Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm

Chương 103

 25.1 - Hiện tại 

Đầu hạ năm Cảnh Dụ thứ năm, quan tài của cố Trưởng công chúa Lục Lệnh Chân được đưa về Kim Lăng, vì đến cuối vẫn không thể tìm thấy di thể, cho nên trong quan tài chỉ có quần áo và mũ.

 

Thiên tử hạ lệnh cử hành quốc tang, cấm bày tiệc tùng, cưới hỏi suốt hai mươi bảy ngày. Chiếu theo di nguyện của công chúa, không truy phong thụy hiệu, không nhập tông miếu, tạm quàn linh cữu ở điện Hàm Chương, chọn ngày an táng theo nghi lễ quân đội.

 

Thuở thiếu thời, Trưởng công chúa thường khoác áo lông nhẹ, cưỡi ngựa nhanh ra vào phố chợ, dân chúng hai bờ sông Hoài nhìn đã quen, chẳng lấy làm lạ. Nay công chúa vì nước hy sinh, người dân trong thành đều đau lòng khôn xiết, nhà nhà tự nguyện treo cờ tang trước cửa, từ xa nhìn lại, cả kinh thành trắng xóa một màu như có tuyết rơi giữa tiết trời tháng sáu.

 

Mẹ đẻ của công chúa là Ngô Thái phi tuổi đã cao, ngày ngày ở điện Minh Loan không hỏi thế sự, tạm thời vẫn chưa được thông báo tình hình thực tế; mà Chiêu Vương vì quá nhớ thương em gái, đã cáo bệnh ở trong phủ nửa tháng không ra ngoài.

 

Mùng mười tháng Sáu, thiên tử đích thân cùng các quan lại lên đường rời thành, đến nơi cách thành Bắc bốn mươi dặm, băng qua đảo Bát Quái, đến sát bờ sông Trường Giang chờ đón linh cữu của Trưởng công chúa về kinh.

 

Đêm mùng mười tháng Sáu, phủ Chiêu Vương.

 

Lục Lệnh Tùng đứng trước gương trong phòng ngủ, kể từ mùa xuân năm ngoái sau khi từ Ung Châu về kinh, trao trả binh quyền Hổ Sư, đã lâu rồi hắn mới mặc giáp trở lại.

 

Ngân Trù và anh em họ Từ chờ ở gian ngoài nhà chính, thấy hắn đi ra, Từ Giáp dâng trường kiếm lên trước mặt, do dự nói: "Điện hạ thật sự muốn đi một mình sao ạ?"

 

Lục Lệnh Tùng nhận lấy kiếm: "Ngày đó ta thu nhận anh em các cậu, không phải là để các cậu dùng mạng của mình để đánh cược cùng ta."

 

Rồi hắn quay sang Ngân Trù: "Bọn trẻ còn ngủ sao?"

 

Ngân Trù đáp: "Hành lý tùy thân tôi đã chuẩn bị xong xuôi, đợi đến canh ba thủy triều vừa rút, tôi sẽ lập tức đánh thức thế tử và quận chúa rồi đi."

 

Lục Lệnh Tùng gật đầu: "Đường hầm có thể thông đến nhà họ Ngô, cậu của ta sẽ giúp chị rời khỏi Kim Lăng trước khi Thiên Minh môn khóa cửa. Thanh Nhi cũng biết đường, ta biết nó từng lén đưa Ninh Ninh đi qua đó."

 

Ngân Trù muốn nói lại thôi, Lục Lệnh Tùng chỉ nghiêm mặt nói: "Từ ngày chúng ta quen biết tại Trích Tinh lâu, cùng sống chung dưới mái hiên Vương phủ, thoáng cái đã mười bốn năm rồi. Chi Vô tin tưởng chị như chị gái ruột, mấy năm nay vợ chồng ta xa cách biền biệt, Thanh Nhi đều nhờ có chị tận tâm chăm sóc, bầu bạn."

 

"Nếu như lần này thành công, cả nhà chúng ta sẽ cùng hưởng vinh hoa; nhưng nếu ta và Chi Vô có gặp bất trắc, xin chị đừng quan tâm thù mới hận cũ, hãy đưa bọn trẻ rời khỏi vùng đất thị phi này, cả đời cũng đừng quay lại nữa. Từ nay về sau, chị chính là mẹ ruột của chúng, chúng cũng nhất định sẽ phụng dưỡng chị cả đời như mẹ mình."

 

"Trong quá khứ Vương phủ đã kéo chị vào hiểm cảnh, ngày giờ này lại nhờ cậy tương lai, hôm nay ta cúi đầu bái tạ cả, đại ân khó nói hết lời cảm tạ, chỉ mong còn có ngày gặp lại."

 

Dứt lời, hắn vung áo bào quỳ xuống, khấu đầu, hành lễ thật sâu với Ngân Trù.

