đầu, khóe mắt lướt qua, lại không thấy bóng dáng Phúc Tử đâu, trong lòng lập tức dâng lên một trận hoảng loạn.
Chẳng lẽ hôm nay thật sự phải bỏ mạng tại đây? Trong lòng nàng không nhịn được mắng Tống Thanh Thư cả ngàn lần, nếu không có hắn, sao nàng phải đi đến bước này?
“Cô nương, mời vào.” Một giọng the thé, thanh mảnh vang lên bên tai.
Tư Nam lại theo một nội thị khác bước lên phía trước. Trong lòng âm thầm phán đoán, đây tám phần là cung điện nơi Thái hậu Đại Dung trú ngụ, quả nhiên xa hoa đến mức lóa mắt.
Từ cửa bước vào đã thấy những cây cột lớn chạm rồng sơn son thếp vàng cực kỳ tinh xảo, núi giả san sát, hành lang uốn lượn, mỗi một ngọn cỏ, mỗi một cây đều được bài trí kỹ lưỡng. Phàm những gì lọt vào tầm mắt, không vật nào không phải là trân phẩm hiếm quý.
Trong lúc vô tình liếc sang, nàng nhìn thấy một gốc cây nở rộ như tú cầu lục cúc, được chăm tu cực kỳ tinh xảo. Dưới làn gió xuân phớt nhẹ, trông như từng lớp hoa lụa mềm mại xếp chồng lên nhau, đẹp đến mức khiến người ta phải ngẩn ngơ.
Bước lên hành lang, Tư Nam lập tức căng chặt thần kinh, tự nhắc bản thân: mọi điều đều phải lấy mạng sống làm trọng. Tống Thanh Thư là nhi tử của Thái hậu, nàng căn bản không thể địch lại.
Đi qua một cánh cửa thuỳ hoa (*) nữa, tiếng chim hót lập tức vang lên trong trẻo, cả người nàng bỗng cảm thấy như được thay đổi không khí, giống như vừa rời khỏi chốn phồn hoa đô hội, bước vào một nơi núi đồi thanh tĩnh.
(*) Cửa thuỳ hoa” là một loại cửa đặc trưng trong kiến trúc cổ đại Trung Hoa, thường xuất hiện trong phủ đệ quý tộc, vương phủ, hoàng cung, và đôi khi cũng có trong nhà quan lại lớn. Ở vương phủ, cung viện: cửa thuỳ hoa là lối dẫn từ tiền viện (khu làm việc) sang hậu viện (khu sinh hoạt riêng tư). Nó không to như cổng chính, nhưng trang trí thanh nhã hơn, mang vẻ uyển chuyển, mềm mại, thường tượng trưng cho khí chất nữ tính, nên cũng liên quan đến việc dùng trong khu vực nội viện (nơi có phi tần, phu nhân, tiểu thư sinh hoạt).
Chẳng mấy chốc, mấy người bọn họ dừng lại tại một nơi “trong náo có tĩnh”. Tiếng thông reo vi vu từng hồi, ẩn hiện sau đó là một dãy Phật đường với tường vàng, ngói đỏ, chỉ vẻn vẹn ba gian. So với tiền viện xa hoa phồn thịnh, nơi đây tựa như một chốn đào nguyên tách biệt thế tục, đơn giản, trầm ổn, không hề mang khí thế uy nghi của hoàng cung.
Trong tiểu viện ngập tràn hương trầm tử đàn, mùi hương này đối với Tư Nam không hề xa lạ. Kiếp trước mỗi khi nàng bái Phật, rất nhiều chùa miếu đều treo vòng nhang lớn xoay thành từng tầng từng lớp trước tượng Phật, khói nhẹ lượn quanh như sóng gợn. Phảng phất như thế, con người liền dễ mở lòng tiếp nhận Phật pháp hun đúc.
“Tổng quản công công, đây là nơi nào?” Tư Nam nhìn nội thị đứng ngoài cửa thuỳ hoa mà không chịu bước vào, không khỏi cảm thấy khó hiểu.
Nội thị còn chưa kịp mở miệng, từ gian bên phải đã bước ra một vị cung nhân. Khuôn mặt điểm phấn phù dung, dung mạo tươi tắn, tuy vận trên người một bộ áo tang màu xám, nhưng vẫn khó giấu được phong tư yểu điệu cùng dáng vẻ tinh tế đầy phong tình.
Nữ cung nhân kia vừa nhìn thấy Tư Nam, liền nhẹ nhàng nâng tay, gương mặt điểm phấn nở nụ cười như hoa: “Là Nặc Nặc cô nương sao? Những người kia đều là thái giám, Thái hậu nương nương không cho bọn họ bước vào thánh địa này, sợ làm ô uế Phật Tổ.”
