Lẳng Lơ Tao Nhã

Chương 184.1

Hắn cho rằng phái phục cổ không có tính sáng tạo, văn viết ra dở ông dở thằng, không ra sao cả. Trình văn vài khoa thi hội gần đây nhất cho thấy rằng, đã rất hiếm gặp cái gọi là lấy chí khí Tần Hán vận hành vào lục kinh của phái phục cổ.

Cách thức dùng câu văn được chia nhỏ, văn chương điển cố rườm rà chính là xu hướng mới của văn bát cổ. Chính vì vậy Trương Nguyên đề xuất: “ Văn chủ Âu Tằng, pháp tông Thành Hoằng “ (có nghĩa là viết văn thì theo phong cách của Âu, Tằng là chủ đạo, bút pháp thì theo Thành, Hoằng là chủ đạo). Âu, Tằng chính là Âu Dương Tu và Tằng Củng. Thành, Hoằng là chỉ văn phong bát cổ giữa những năm Thành Hóa và Hoằng Trị. Đây chính là chủ trương văn học của Trương Nguyên, hắn muốn bài văn viết lên thật dễ hiểu, không cần làm ra vẻ khó hiểu huyền bí. Ngoài đọc các kinh ra còn phải đọc thêm nhiều cổ văn, chủ trương này của Trương Nguyên là rất thiết thực khả thi. Hắn không nêu ra hai bậc sư pháp còn nổi danh hơn là Hàn Dũ và Tô Thức.

Hàn Dũ lời văn rất phóng khoáng không thích hợp với văn bát cổ gò bó, trong khi đó Tô Thức thuộc loại tài năng bẩm sinh, hạ bút thành tuyệt văn, văn của Tô Thức không dễ học, cứ chạy theo e rằng dễ vẽ hổ không ra mà lại thành phân chó. Để so sánh thì sư pháp của Âu Dương Tu và Tằng Củng dễ hơn, như vậy mục đích học cổ văn cũng rất rõ ràng, chính là vì khoa cử. Để tập hợp được các chư sinh thì ngoài khoa cử ra không còn con đường nào khác. Chủ trương văn học phải có lợi cho việc ứng phó với thi cử mới có thể tập hợp được các thí sinh. Trương Nguyên dùng chính thành công trong thi cử của mình để kêu gọi chư sinh, đây mới chính là phương pháp có sức thuyết phục nhất.

Trương Đại và đám thiếu niên như Kỳ Bưu Giai là thế hệ hăng hái dũng cảm tỏ ra rất tán thưởng khi Trương Nguyên dám chỉ trích bậc thầy văn học trong nước là Vương Thế Trinh cũng tán đồng với chủ trương văn học của Trương Nguyên. Trương Nguyên lại đề nghị thành lập văn xã định kỳ bàn luận văn bát cổ ở Sơn Âm, đám Trương Ngạc cũng rất hào hứng với “ Văn chủ Âu Tằng, pháp tông Thành Hoằng “ , đây sẽ là chủ trương văn học của văn xã Sơn Âm.

Phạm Văn Nhược, Kim Lang Chi ở lại Sơn Âm 6 ngày, sau tết Trung nguyên rằm tháng bảy mới cùng

Kim Bá Tông và Dương Thạch Hương từ biệt Trương Nguyên và huynh đệ Trương Đại để hồi hương. Trương Nguyên chọn ra một trăm hai mươi cuốn bát cổ từ trong số 300 cuốn mà hắn đã làm trong 1 năm qua đưa cho Phạm Văn Nhược xuất bản, đồng thời đích thân hắn viết lời tựa, luận về đạo viết văn, trình bày chủ trương văn học của mình. Đây cũng là cách hắn tuyên truyền chính mình, các cuốn sách này phát hành càng nhiều, người mua càng nhiều thì tên tuổi hắn càng vang xa, đương nhiên hiệu sách phòng xã núi Phất Thủy của Phạm Văn Nhược cũng kiếm được nhiều tiền.

Hiện tại, Trương Nguyên phải chuyên tâm chuẩn bị cho kỳ thi đạo vào khoảng giữa tháng tư và tháng năm sang năm. Để giành được Tiểu Tam Nguyên, tuy cùng là tú tài nhưng tên tuổi của Tiểu Tam Nguyên khác biệt hơn nhiều. Để sách của Dương Thạch Hương và Phạm Văn Nhược dễ bán hơn, hắn nhất định phải nỗ lực, nghiên cứu kỹ “ Xuân Thu “ , làm tốt đề kinh nghĩa.