 

Nhiều năm qua, Ngân Trù, hắn và Tạ Cánh sớm chiều ở chung, lại vô cùng yêu thương hai đứa trẻ không nỡ xa rời, từ lâu đã coi nhau như người nhà. Cô tự hiểu chuyện lúc này quan trọng hơn hết thảy, cũng không ngăn Lục Lệnh Tùng lại, chỉ trịnh trọng đáp lễ tương tự, đáp: "Tôi nhất định sẽ không phụ sự phó thác của điện hạ và Vương phi, bảo vệ thế tử quận chúa, mong ngày đoàn viên."

 

Lục Lệnh Tùng đứng dậy, nói với anh em họ Từ: "Hành động cẩn thận, nghe lời Ngân Trù phân phó, ta giao con của mình cho các ngươi."

 

Hai người chỉ có thể vâng dạ không ngớt, Ngân Trù nghiêm mặt hỏi: "... Điện hạ không đến chào từ biệt thế tử và quận chúa sao?"

 

Lục Lệnh Tùng sững lại một chút, ngoái nhìn ngọn đèn dầu mông lung treo hiên nhà, chỉ lắc đầu.

 

"Ta nói thế này cũng chẳng phải là phó thác hậu sự, dù sao thì giờ đây..." Hắn cười nhạt, "Cũng chẳng phải là năm Trinh Hữu thứ mười bảy nữa."

 

Vì lệnh cấm du dã thanh sắc, các kỹ viện nổi tiếng khắp khu vực sông Tần Hoài đều ngoan ngoãn đóng cửa im lìm không kinh doanh. Trích Tinh lâu lại càng được Tiêu Dao "chăm sóc" đặc biệt, đến một ngọn đèn cũng không có.

 

Lục Lệnh Tùng đã quá quen thuộc với đường đến Trích Tinh lâu. Hắn thúc ngựa lao băng băng, suốt dọc đường không thấy một bóng người, đi thẳng đến bên ngoài cửa sau của Trích Tinh lâu, nơi có rặng liễu ven bờ yên tĩnh và ẩm thấp.

 

Không gian tĩnh mịch.

 

Hắn gõ vài tiếng theo nhịp Hổ Sư Lệnh, cánh cửa sau mở hé ra một chút, gã phụ tá của Tuyên Thất ló mặt ra, trong căn phòng phía sau gã cũng tối đến nỗi đưa tay chẳng thấy năm ngón, nhưng Lục Lệnh Tùng biết rõ trong bóng tối có người, trong tay người có kiếm.

 

"Tiêu Dao đến núi Mạc Phủ rồi à?"

 

Phụ tá gật đầu, nhỏ giọng đáp: "Thủ lĩnh truyền tin, đội quân tám ngàn người đã tập trung đủ tại núi Mạc Phủ, phủ Tướng cũng không điều binh lực từ dư bộ Hổ Sư ra khỏi thành."

 

"Đến cuối cùng vẫn không tin tưởng, không dám dùng." Lục Lệnh Tùng lạnh lùng nói, "Nhưng nếu lão ta mưu tính không sâu, thật sự điều quân thì lúc đấy mới thật sự khó đối phó."

 

Thiên tử qua đêm ở ngoài thành, tất nhiên sẽ điều động một đội quân từ tứ đại doanh theo hộ tống. Vương Thục và đám tùy tùng của lão ta đi theo bên cạnh loan giá, khi rút quân từ quân kinh kỳ, để phòng ngừa bất trắc, dĩ nhiên lão sẽ ra lệnh cho các quân cờ bí mật mà phủ Tướng cài cắm trong bốn doanh, chọn ra những người đáng tin cậy đi cùng.

 

Còn những "tân binh" đến từ tàn quân Hổ Sư bị chia cắt, cùng đội quân ở núi Mạc Phủ gần như cũng là tàn quân Hổ Sư đương nhiên đều bị loại khỏi danh sách "đáng tin", toàn bộ đều ở lại trong kinh thành.

 

Chính sự thiếu tín nhiệm này lại vô tình tạo điều kiện cho Lục Lệnh Tùng hành động thuận lợi.

 

Phụ tá hỏi: "Người của Tuyên Thất đều đã sẵn sàng chờ lệnh bên trong, bao giờ xuất phát, xin ngài chỉ thị?"

 

Lục Lệnh Tùng thoáng nhìn ánh trăng: "Không vội, đợi đến canh ba đổi ca rồi lên đường."

 

Mỗi đêm, nhân lực tuần tra phòng thủ ở Kim Lăng đều đến từ quân kinh kỳ, hôm nay binh lực trong thành không đủ, những người còn lại buộc phải kiêm nhiệm nhiều vị trí, khi đổi ca, tinh lực ắt sẽ lơi lỏng, khó tránh khỏi sơ suất.

 

Phụ tá nhận lệnh, rồi hỏi tiếp: "Từ Trích Tinh lâu đến kho vũ khí đi qua đường Chu Tước là con đường ngắn nhất, nhưng vì đường trống nên sẽ dễ bị chú ý. Ngài có muốn đi đường vòng không?"

