《 28.1 》
Tạ Cánh khởi hành từ lúc trời còn chưa sáng rõ, y không mang theo nhiều gia đinh, trang bị gọn nhẹ cùng Tạ Tuấn đưa linh cữu cha mẹ, anh trai và chị dâu về quận Trần. Quan đạo phía Bắc lẽ ra đã bắt đầu bị phong tỏa từ đêm qua nhằm nhường đường cho Hổ Sư sắp viễn chinh, nhưng Tạ Cánh có thân phận đặc biệt, trong cung đã hạ chỉ, thông báo đến thủ vệ cho chú cháu y đi qua.
Khi đoàn người qua cổng thành, đã thấy có một chiếc xe ngựa đang dừng đợi ở bên đường, trong buồng xe chỉ có Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh, tuy rằng trời vẫn còn sớm, nhưng hai anh em vẫn quyết định tiễn đến tận đây.
Tạ Cánh bảo Tạ Tuấn và các tùy tùng đợi một lúc, sau đó y bước vào buồng xe: "Sao hai đứa lại đến đây? Ăn sáng rồi mới đi à?"
Lục Thư Ninh gật đầu, đưa hộp đựng thức ăn đến: "Bọn con mang ít điểm tâm đến, trên đường đi mẹ và anh có đói bụng thì ăn."
Tạ Cánh mở nắp hộp ra nhìn thoáng qua, bên trong là bánh ngọt bốn vị, đều là món ăn quen thuộc do Lục Lệnh Tùng làm.
Y sửng sốt một chút, đóng nắp hộp lại rồi nhỏ giọng nói: "Cần gì đến tiễn mẹ, cũng không phải là đi luôn không về, chẳng phải đêm qua ở trong cung đã nói chuyện rồi sao? Cùng lắm là ba tháng, chậm nhất là đến gần cuối năm mẹ chắc chắn sẽ về đến kinh thành. Các con nên đi tiễn cha thì hơn, đao thương không có mắt, chiến trường hung hiểm, ở cùng cha lâu hơn một chút mới là quan trọng."
Lục Thư Thanh đáp: "Thiên tử thân chinh phải làm lễ tế tông miếu cầu mong tổ tiên che chở, sau khi từ biệt mẹ, bọn con sẽ về ngay."
Tạ Cánh lại dặn dò: "Thời gian này Thanh Nhi phải giám quốc, mọi việc quân chính đều có thể nhờ vả Hà đại nhân và Tiêu sư phụ của con, Lý tướng quân tuy đi cùng Hổ Sư, nhưng Trịnh tướng quân và chị em họ Lý đều đáng tin cậy. Đài cao đã dựng lên cho con, giờ là lúc nên để con mạnh dạn thử cánh, lôi kéo lòng dạ những người sẽ thuộc về con. Nếu có chuyện gấp, con chỉ cần gửi thư cho cha mẹ là được."
Lục Thư Thanh đáp ứng từng việc một, Tạ Cánh căn dặn thêm vài câu nữa, lúc chuẩn bị đứng dậy rời đi, y không ngờ tay áo lại bị Lục Thư Thanh túm lấy. Vẻ mặt của cậu không được tự nhiên, dường như có lời gì không dám nói ra khỏi miệng, từ lúc bước lên xe ngựa Tạ Cánh đã nhận ra sự khác thường của cậu, y ngồi xuống trở lại, hỏi: "Thanh Nhi, con còn muốn nói gì với mẹ không?"
Cậu vẫn lúng túng, Lục Thư Ninh ngồi bên cạnh không chịu nổi, đáp thay: "Anh đang sợ đó mẹ!"
"Ninh Ninh!" Lục Thư Thanh nhỏ giọng ngăn lại.
Tạ Cánh ngạc nhiên: "Con sợ cái gì?"
Lục Thư Thanh quay đầu đi, chần chừ hồi lâu, Lục Thư Ninh lại giúp cậu bày tỏ nỗi lo lắng: "Mẹ nói chắn chắn sẽ về kinh, nhưng anh không dám tin, sợ mẹ đau buồn, oán hận Kim Lăng, về quận Trần rồi không muốn trở lại nữa."