Vì hắn từ chỗ tộc thúc tổ Trương Nhữ Sương biết được rằng, bổn kinh của Vương Đề Học cũng là “ Xuân Thu “ , là một học giả “ Xuân Thu “ nổi danh. Điều này chẳng khác nào múa rìu qua mắt thợ, rìu này phải múa cho tốt, múa cho hay, phải lọt được vào mắt xanh của Vương Đề Học mới được. Đáng tiếc là Lưu Tông Chu tiên sinh đã đi kinh thành, nếu không có thể thỉnh giáo Lưu tiên sinh về “ Xuân thu “ . Lưu tiên sinh là một nhà nho lớn, ông nghiên cứu uyên thâm không chỉ nhất kinh mà cả ngũ kinh cũng vô cùng tinh thông.

Khô hạn ở Sơn Âm trong một đêm đã kết thúc. Ngày thứ ba sau khi đám Phạm Văn Nhược rời khỏi Sơn Âm, cũng chính là ngày mười chín tháng bảy, vào lúc sáng sớm khi Trương Nguyên còn chưa thức dậy, chợt nghe Mục Chân Chân sung sướng hét lên ở bên sân vườn:

- Thiếu gia, phu nhân, Đại tiểu thư, mưa rơi rồi, mưa rơi rồi!

Thỏ Đình cũng kêu to:

- Trời mưa, trời mưa rồi!

Trương Nguyên xoay người bước xuống giường, mang giày vào rồi bước ra hành lang, thấy hai người Mục Chân Chân và Thỏ Đình đang nhảy nhót vui mừng ở sân, hắn nheo mắt nhìn quả nhiên là có mưa bụi rơi thật.

Mấy người Trương mẫu Lã thị, Trương Nhược Hi, vú Chu, Y Đình cũng ra hành lang nhìn, vẻ mặt ai nấy đều vui như mở hội. Trương mẫu Lã thị chắp tay nói:

- Quan Thế Âm Bồ Tát phù hộ, Hải Long Vương phù hộ, cho mưa lớn mới tốt.

Trương Nguyên lúc đầu cũng lo lắng vì trận mưa này quá nhỏ, mưa không lâu, không giải quyết được tình hình hạn hán lúc ấy. Ai ngờ được rằng cơn mưa lúc đầu nhỏ nhẹ như màng tơ, về sau rớt xuống thành giọt, cuối cùng là mưa kéo dài không dứt, mưa càng ngày càng lớn. Sau giờ ngọ, Đại Thạch Đầu chạy đến báo cáo rằng sông Đầu Lao khô hai tháng nay đã có nước.

Trương mẫu Lã thị ở Trương gia ba mươi năm nay đây là lần đầu tiên thấy sông Đầu Lao khô cạn, nên khi nghe nói sông lại có nước trong lòng không khỏi vui mừng, sai Trương Nguyên, Trương Nhược Hi, vú Chu và các người hầu dắt theo Lý Thuần, Lý Khiết cùng nhau ra vườn sau xem nước sông. Tiểu lầu ở vườn sau đã hoàn thành, sơn dầu cũng đã quét qua một lớp, hiện tại chỉ còn lại bậc thang phía trước nhà là chưa được hoàn chỉnh và một vài vật dụng lộn xộn chưa rửa sạch, vài ngày nữa có thể chuyển đồ đạc vào ở được rồi.

Đại Thạch Đầu nói sông Đầu Lao có nước, kỳ thực chỉ có dòng nước nhỏ nông choèn rộng vài thước, do mưa liên tục nên nước sông đã dâng lên cao giống như con rồng ẩn náu trong nền đất bao ngày nay giờ bắt đầu lắc đầu vẫy đuôi cuộn lên. Hai huynh đệ Lý Thuần, Lý Khiết từ khi đến thăm nhà bà ngoại bốn tháng mà chưa thấy trời mưa, mấy ngày nay nghe bà ngoại và mẫu thân nói mãi về hạn hán a, mong trời mưa a, nghe nhiều quá nên hai anh em cũng mong mưa theo. Chính vì vậy, khi trời bắt đầu mưa hai đứa la hét lên một cách khoái trá, tiếng hét chói tai, chúng muốn ra dầm mưa. Hai tỳ nữ một tay cầm dù che, một tay lôi kéo bọn chúng nhưng không được.

Trương Nguyên thấy mấy người tam huynh Trương Ngạc, Vương Khả Xan, Phan Tiểu Phi cũng đến cầu vòm đá xem mưa.

Khi xem nước sông Đầu Lao, một vài người đều che dù, Trương Ngạc đột nhiên ném chiếc dù lên không trung, chiếc dù từ trên cầu chầm chậm rơi xuống giữa dòng sông. Trương Ngạc nhìn vô cùng thích thú liền túm lấy dù của mấy người Vương Khả Xan, Phan Tiểu Phi ném xuống sông, cười hô hố không ngừng.