 

Lục Lệnh Tùng không trả lời mà hỏi ngược lại: "Các ngươi đã từng tiếp xúc với Hạc Vệ chưa?"

 

"Đầu năm Cảnh Dụ, khi Hạc Vệ còn dưới quyền Trưởng công chúa, chúng tôi từng phối hợp làm vài việc."

 

Phụ tá rất cẩn trọng khi nhắc đến Trưởng công chúa, nhưng Lục Lệnh Tùng lại làm như không nghe thấy mấy chữ đó, chỉ hỏi: "Ngươi thấy bọn họ thế nào?"

 

"Tại hạ không dám tùy tiện đánh giá. Những năm gần đây, người của Tuyên Thất đều chịu sự sai khiến của thủ lĩnh và điện hạ, phần lớn chỉ lo việc do thám tin tức, truyền tin, tra án, đã không còn là Tuyên Thất làm ám vệ dưới trướng Tiêu Thái hậu nữa."

 

Lục Lệnh Tùng phất tay ý bảo không sao: "Dù sao thì đó cũng là tổ tông của nghề này, ngươi cứ nói thẳng đi."

 

Phụ tá bèn đáp: "Trưởng công chúa rất biết cách huấn luyện, Hạc Vệ nhẫn nại, hành động gọn gàng dứt khoát, là một đội ám vệ đủ tiêu chuẩn, có thể đảm đương trọng trách nặng nề."

 

Lục Lệnh Tùng nhìn gã thật sâu: "Ta luôn tin rằng Tuyên Thất dày dạn kinh nghiệm hơn Hạc Vệ, càng quen thuộc với việc lấy thành trấn, phố phường làm chiến trường hơn. Đương nhiên, cũng nhanh nhạy hơn. Vì vậy, ta không ngại đi thẳng qua đường Chu Tước để đến kho vũ khí."

 

Trán phụ tá lấm tấm mồ hôi, gã hiểu rõ đây vừa là sự tin tưởng của Chiêu Vương, cũng vừa là áp lực từ hắn. Những năm qua, tuy rằng Tuyên Thất đã giúp đỡ Vương phủ không ít việc, nhưng Lục Lệnh Tùng vẫn luôn bận tâm đến minh ước với Tiêu Dao, cố ý tránh hiềm nghi, chưa từng trực tiếp nhúng tay vào quyền chỉ huy Tuyên Thất, dùng sự công bằng để thể hiện rằng hắn không có lòng kiếm soát, tranh giành Tuyên Thất làm của riêng.

 

Chiến dịch đêm nay, xét đến sự phân công, giá trị chiến lược và khoảng cách địa lý, Lục Lệnh Tùng và Tiêu Dao đã trao đổi binh lực dưới trướng. Tiêu Dao dẫn người đi trước đến núi Mạc Phủ ở phía Bắc thành để chỉnh đốn binh mã, còn Lục Lệnh Tùng xuất phát từ Vương phủ đến Trích Tinh lâu, tiếp quản Tuyên Thất.

 

Đây là bước đầu tiên.

 

Mà việc Lục Lệnh Tùng tiếp quản Tuyên Thất cũng mới chỉ là bước đầu tiên trong bước đầu tiên ấy.

 

Mặc dù Tiêu Dao - thủ lĩnh duy nhất mà Tuyên Thất phục tùng không có mặt ở đây, nhưng Chiêu Vương tuyệt đối sẽ không cho phép Tuyên Thất có bất kì suy nghĩ gian dối nào, càng không chấp nhận việc bọn họ đứng ngoài trận chiến này mà không dốc hết toàn lực.

 

Gã không biết liệu Chiêu Vương có chừa lại đường lui cho mình hay không, nhưng gã biết rõ, chọn đi đường Chu Tước, nghĩa là Chiêu Vương tuyệt đối không để lại đường lui nào cho Tuyên Thất. Chính sự khác biệt giữa "không biết" và "biết" đã khắc sâu nỗi sợ hãi trong gã trước quyền lực và uy thế của Chiêu Vương.

 

Thấy phụ tá im lặng, Lục Lệnh Tùng bình tĩnh nói thêm: "Năm xưa ta từng giao ước với thủ lĩnh của các ngươi, đợi mọi chuyện kết thúc, ta sẽ tấu lên bệ hạ, để Tuyên Thất được phục chức, danh chính ngôn thuận xuất hiện ngoài sáng."

 

Làm sao phụ tá không nghe ra được hàm ý nửa ban ơn nửa đe dọa trong câu nói ấy, lúc này không dám nhiều lời nữa, lập tức quay người vào trong, đích thân nhắc nhở và cảnh tỉnh các đồng liêu.

 

Đợi đến khi trống canh ba vang lên, tiếng mõ tuần đêm lững thững trôi dọc theo sông Tần Hoài đi xa dần, Lục Lệnh Tùng trở mình lên ngựa. Tuyên Thất từ trong bóng tối nối đuôi xuất hiện, lặng lẽ xếp thành đội hình chỉnh tề, theo sát sau lưng hắn, hướng về mục tiêu thứ hai trong đêm nay - kho vũ khí Kim Lăng

 

Đường Chu Tước tuy là ngự nhai rộng rãi và trang nghiêm bậc nhất, nhưng cũng chính vì cái "trang nghiêm" đó mà không chỉ dân thường, ngay cả quan lại cũng không dám tùy tiện qua lại vào giờ giới nghiêm.