Tạ Cánh nghe vậy giật thót, y ôm vai kéo Lục Thư Thanh lại, thân mật mà dịu dàng hỏi cậu: "Trong lòng con sợ hãi, vậy sao đêm qua lúc tạm biệt con không nói với mẹ?"
Hai hàng mi Lục Thư Thanh run rẩy: "... Con vốn đã định hỏi rồi, chỉ là trong lòng cứ thấp thỏm, không dám quyết định, nên đã hỏi Ninh Ninh trước để bàn bạc. Nhưng Ninh Ninh nói, dù mẹ có chọn ở lại quận Trần, hay là đi đến nơi nào khác, thậm chí... Thậm chí nếu mẹ chỉ muốn tìm đến cái chết — chỉ cần đó là điều mẹ thật sự muốn, thì thế nào cũng được, em đều có thể chấp nhận hết. Mẹ không cần phải ép bản thân về kinh, hoặc ở lại bên cha vì bọn con."
"Con cảm thấy Ninh Ninh nói rất có lý, hóa ra là vì con ích kỷ, cho nên không dám hỏi, sợ mẹ nghe được lại mềm lòng."
Giọng nói của c** nh* dần rồi tan mất, không chỉ Tạ Cánh im lặng, mà Lục Thư Ninh cũng hơi hoảng. đương nhiên em không nghĩ rằng phía sau câu hỏi tình cờ của anh trai lại có nhiều suy nghĩ như vậy, em bỗng chốc cảm thấy hối hận vì bản thân nhanh mồm nhanh miệng nói nỗi lo của Lục Thư Thanh cho mẹ biết, quan tâm quá ắt loạn.
Trong buồng xe yên tĩnh hồi lâu, sắc trời bên ngoài đã dần sáng, Tạ Cánh khó nhọc cất lời: "... Bên trong tim đèn không hề có cái gọi là vương quốc thu nhỏ nào hết, con người sau khi chết đi chính là âm dương cách biệt, nếu như mẹ thật sự chết đi, chúng ta sẽ vĩnh viễn không thể gặp lại nhau nữa, Ninh Ninh, con vẫn luôn hiểu mà, phải không?"
Lục Thư Ninh không đáp. Ngây thơ là một thứ xa xỉ, mà sự thật là sau khi rời khỏi phủ Chiêu Vương vào năm bốn tuổi, em đã không còn có quyền được tin vào những câu chuyện đẹp đẽ nữa. Là mẹ, là cha và anh, là người cô mất sớm và tổ mẫu già yếu, từng người họ đã thay nhau dệt nên lớp vỏ bọc ngọt ngào như mật ấy cho em. Thế nhưng em có một đôi mắt trong trẻo và sáng rõ, em đã tự mình nhìn thấy, cũng hiểu được tất cả.
Giờ khởi hành đã cận kề, không còn thời gian để nói nhiều, Tạ Cánh chỉ có thể dang tay ôm chặt cả hai đứa trẻ vào lòng. Chóp mũi lành lạnh của Lục Thư Ninh kề vào dưới cổ y, còn Lục Thư Thanh thì cúi đầu xuống, nhẹ nhàng áp má vào má y.
Cuối cùng, y nghiêm túc nhẹ giọng hứa hẹn: "Nghe đây, mẹ không lấy thân phận của một người mẹ, mà chỉ lấy danh nghĩa của Tạ Cánh để thề với các con rằng mẹ nhất định sẽ trở về. Trước khi mẹ trở lại, hai con không cần phải sợ hãi bất cứ điều gì cả."
Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh cúi người hành lễ trước bốn cỗ quan tài, rót rượu tiễn biệt, sau đó đứng bên trong cổng thành dõi theo đoàn người dần khuất. Sương đêm khiến cảnh thu thêm phần tiêu điều, người lên đường sớm khoác trên mình bụi gió kinh hoa rời đi. Trên quan đạo thênh thang chỉ có vài cỗ xe ngựa, cùng với bốn cỗ quan tài cô quạnh, dưới màn trời hửng sáng, đoàn xe chậm rãi lăn bánh đi xa.