Trong lòng Tư Nam không nhịn được thầm nói một câu: Thật biết cách làm bộ thanh cao. Nếu để bọn họ biết đời sau hòa thượng còn có thể cưới vợ sinh con, chẳng phải sẽ giận đến mắng trời chửi đất hay sao?
Nghĩ thế, nàng lập tức thu lại thần sắc, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, đứng im không động. Chợt nhớ ra, thì ra mùi đàn hương thường vương vấn trên người Tống Thanh Thư chính là lây nhiễm từ nơi này.
Nàng cũng đã từng nghi hoặc, người như Tống Thanh Thư, sao có thể có lòng bái Phật?
Cung trang nữ tử thấy Tư Nam không lên tiếng, chỉ khẽ mỉm cười: “Thái hậu nương nương đang lễ Phật, cô nương cứ vào trai phòng quỳ lạy trước một phen, cũng coi như được hun đúc dưới Phật môn, Thái hậu nương nương nhìn thấy nhất định cũng vui lòng.”
Tư Nam không nói dư nửa câu, nên làm gì thì làm nấy, lập tức đi theo sau nàng ta vào gian phía bên trái.
Trong phòng cũng không có gì đặc biệt, chỉ có từng làn đàn hương chậm rãi lượn quanh. Chính giữa phía Bắc, trên đài cao an trí một pho Quan Thế Âm Bồ Tát bằng sứ trắng, tay nâng Ngọc Tịnh Bình, trong bình cắm một nhành liễu xanh biếc.
Tư Nam nhìn kỹ liền nhận ra đây là tượng Dương Liễu Quan Âm. Kỳ thực người đời thường bái phần lớn là Tống Tử Quan Âm, đặc biệt là nơi hậu cung như thế này, một pho tượng Dương Liễu Quan Âm xa hoa như vậy, lại thật hiếm thấy.
Dưới đài sen là một tấm đệm hương bồ đan bằng rơm rạ. Còn chưa đợi cung nữ kia lên tiếng, Tư Nam đã chủ động quỳ xuống, cố gắng không để người khác tìm được kẽ hở mà bàn tán.
Cung nữ kia thấy thế, cũng không tiện nói thêm điều gì, chỉ khom mình nhẹ nhàng lui xuống.
Tư Nam nghe nói Quan Thế Âm Bồ Tát có thể “quán nghe mười phương, viên minh vô ngại”, trong lòng cũng không dám sơ suất, chắp tay hành lễ, âm thầm cầu nguyện mong được phù hộ, sớm ngày thoát khỏi biển khổ. Kể từ khi sống lại kiếp này, nàng chuyện gì cũng tin đôi chút.
Nàng quỳ một lúc lâu, đến mức chân tay mềm nhũn, thân hình khẽ dịch từ bên trái lệch sang bên phải. Thế nhưng bên ngoài vẫn lặng ngắt như tờ, chưa có động tĩnh gì. Xem ra Thái hậu gọi nàng tới đây, quả thực khó mà là chuyện lành.
Tư Nam đang chống tay định đứng dậy, chợt phía sau vang lên một giọng nói lạnh băng, sắc bén như lưỡi đao, vang dội như tiếng mõ sấm động, đột ngột nện thẳng vào thần trí, khiến đầu óc nàng thoáng chốc bừng tỉnh.
“Làm càn! Trước mặt Quan Âm Đại Sĩ sao dám vọng động?”
Tư Nam bị hoảng đến run lên, cả người mất lực mà ngồi phịch xuống đệm hương bồ, ngơ ngác ngẩng đầu nhìn về phía cửa, không biết từ lúc nào, nơi đó đã đứng sẵn hai ma ma mặc áo xám tro, sắc mặt lạnh lẽo nhìn nàng.
Phật đường yên vắng, cổ thụ um tùm, ánh nắng xuyên qua tầng tầng lá biếc, chiếu loang lổ xuống đất, khiến mảnh thiên địa nhỏ hẹp này càng thêm u tĩnh, lạnh lẽo đến mức khiến lòng người co rút.
Tư Nam chống tay đứng dậy, đối diện hai mụ bà thần sắc dữ tợn, bèn cố gượng nở nụ cười, dịu giọng nói:
“Thái hậu nương nương tâm như từ mẫu, thương xót kẻ thấp hèn mà ban cho bữa cơm ăn, thiếp thân đây thành tâm cầu phúc cho nương nương.”