 

Đúng như Lục Lệnh Tùng dự liệu, quả nhiên bọn họ lợi dụng được kẽ hở trong lúc đổi ca canh gác, đường Chu Tước thênh thang không có trở ngại, nếu không phải đã mai phục sẵn từ trước, dàn trận chờ bắt người, thì căn bản không thể ngăn được họ.

 

Kho vũ khi Kim Lăng nằm ở phía Đông Nam cung Thái Sơ, đi thẳng hết đường Chu Tước, sau đó rẽ sang ngã rẽ phía Đông là tới, vị trí nằm cách Trích Tinh lâu chỉ bốn, năm dặm.

 

Lục Lệnh Tùng đã thông tin cho nhà họ Thôi, Thôi Tế Thế lấy cớ "Vũ Lâm Ngoại Vệ đổi ca cập rập, không tiện đến trả vũ khí", âm thầm nhờ bảo vệ kho vũ khí châm chước cho, đóng cửa khóa kho muộn hơn một chút.

 

Lúc này cửa lớn đã rộng mở, tên lính canh trước cửa buồn ngủ, mãi đến khi Lục Lệnh Tùng ghìm ngựa dừng dưới bậc thềm, gã mới giật mình một cái, trố mắt nhìn: "Điện, điện hạ, sao muộn thế này rồi mà ngài còn..."

 

Tuyên Thất không cần Lục Lệnh Tùng phân phó, đều ăn ý nhanh chân rảo bước tấn công. Bảo vệ kho là người của tứ đại doanh, mỗi tháng luân phiên một nhóm, tuy rằng cũng là quân kinh kỳ, nhưng suy cho cùng không phải là đối thủ của Tuyên Thất, chỉ qua mấy hiệp, hơn mười binh sĩ trong ngoài cửa lớn đã bị khống chế.

 

Đã có thuộc quan chạy như bay đến hấp tấp gọi "Hồ đại nhân", bảo tin cho bảo vệ luân phiên trực ban. Hồ thủ bị kia vội vàng tìm đến trước cửa, Lục Lệnh Tùng ngước nhìn, thì ra là một gương mặt quen.

 

Hồ thủ bị thấy Lục Lệnh Tùng cũng hơi giật mình, nhanh nhảu chào: "Mấy tên thuộc hạ của tôi ngu dốt, không biết đã khiến điện hạ khó chịu việc chi?"

 

Lục Lệnh Tùng chỉ híp mắt nhìn quân sĩ xúm lại phía sau lưng đối phương, trong bụng nhẩm tính, tính được binh lực trong cả kho vũ khí này tổng cộng không đến trăm người, hắn bèn giơ tay ra hiệu, Tuyên Thất tiếp tục tấn công mạnh mẽ, chỉ trong khoảnh khắc, một nhóm đã lao vào giao đấu cùng quân bảo vệ, một nhóm khác lập tức xông vào tiền thính, xâm nhập vào sâu bên trong kho vũ khí.

 

Hồ thủ bị thấy tình hình không ổn, nhưng vẫn kiêng dè trước thân phận của Chiêu Vương, chỉ giương vũ khí lên nói: "Xin điện hạ hành động thận trọng!"

 

Lúc này Lục Lệnh Tùng mới quay lại nhìn gã, giọng xa xăm: "Hồ Canh, nguyên quán Thục Trung, năm Cảnh Dụ thứ hai ta đánh hạ Kiếm Môn hầu, trong lúc loạn lạc ngươi tìm đến Hổ Sư, vì có công trong trận Tây Xuyên nên được cất nhắc trở thành bách phu trưởng*."

 

(*) Trong bối cảnh quân sự cổ đại Trung Quốc, bách phu trưởng là chức quan võ chỉ huy một đội gồm khoảng 100 binh lính. Tương đương với đội trưởng hoặc trung đội trưởng trong quân đội hiện đại.

 

"Cha mẹ ngươi được an dưỡng tại thành Cẩm Quan, thời gian qua vẫn còn khỏe mạnh chứ?"

 

Hồ thủ bị kia sững người, vừa rồi gã chào đón trọng hậu chính vì đối phương là chủ cũ, nhưng gã hoàn toàn không ngờ Chiêu Vương vẫn nhớ một tên tiểu tốt chẳng quan trọng gì trong số ba ngàn binh sĩ như gã, càng không ngờ chủ cũ sẽ nhận ra gã.

 

Lục Lệnh Tùng vẫn rất ung dung, khiến cho gã khó mà nắm chắc được liệu đây là một câu hàn huyên hay là một lời... Đe dọa.