Oán lại oán nơi khúc núi xa, Đi lại đi về bến sông dài.
Chẳng biết đã qua bao lâu, sau lưng bỗng vang lên tiếng vó ngựa, Lục Thư Thanh ngoảnh lại, ngạc nhiên thốt lên: "Y Vân? Sao ngươi lại tới đây?"
Y Vân được cậu đưa theo đến Đông cung, lúc này trên lưng nó không đeo yên, có lẽ là nhân lúc cung nhân vào chuồng ngựa cho ăn, nó đã tự ý chạy ra đây. Hiếm khi Y Vân để lộ vẻ lo lắng, nó chạy đến bên cạnh hai anh em, trông ngóng theo hướng Tạ Cánh rời đi.
"Đó là mẹ và anh họ, bọn ta đến tiễn mẹ về quê," Lục Thư Thanh phỏng đoán suy nghĩ của nó, "Cha vẫn chưa rời kinh đâu. Ngươi đến tìm cha sao? Có phải ngươi muốn đi cùng với Hổ Sư không?"
Đương nhiên Y Vân không thể trả lời cậu, nhưng hơi thở đầy bất an đã dừng bặt, nó dần bình tĩnh lại.
Tạ Tuấn sống ở kinh thành từ nhỏ, mười mấy tuổi gia đình lại gặp biến cố, cho nên tới tận bây giờ khi đã đến tuổi cập quan, cậu vẫn chưa từng về quận Trần lần nào.
Suốt một tháng nay kể từ khi quay về ngõ Ô Y, cậu đã tu sửa lại nhà cũ, chọn ra một tốp nô bộc và thị nữ mới, cố gắng khôi phục mọi thứ lại như xưa, sau đó sai người lấy danh sách các hạ nhân đã mất trong vụ án năm Trinh Hữu thứ mười bảy rồi tìm đến từng nhà một, xem người thân của họ có còn sống trên đời hay không, nếu có thì hỗ trợ tiền của, hoặc là cung cấp cho họ một công việc để nuôi sống gia đình.
Đoàn người đã đi được hơn mười dặm, rời khỏi quan đạo ở ngã ba đường, rẽ vào đường núi dẫn đến bến đò sông Hoài. Tạ Cánh vén rèm xe, y ngồi song song với Tạ Tuấn ở phía trước, đột nhiên nghe cậu mở lời: "Nếu chú thấy sống ở phủ Chiêu Vương — à không, ý con là ở tiềm để — có nhiều điều bất tiện, chi bằng cứ trở về ngõ Ô Y đi. Nhà mới vừa sửa sang xong, để trống cũng phí, bệ hạ sẽ không nói gì đâu."
Nhưng Tạ Cánh lại khẽ lắc đầu: "Thứ nhất thân phận chú vốn đã lúng túng, bây giờ lấy danh nghĩa gì để mà quay về nhà mẹ đẻ ở đây? Bên ngoài người ta thích nhất là bàn tán những chuyện kiểu này, đến lúc đó liên lụy đến mặt mũi của con và các em con thì thật chẳng hay chút nào. Thứ hai, nếu con để một 'trưởng bối' như chú ở trong nhà, sau này Lý Dã biết xử sự làm sao?"
Tạ Tuấn không tỏ rõ ý kiến, chỉ cười khổ một tiếng. Tạ Cánh thấy sắc mặt cậu như vậy, bèn bóng gió hỏi: "Mấy tháng con không ở kinh thành, công việc của Hạc Vệ đều giao hết cho một mình Lý Dã sao?"
Tạ Tuấn gật đầu: "Nghe Lý Huống nói, từ sau khi Phương Trần đảm nhiệm vị trí dẫn đầu Hạc Vệ, Lý phu nhân cũng đã buông tay, không can thiệp gì vào việc của nàng nữa. Có nàng toàn quyền phụ trách, con cũng chẳng cần phải lo đến công vụ."