Mưa rất to, Trương Ngạc nhanh chóng ướt sũng từ đầu tới chân, y đi qua cầu đá tiến đến chỗ bọn Trương Nguyên. Thỏ Đình, Mục Chân Chân che chung một chiếc ô giấy dầu, Thỏ Đình lo lắng nói:

- Tam công tử muốn cướp ô của chúng ta kìa.

Trương Ngạc đi tới thi lễ với Trương mẫu Lã thị và Trương Nhược Hi, mặt ướt đẫm nước mưa, y cười hì hì, cảm thấy rất thú vị.

Trương mẫu Lã thị cười nói:

- Yến Khách không nên đi mưa như vậy, cẩn thận bị nhiễm lạnh rồi sinh bệnh đấy.

Trương Ngạc nói:

- Hơn nửa năm không được thấy mưa rồi, hôm nay rất vui, dãi gió dầm mưa một phen, vui vẻ chút không sao ạ.

Lý Thuần, Lý Khiết có tấm gương trước mắt càng nhốn nháo đòi ra dầm mưa.

Trương Nguyên thấy trận mưa này thật lớn, sợ sau khô hạn lại có lũ lụt nên dặn Thạch Song sáng sớm ngày mai phải tới điền trang ở hồ Giám, dặn dò mấy điền nông Tạ Kỳ Phó không nên đợi trời quang nữa, mau thu hoạch lúa chiêm, đáng lẽ để cuối tháng mới gặt là tốt nhất nhưng gặt sớm mấy ngày cũng không sao, tránh mưa liên tiếp sẽ làm cho các hạt lúa chín bị rụng hết.

Vào thu hễ cứ mưa là kéo dài không dứt, mưa một ngày lại tạnh nửa ngày, cách quãng lúc to lúc nhỏ.

Mãi đến rằm tháng tám trời cũng chưa thực sự quang được ngày nào. Dân chúng Thiệu Hưng lúc đầu vui mừng vì thấy mưa lớn có thể giải quyết được tình hình hạn hán bấy lâu nay, nhưng hiện giờ niềm vui không còn nữa mà thay vào đó họ oán trách ông trời bất nhân không để ý đến sự sống chết của người dân. Hạn hán nối tiếp lũ lụt, đúng là muốn tuyệt đường sống của con người.

Lúc khô hạn, những thửa ruộng tiện dẫn nước tưới tiêu thì còn thu hoạch được chút ít, như điền trang bên hồ Giám của gia đình Trương Nguyên, vụ chiêm tuy sản lượng giảm 1/3 so với năm trước nhưng không đến mức thất thu hoàn toàn. Nhưng một tháng ngay sau đó, tá điền Tạ Kỳ Phó gieo mạ xuống bao nhiêu đều hỏng hết, ra sức bơm nước ra cũng không thể cứu vãn được. Buổi sáng vừa tát nước để mạ lộ ra khỏi mặt nước thì một trận mưa lúc chiều tối lại đưa về như cũ. Những tá điền nhà Trương Nguyên vụ chiêm có thu hoạch được một chút, vì được nhà chủ giảm một nửa tiền thuê ruộng nên có thể tạm chống chọi được. Những nông dân không thu được một hạt lúa nào từ vụ chiêm thì thật là thảm, trong nhà không có lương thực dự trữ nên nếu một mùa thất thu thì coi như không có gì mà ăn. Nếu điền chủ còn hối thúc đòi tiền thuế ruộng thì lại càng cùng đường.

Đương nhiên tuyệt đại đa số các điền chủ không đến mức như vậy, quan huyện cũng nhiều lần ra chỉ thị các điền chủ phải cứu tế chính các tá điền của mình, không nên để dân chúng cơ hàn ly tán. Tri phủ Thiệu Hưng Từ Thời Tiến gần đây cũng đau đầu nát óc, tám huyện trong hạt thì có 6 huyện báo lên xin cứu trợ thiên tai, lão cũng đã báo cáo tình hình với quan phủ Chiết Giang, căn cứ vào kinh nghiệm, trông chờ triều đình phát tiền và lương thực cứu trợ là rất khó, giờ đây chỉ xin triều đình miễn cho chút thuế má, còn lại phải tự cứu lấy mình. Phương pháp tự cứu này chính là vay mượn quyên góp lương thực, đối tượng để vay là những phú hộ. Nhưng từ thời Gia Tĩnh đến nay, những người dân giàu có cùng quan phủ tham gia cứu đói thường nảy sinh nhiều tiêu cực, thứ nhất là vì quan phủ cưỡng ép phân chia thậm chí còn chiếm làm của riêng số lương thực được quyên góp.
Bình Luận (0)
Comment