 

Nhưng cha mẹ gã nhận được ân huệ của phủ Chiêu Vương, được thu xếp cho an dưỡng tuổi già ở Ích Châu, đúng là không sai. Không riêng gì gã, những thuộc hạ Hổ Sư cũ đã bị tách ra của gã chẳng biết đã có bao nhiêu người thân được Chiêu Vương chăm lo cho.

 

Thanh đao trên tay Hồ thủ bị bất giác buông xuống, gã chỉ thấp giọng gọi một tiếng: "Điện hạ!"

 

Lục Lệnh Tùng chỉ lẳng lặng nhìn gã: "Giờ này lẽ ra Vũ Lâm Vệ nên hoàn thành việc hoàn trả vũ khí, kho vũ khí nên được khóa lại từ lâu rồi."

 

Sau khi được nhắc nhở, Hồ Canh mới chợt nhận ra suốt cả đêm nay gã chỉ thấy Vũ Lâm Trung Vệ đến, nhưng mãi chẳng thấy Vũ Lâm Ngoại Vệ nào mang vũ khí trả về. Lại nghĩ đến lời "nhắc nhớ" bất ngờ của Thôi Tế Thế trước đó, trong lòng không khỏi thở than, đúng là vận rủi ập đến, khéo sao lại đánh ngay đêm nay.

 

Lục Lệnh Tùng quan sát sắc mặt gã, tiếp tục nói: "Chuyện đêm nay, trời biết, đất biết, ta và ngươi biết, còn triều dã sẽ biết gì? Bọn họ chỉ biết ngươi dẫn dắt thủ hạ đúng giờ đóng cửa kho vũ khí, làm đúng phận sự canh giữ bên trong -- còn ta, Chiêu Vương mới là kẻ dẫn binh cưỡng ép xông vào."

 

"Dù sau này có truy cứu tội danh, cùng lắm cũng chỉ trách ngươi bị lực lượng áp đảo, chứ chẳng ai trách ngươi chưa đánh đã hàng. Sức nặng của chuyện này, ngươi phải tự hiểu chứ?"

 

Đương nhiên Hồ Canh hiểu rõ trong hai "tội danh" này, tội nào nặng tội nào nhẹ. Gã không biết Chiêu Vương đang mưu đồ chuyện gì, nhưng rất rõ ràng, hành vi này đã chạm đến ngưỡng đại nghịch bất đạo. Nếu Chiêu Vương thành công, gã sẽ một bước lên mây, thăng quan tiến chức; nhưng nếu Chiêu Vương thất bại, bọn họ sẽ phải gánh gồng xuất thân "cựu binh Hổ Sư", chỉ sợ sẽ khó có ngày nổi danh, bất cứ lúc nào cũng có khả năng bị thanh trừ.

 

Gã trố mắt một lúc rồi quyết định, lệnh cho thuộc hạ hai bên: "Đón tiếp điện hạ, đóng chặt cửa trước, kho vũ khí đã khóa cửa đúng giờ, nhớ rõ hết chưa hả!"

 

Thuộc hạ lĩnh mệnh tránh sang hai bên, chuẩn bị đóng cửa cài khóa. Lục Lệnh Tùng gật đầu với Hồ Canh, sau đó dẫn ngựa đi vào, đoạn nói với phụ tá sau lưng: "Thả diều, truyền tin cho Hạc Vệ."

 

Diều giấy là cách đưa tin mà bọn họ đã giao hẹn từ trước, không đến một khắc đồng hồ sau, Tạ Tuấn đã dẫn theo Hạc Vệ xuất hiện trên một con ngõ khác.

 

Từ khi mất đi chủ tướng, trở về kinh thành, Hạc Vệ đã trở thành đội quân không chủ. Phủ Tướng đề phòng Hạc Vệ về tay Lục Lệnh Tùng, mới sáng sớm đã dâng thư ép Hoàng đế đồng ý để Hạc Vệ tạm thời sát nhập vào Vũ Lâm Vệ, thế nhưng không sử dụng bọn họ ngay, vậy nên đã mấy ngày liên tiếp Hạc Vệ không có việc gì làm, bị người ta kiểm soát. Quan trọng hơn hết chính là trong tay họ không có binh đao, không có quyền giữ vũ khí.

 

Nhưng chính vì bọn họ đang mặc quan phục và áo giáp của Vũ Lâm Vệ, từ doanh trại trong cung thành đi thẳng một đường đến đây, dù ven đường có gặp được lính tuần, chúng cũng chỉ xem họ nhưng đội binh Vũ Lâm Vệ bình thường, không quá đa nghi.

 

Tuyên Thất đưa đủ vũ khí để trang bị cho ngàn người từ trong kho ra, lặng lẽ vận chuyển qua cửa hông phía Đông của kho vũ khí, giao cho Hạc Vệ.

 

Tạ Tuấn bước đến bên cạnh Lục Lệnh Tùng, hạ giọng hỏi: "Có tin gì từ chú chưa ạ?"