Nghe vậy, Tạ Cánh biết Tạ Tuấn và Lý Dã đã tháo gỡ được khúc mắc thuở thiếu niên, thế nên cũng không nhiều chuyện xen vào thêm nữa.
Tạ Tuấn nhìn vô định về phía con đường trước mặt một lúc, rồi lại chợt hỏi: "Thời gian còn ở tiềm để, chú với bệ hạ... Đã từng cãi nhau chưa?"
Tạ Cánh đáp không chút do dự: "Dĩ nhiên là rồi."
Trong suốt những năm tháng dài đằng đẵng sớm chiều bên nhau ấy, y và Lục Lệnh Tùng không chỉ từng cãi vã, mà những va chạm lớn nhỏ cũng nhiều không đếm xuể, không động tay động chân chẳng qua là vì sức lực đôi bên quá chênh lệch, đương nhiên Lục Lệnh Tùng không thể đơn phương đánh y, nhưng nếu hai người thực sự ngang tài ngang sức, thì chuyện đánh nhau cũng chưa chắc sẽ không xảy ra.
Tuy là người quen thuộc với đối phương nhất, nhưng không phải lúc nào cả hai cũng công nhận ý kiến của nhau, phần lớn thời gian là bất đồng quan điểm. Có lúc thậm chí họ còn chẳng hiểu nổi đối phương đang nghĩ gì trong đầu, hay tại sao lại có thể đưa ra quyết định như thế. Nói ngắn gọn thì chính là: Hiểu nhưng không thấu.
Tạ Cánh vốn nổi tiếng với tính tình kiêu căng ngang ngược; còn Lục Lệnh Tùng dù là một người hiền hòa, nhưng tuổi trẻ khí thịnh, một khi nổi nóng thì cũng không chịu nhường nhịn ai. Thế nên giữa hai người không thiếu những lần cãi nhau kịch liệt, cãi đến mức nhìn kiểu gì cũng thấy đối phương chướng mắt lại càng diễn ra thường xuyên hơn. Có đôi lúc tức đến choáng váng cả đầu, y đã từng không nhịn được mà nghĩ: Rốt cuộc năm xưa mình vừa ý cái người này ở điểm nào vậy?
"Đột nhiên con lại hỏi chuyện đó làm gì?"
Tạ Tuấn cười, lắc đầu: "Con vốn gặp phải vài chuyện khó khăn, không biết nên giải quyết thế nào, định hỏi chú chỉ điểm một chút. Nhưng xem ra, đến cả thần tiên quyến lữ như chú và bệ hạ còn có lúc giận dỗi, vậy thì vấn đề của con cũng chỉ là chuyện thường tình ở đời, không thể giải quyết bừa bãi, chỉ có thể đối mặt mà thôi."
Tạ Cánh trầm ngâm một lát, rồi quyết định hỏi thẳng: "Chuyện giữa con và Lý tiểu thư, chú không thể quyết định thay con, vậy nên cũng sẽ không hỏi đến chuyện thành thân. Chú chỉ hỏi chuyện lập nghiệp thôi, con tính thế nào?"
Tạ Tuấn suy nghĩ một hồi rồi chậm rãi đáp: "Trong đầu con vốn đã tính thế này: nay chú đã không còn ở trong cung, nhà họ Tạ tuy là nhà ngoại của Đông cung, nhưng Thanh Nhi vẫn chưa kế thừa đại thống, thế lực cũng có hạn, khó gây sự chú ý. Con cứ tiếp tục đảm đương chức vụ ở Hạc Vệ, cũng xem như giúp đỡ được Thanh Nhi — lời nào khó nói, con sẽ giúp người đi nói; có chuyện rắc rối, con sẽ đứng ra giải quyết thay."