 

Ba ngày trước, giữa đêm khuya, bọn họ đã bí mật gặp nhau tại Trích Tinh lâu để bàn bạc kế hoạch khởi sự. Người tham dự ngoại trừ Tiêu Dao, Lý Kỳ, còn có Trịnh Kiêu và Thôi Tế Thế cùng một số tướng lĩnh khác - họ hoặc từng là thuộc hạ cũ của Hổ Sư, hoặc là người có mối quan hệ mật thiết với phủ Chiêu Vương. Nhưng Tạ Tuấn không thấy Tạ Cánh xuất hiện, cũng không kịp hỏi Lục Lệnh Tùng xem rốt cuộc là y không thể thoát thân để đến, hay là chẳng hề hay biết gì cả?

 

Lục Lệnh Tùng chỉ cười: "Bọn ta đã sắp một tháng không gặp nhau rồi, hôm qua em ấy đã theo phủ Tướng rời khỏi thành, làm sao ta biết được?"

 

Tạ Tuấn cau mày: "Tiêu sư phụ tiếp nhận dư bộ ở núi Mạc Phủ, nếu như truyền vào tai phủ Tướng, Vương Thục mà nghi là do chú sắp xếp, muốn gây bất lợi cho chú thì phải làm sao bây giờ."

 

"Vậy nên mới gọi là tạm thời tiếp nhận," Lục Lệnh Tùng giải thích, "Chuyện chúng ta cần làm bây giờ đó là triệu tập thuộc hạ Hổ Sư cũ, cần tranh thủ nhất chính là các tướng sĩ ở bốn doanh bằng lòng quy phục Hổ Sư. Tám ngàn binh mã ở núi Mạc Phủ đều là người phe ta, là hậu thủ mà chúng ta đã chuẩn bị, trước khi chú con thoát khỏi hiểm cảnh, em ấy sẽ không hành động thiếu suy nghĩ. Nhờ Tiêu sư phụ đến đó là để chiếm lấy tiên cơ, tránh cho Vương thị mượn vây cánh khống chế núi Mạc Phủ."

 

Tạ Tuấn miễn cưỡng gật đầu, nhưng vẫn không giấu được vẻ lo lắng, không nhịn được nói: "Điện hạ cũng biết đây là hiểm cảnh..."

 

Lục Lệnh Tùng vỗ vai cậu: "Con yên tâm, lần này ta sẽ bảo vệ em ấy, ta đã đủ khả năng bảo vệ em ấy."

 

Hạc Vệ nhận binh khí, chỉnh trang xong xuôi, Lục Lệnh Tùng phân một nhóm người từ Tuyên Thất ra đóng giữ tại kho vũ khí, những người còn lại theo hắn đi về phía Tây Bắc cung Thái sơ. Hồ Canh xung phong đi cùng, chỉ dặn dò thuộc hạ nghe theo lệnh Tuyên Thất, Lục Lệnh Tùng cũng không nhiều lời, phất tay đồng ý cho gã theo.

 

Đến cung thành, Thôi Tế Thế đã dẫn binh chờ sẵn ở bên ngoài cổng chính: "Đêm nay, Vũ Lâm Ngoại Vệ đang trực có ba ngàn người, họ đều ở đây, chỉ đợi điện hạ ra lệnh là sẽ mở cửa cung ngay."

 

Lục Lệnh Tùng gật đầu chào gã: "Làm phiền Thôi đại nhân, tấm lòng trung thành dám đặt cược cả tiền đồ và sinh mạng của ngài, tại hạ vô cùng cảm kích."

 

Thôi Tế Thế chắp tay đáp lễ: "Điện hạ đã nói là làm, mong ngài không quên công lao của trưởng tỷ tôi và Thanh Hà Thôi thị."

 

Ba ngàn binh sĩ thuộc Vũ Lâm Ngoại Vệ, một ngàn Hạc Vệ, cộng thêm vài trăm người Tuyên Thất - tổng số quân này gần như đã tương đương với đội quân Hổ Sư sơ khởi mà năm ấy Lục Lệnh Tùng dẫn dắt từ ngoại ô Kim Lăng đến Hoài Bắc.

 

Vũ Lâm Vệ, tứ đại doanh, quan binh từ các châu quận xung quanh kinh thành - năm xưa, họ chính là kẻ địch ở ngoài sáng của hắn, tổng cộng lên đến cả trăm ngàn người; mà giờ phút này đây, chính những kẻ đó lại âm thầm trở thành đồng minh của hắn, cũng là một lực lượng khổng lồ đến hàng trăm ngàn người.

 

Nhẫn nại tổ chức, vào sinh ra tử suốt bốn năm, chỉ đơn giản là để đổi lấy cục diện này mà thôi.

 

Lục Lệnh Tùng xoay người, đối diện với hàng ngũ dày đặc đã bày trận dưới cổng cung. Những người này có xuất thân, lập trường khác nhau, đã từng phục tùng dưới trướng chủ soái của riêng mình, thế nhưng giờ đây, bọn họ đều tiến lui như một, hóa thành thanh trường kiếm sắc bén trong tay hắn.

 

"Chư vị vì triều đình mà bôn ba khắp trong ngoài thành, thế nhưng bên trong cung cấm, phủ Tướng chuyên quyền, Vương thị lộng hành, chèn ép bệ hạ đủ đường, khiến cho thiên gia chẳng thể toàn tâm báo đáp công lao của các vị."

 

"Tối nay, ta phụng mệnh thiên tử dẹp loạn khôi phục chính đạo. Nếu được sống, ta sẽ cùng chư vị bàn định tiếp; nhưng nếu phải chết, một mình ta sẽ đi trước. Công hay tội, đúng hay sai, tất thảy đều sẽ được bẩm báo rõ ràng với bệ hạ."

 

Dứt lời, hắn rút kiếm khỏi vỏ, cao giọng hô lên: "Mở cổng cung!"

 

Hơn bốn ngàn người từ Tuyên Dương môn bên ngoài hoàng thành xông thẳng vào trong, một đường tiến về phía Nam cung thành, chạm trán với Vũ Lâm Trung Vệ trước Công Xa môn.

 

Hai đội cấm vệ trong và ngoài tuy thuộc hai phe cánh khác nhau, nhưng ngày thường vẫn hay chạm mặt, thế lực phía sau cũng dây dưa phức tạp, khó nhường nhịn nhau, lúc này đột nhiên chẳng biết nên tiến hay lùi, suýt nữa làm loạn trận tuyến.

 

Xưa nay tuy chưa từng có cuộc chính biến nào mà không đổ máu, nhưng trong lần bàn bạc trước đó, thái độ của Lục Lệnh Tùng đối với Vũ Lâm Vệ và quân kinh kỳ luôn là "Có thể chiêu an thì tránh đồ sát", đồ sát chỉ khiến một lực lượng tinh nhuệ bị tổn hại nặng nề, dù là bên nào thắng đi nữa.

 

Vì vậy, trận giao chiến trước Công Xa môn không kéo dài quá lâu, các cổng ở thành ngoài đều đã bị Vũ Lâm Ngoại Vệ phong tỏa, Trung Vệ không thể thoát ra ngoài cầu viện, mà rút lui sâu hơn vào trong cung thành thì chẳng khác nào tìm đường chết.

 

Trong tình thế đôi bên ngang sức ngang tài, số lượng Trung Vệ lại không chiếm ưu thế, tuy chưa đến mức lập tức quay giáo đầu hàng, nhưng bọn họ đã ngừng giao chiến, đứng yên tại chỗ rơi vào thế giằng co.

 

Xét cho cùng, bọn họ đều là cấm quân của thiên gia, chỉ bị các thế gia tranh quyền chi phối chứ không trung thành tuyệt đối với bất kỳ nhà nào hay phe phái nào. Dù cho đứng sau thủ lĩnh của mình là Lang Gia Vương thị, hay là Thanh Hà Thôi thị đứng sau thủ lĩnh của đồng liêu, cả hai lý do đều không đủ khiến họ dứt khoát lựa chọn "đầu hàng" hay "liều chết kháng cự" đến cùng.

 

Thứ cần nhất hiện tại chính là một mệnh lệnh có uy quyền hơn hết thảy.

 

Lục Lệnh Tùng biết rõ điều này, hắn không chút do dự dừng lại, tiến thẳng về phía trước, vừa mới công phá Công Xa môn đã lập tức hạ lệnh chia ra bốn nhánh, Tạ Tuấn mang một ít binh mã đến điện Minh Loan, bảo vệ Ngô Thái phi; Tuyên Thất trấn giữ ba cổng Đông, Tây, Bắc trong thành. Thôi Tế Thế dẫn dắt Vũ Lâm Ngoại Vệ tiếp tục cầm chân Trung Vệ, kéo dài thời gian; còn hắn dẫn Hạc Vệ tiến về phía điện Lâm Hải.

 

Vương thị vừa nghe động tĩnh đã bật dậy, khoác thêm áo bước ra chính điện, chỉ thấy ngoài sân đèn đuốc sáng rực, bóng người dày đặc. Lục Lệnh Tùng đứng đơn độc ngoài hành lang, sắc mặt không đổi, lặng lẽ chờ bà.

 

Bà ta quát lớn: "Chiêu Vương, ngươi dẫn binh bao vây hoàng cung, uy h**p Thái hậu, chẳng lẽ là muốn tạo phản hay sao?"

 

Lục Lệnh Tùng chẳng biến sắc: "Mẫu hậu hồ đồ rồi, nhi thần hãy còn chưa làm người bị thương mảy may, chẳng đụng đến bất kỳ ai trong cung, cũng không phong tỏa cổng cung, người trái một câu bao vây, phải một câu tạo phản, mẫu hậu muốn nhi thần mang tiếng oan này thế nào cho phải đây!"

 

"Ngươi cứ như vậy mà giết ai gia ở điện Lâm Hải này, để cả đời mang danh mưu triều soán vị đi! Ngươi tưởng rằng kéo em trai ngươi và phủ Tướng xuống là có thể ngồi yên ổn trên ngai vàng kia hay sao?"