"Nhưng nếu sau này chú trở thành chủ Trung cung, có thể ở gần bên cạnh, che chở cho Thanh Nhi, vậy con nghĩ mình cũng có thể gác lại trọng trách này. Không phải vì nghi ngờ tấm chân tình của bệ hạ dành cho chú, chỉ là con đã từng một lần bước qua quỷ môn quan, nghĩ kỹ lại, công danh phú quý ấy thật sự chẳng có gì đáng để luyến tiếc cả."
Ánh mắt của cậu có chút lơ đãng: "Nhưng mà... Ông và cha vẫn luôn kỳ vọng ở con, đến cuối cùng, họ vẫn chỉ mong con bước đi trên con đường chính thống: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ."
Tạ Cánh vỗ nhẹ lên lưng cậu: "Bọn họ từng bước đi lên từ con đường ấy, trông mong con gây dựng sự nghiệp là điều khó tránh khỏi; nhưng dù kỳ vọng có lớn lao đến đâu, đứng trước máu mủ tình thân, chung quy vẫn có thể thỏa hiệp được. Nếu con thật sự có thể không lo lắng, không sợ hãi mà thuận theo lòng mình, thì ông bà, cha mẹ con ở suối vàng cũng có thể yên lòng mà thở phào một hơi rồi."
Từ lần trước Tạ Cánh trở về quận Trần đến nay cũng đã gần tròn mười năm. đầu năm nay Lục Lệnh Tùng từng đích thân đến một chuyến để cứu trợ thiên tai, tuy lúc về không kể tỉ mỉ tình hình quê cũ, nhưng Tạ Cánh cũng đoán được tám chín phần.
Nguyên quán của họ ở gần Dương Hạ, so với cảnh tượng đêm Nguyên tiêu phồn hoa mà họ đã từng dạo chơi năm xưa, giờ đây thành quách đã vắng đi quá nửa, chỉ lác đác vài hàng quán còn mở cửa, trên đường cũng chẳng có mấy bóng người.
Nguyên nhân gần như là do thiên tai, còn về tai họa xa hơn — nhà họ Tạ vốn là hào tộc lớn ở địa phương, cả dòng họ cùng thông gia cộng lại đã chiếm gần nửa dân số trong thành. Khi bị liên lụy phạm tội, đàn ông trong nhà buộc phải đi biệt xứ, những người già yếu, phụ nữ và trẻ em còn ở lại không gánh nổi gia nghiệp cũng lần lượt rời đi, đến nơi khác để mưu sinh.
Tạ Tuấn chưa từng thấy dáng vẻ của thành Dương Hạ năm xưa, ban đầu còn chưa thở dài xót xa như Tạ Cánh; nhưng đến khi quay về tổ trạch, chứng kiến khắp nơi chỉ toàn là tường đổ vách sập, cậu lại sững người tại chỗ, hồi lâu không nói nên lời.
Bên trong nhà vẫn còn vài người cùng dòng họ ở lại, nhưng đôi bên lại chẳng quen biết lẫn nhau. Ra mở cửa là một người trẻ tuổi, nghe Tạ Cánh và Tạ Tuấn giới thiệu xong, cậu ta sợ hãi quỳ xuống dập đầu, còn tưởng là trong kinh lại giáng thêm tội xuống.
Tạ Tuấn vội dìu cậu ta đứng dậy, nói rõ ý định, chàng trai mới nơm nớp lo sợ dẫn họ vào trong, vừa đi vừa giải bày: "Vào năm Trinh Hữu thứ mười bảy khi biến cố xảy ra, tổ trạch cũng bị sao kiểm, căn phòng mà Vương phi từng ở cũng đã bị đập hủy từ lúc đó. Đầu năm nay bệ hạ có trở về đây một lần, thu dọn và mang đi vài món đồ cũ, đến giờ trong nhà thật sự là trống trơn hết rồi, không còn lại gì nữa."
Tạ Tuấn nhìn quanh trong ngoài phòng khách, thì thảo hỏi: "Bệ hạ đã hạ chỉ xóa sạch tội danh cho Trần quận Tạ thị, vậy mà không có người trong họ nào trở về sao?"