 

"Thứ ta muốn không phải là mạng của mẫu hậu," Lục Lệnh Tùng xùy cười, "Ta càng không cần đến ngai vàng kia!"

 

Hắn bước nhanh vào, lấy một quyển trục từ trong ngực áo ra đặt trước mặt Vương thị, sắc mặt lập tức trở nên lạnh lùng hung hiểm: "Ta muốn lấy lại công đạo cho em gái mình, đây gọi là thanh quân trắc, giúp đỡ việc nước cho thiên gia, hôm nay ta đường đường chính chính đứng trước mặt mẫu hậu nói lời ngay thẳng, dù cho có nửa lời sai trái - ai dám xen vào?"

 

Vương thị thoáng sững người, cúi đầu nhìn nội dung trong quyển trục. Đó là một dụ lệnh đã được soạn sẵn, mượn lời của Hoàng Thái hậu là bà ta, ra lệnh cho Lục Lệnh Tùng khởi binh thảo phạt Lang Gia Vương thị vì tội thông đồng với địch phản quốc, hại chết Trưởng công chúa.

 

Sắc mặt Vương thị thay đổi mấy lần, giọng nói phát run: "Ai gia biết ngươi vẫn luôn phẫn hận. Nhưng cái chết của Trưởng công chúa không có liên quan đến Lang Gia Vương thị. Tin dữ truyền về Kim Lăng, ai gia cũng không nỡ nói rõ sự thật cho mẹ ngươi hay. Những lời trên giấy này thật giả thế nào, trong lòng ngươi nên tự cân nhắc cho rõ chứ!"

 

Cung nhân nơm nớp lo sợ nâng ngọc tỷ Thái hậu lên, con dấu đã được nhúng màu đỏ bùn, hai tay giơ cao khỏi đầu, dâng đến trước mặt Vương thị, cầu xin: "Thái hậu!"

 

Vương thị lạnh lùng nói: "Chiêu Vương, ngươi dám cả gan cưỡng ép ta!"

 

Lục Lệnh Tùng chỉ lạnh lùng giơ tay lên như thể đã mất hết kiên nhẫn, hai gã Hạc Vệ không nói một lời ép sát Vương thị đang ngồi ở vị trí chủ vị, lưỡi đao lạnh buốt kề sát bên cổ bà ta. Cung nhân kia quỳ gối tiến đến, cả người không ngừng run rẩy nhưng vẫn mạnh mẽ túm lấy cổ tay Vương thị, ấn mạnh con dấu vào phần đề tên trên dụ lệnh.

 

Lục Lệnh Tùng giật lấy quyển trục, giơ cao lên rồi dõng dạc đọc lớn: "Hữu tướng Vương Thục cùng hai con trai và bè đảng thông đồng với Mạc Bắc, trộm dùng công ấn của Thượng Thư đài và tư ấn của Thượng thư hữu bộc xạ, giả truyền quân cơ, ngụy tạo thư tín, hại cố Kiến Uy tướng quân rơi vào vòng vây địch, chẳng còn thi cốt!"

 

"Ăn nói bừa bãi!" Vương thị trừng mắt nhìn hắn chằm chằm, nghiến răng nghiến lợi nói, "Bức thư đó rõ ràng là chữ do phế phi của ngươi viết, chẳng liên quan gì đến người nhà họ Vương cả!"

 

Lục Lệnh Tùng cũng không để ý đến bà ta, chỉ hướng ra sân quát: "Bổn vương thể theo thủ dụ của Thái hậu, chấn chỉnh hai quân Vũ Lâm Vệ, sát nhập vào bốn doanh kinh kỳ, ra ngoài kinh tiêu diệt phản tặc, làm rõ đúng sai, thanh quân trắc, trả thù nước, trả thù cho anh linh của Kiến Uy tướng quân, nghênh đón thiên tử về vị trí cũ!"

 

Nói xong hắn bỗng nhiên xoay người, nhìn về phía Vương thị đang cúi mình, cất cao giọng nói: "Mẫu hậu hiểu rõ đại nghĩa, lấy công diệt tư, xứng đáng làm gương muôn đời, đứa con bất tài Lục Lệnh Tùng kính lạy!"

 

Hai gã Hạc Vệ nghe theo, cung kính lui xuống, binh sĩ dưới thềm nghe thấy vậy cũng đồng loạt quỳ xuống theo hắn, sau đó đồng thanh hô vang "Thiên tuế".

 

Vương thị giận tái mặt nhưng chẳng nói nổi câu nào, chỉ lạnh lùng nhìn hắn chằm chặp. Lục Lệnh Tùng hơi ngẩng đầu lên, dùng âm lượng chỉ hai người có thể nghe được, như cười mà chẳng phải cười, nói: "Đương nhiên nhi thần biết phủ Tướng không thông đồng với địch, nhưng mà... Như vậy thì sao chứ?"

Bình Luận (0)
Comment