Chàng trai bất lực nói: "Có ai mà lại không muốn quay về đâu, nhưng thật sự trở về được bao nhiêu người chứ? Gia đình sa sút, họ dựa vào cái gì để mà sống ổn định đây?"
Tạ Cánh bước chậm về viện cũ của mình, cửa sổ giấy rách nát bị gió thổi vang lên những tiếng phần phật hỗn loạn; bậc cửa nơi Lục Thư Thanh từng ngồi ăn cơm chiên trứng giờ chỉ còn lại một nửa. Hai cánh cửa trượt bị gió đẩy xoay ra rồi lại xoay vào, chậm rãi đong đưa, năm tháng cũng theo đó xoay vần, rồi chẳng biết đã đi đến đâu.
Trong phòng ngủ vẫn còn để lại chiếc giường khung gỗ của Tạ Cánh, đó đã từng là nơi y ngủ một mình, cũng từng là nơi y ngủ cùng Lục Lệnh Tùng. Dưới gầm giường không còn đồ vật gì cả, chú hổ vải mẹ tự tay khâu mà Lục Lệnh Tùng mang về cho y có lẽ chính là vết tích cuối cùng chứng minh rằng y đã lớn lên ở quận Trần.
Tạ Cánh cảm thấy từ sâu trong xương tuỷ dâng lên một luồng khí lạnh thấm dần ra da thịt. Lần trước, khi trở về nơi này, quyển sách lật úp trên bàn thậm chí vẫn dừng lại đúng trang mà y tiện tay lật tới trước lúc rời đi.
Trong sân, Tạ Tuấn vẫn còn đang hỏi chuyện: "Tài sản ruộng đất bị tra xét và tịch thu chẳng phải nên trả về nguyên chủ ư? Sao vẫn thành ra thế này?"
Tạ Cánh nghe không rõ câu trả lời của chàng trai nọ. Nhưng "trả về nguyên chủ"... Có thể trả lại được bao nhiêu đây? Phần lớn e là đã hóa thành tiền cứu trợ cho mùa đông năm ngoái, hoặc suốt năm năm qua, chúng đã bị tiêu sạch vào công phí của phủ nha rồi.
Y bỗng bật cười thê lương, nhưng nghĩ theo hướng tích cực thì ít ra trong hai triều của Lục Lệnh Tùng và Lục Thư Thanh sắp tới, đám quan lại kia sẽ chẳng còn cơ hội dâng tấu buộc tội "ngoại thích can chính" nữa. Một gia tộc suy tàn đến mức này, thân thích chẳng còn lòng cầu danh lợi, bản thân lại là "vợ cả của thiên tử", "sinh mẫu của Đông cung" mà chẳng được phong tước miện, y còn có thể can thiệp được vào chính sự gì đây?
May mắn hơn hết chính là phần mộ tổ tiên vẫn còn, tuy giờ đây trông tiêu điều hoang vắng, nhưng chí ít vẫn có người trông coi, thỉnh thoảng sửa sang hương khói. Tạ Tuấn đã đến chùa trong thành nhờ trụ trì chọn giờ lành ngày tốt, cuối cùng bốn vị trưởng bối cũng đã được an táng yên ổn.
Khoảnh khắc hạ huyệt không có tiếng khóc nức nở, cũng chẳng có âm thanh bi thương nào, thậm chí khó mà tìm ra được biểu hiện đau buồn trên khuôn mặt của Tạ Cánh và Tạ Tuấn. Nỗi đau trong quá khứ thật sự đã kéo dài quá lâu, quá sâu và quá nhiều. Thứ cảm xúc ấy cũng sẽ khiến con người ta mỏi mệt, có lẽ ngay tại khoảnh khắc vừa mất đi, vết thương lòng kia đã bị đục xuyên qua, để rồi suốt phần đời còn lại, mỗi lần vô tình cọ xát, những gì mà họ nếm được chỉ còn là cảm giác tê dại và đau đớn mơ hồ mà thôi.
Khi khâm liệm, Lục Lệnh Tùng đã dùng loại quan tài bằng gỗ lim quý giá nhất. Ngoài việc sắm sửa thêm đồ vàng mã, Tạ Tuấn còn đem theo tất cả di vật lúc sinh thời của ông bà cha mẹ ở ngõ Ô Y để cùng chôn theo. Nếu thật sự để tâm đến cái gọi là "lễ tang long trọng" thì Tạ Cánh đã không từ chối việc đưa cha mẹ cùng anh và chị dâu an táng ở núi Bắc Mang rồi, nhưng thật nực cười thay, dù nằm xuống kề bên có là vương hầu khanh tướng hay thân quyến áo vải, dù có được tổ chức đại tang long trọng khiến muôn người rơi lệ đi nữa, thì người đã chết rồi cũng đâu thế sống lại?
Đêm hôm đó, Tạ Cánh ở lại từ đường một mình, lau chùi sạch sẽ bốn tấm bài vị mới lập xong, y quỳ xuống, chắp tay hành lễ, sau đó hơi ngẩng mặt lên lặng lẽ nhìn vào khoảng không trước mặt.
"Mấy ngày nay con thường nghĩ, liệu cứ khăng khăng đưa mọi người về quận Trần có phải là việc làm đúng đắn hay không?"
"Kể từ lúc mọi người ra đi, khi đứng trước tất cả những lựa chọn, con đều do dự, không biết đúng sai, chẳng rõ nặng nhẹ, để hơn ba mươi năm trôi qua phí hoài. Cha từng nói có những chuyện phải đến năm ba mươi tuổi con mới hiểu được là đã đề cao con quá rồi."
"Trước khi rời kinh, Ninh Ninh đã nói với Thanh Nhi rằng, nếu như đó thật sự là điều con mong muốn, nếu sống trên đời đối với con là một chuyện đau khổ, thì dù con có chọn cái chết, con bé cũng sẽ không ngăn cản. Ấy vậy mà con lại chưa từng biết, hóa ra con gái con đã nhìn nhận chuyện sống chết và huyết nhục tình thâm như thế này."
"Tuấn Nhi cũng nói thằng bé gặp phải một vấn đề nan giải, nhưng con là một kẻ vô dụng, chẳng thể giúp nó giải hoặc. Ngay cả bản thân con cũng có một khúc mắc, chẳng biết liệu cha mẹ và anh chị có thể hiển linh, chỉ đường dẫn lối cho con hay chăng?"
Bên ngoài từ đường, cả cánh đồng rộng lớn đã chìm vào giấc ngủ say. Men theo đường bờ ruộng đi xuống chính là con suối năm xưa nơi y, Lục Lệnh Tùng và Lục Thư Thanh từng nghịch nước. Ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đêm phương Bắc, kia vẫn là dải ngân hà thời Tấn lấp lánh điểm tô cho trăng non thuở Tần.
Tạ Cánh cứ thế đứng trước cửa từ đường, dõi mắt nhìn tất cả những gì y có thể nhìn thấy.
Có lẽ cung Thái Sơ đúng là một nơi lạnh lẽo khó sống, nhưng rời khỏi nơi đó, chẳng lẽ y thật sự có thể sống cả đời tùy tâm tự tại ở một nơi nào đó khác hay sao? Từ khi mở mắt y đã lớn lên giữa khói lửa chốn thị thành, liệu có chịu đựng được nỗi cô quạnh kéo dài hàng chục năm như một ẩn sĩ nơi núi rừng hay không? Y và tộc nhân chẳng nói với nhau được mấy câu, cảnh cũ giờ cũng đã khác xưa. Đến hôm nay, quận Trần đối với y mà nói còn mấy phần xứng đáng gọi là "cố hương"?
Lục Lệnh Tùng tôn trọng y, để y được tự do; các con thấu hiểu y, cũng muốn y được tự do. Nhưng liệu rằng y có thể thản nhiên đón nhận sự thành toàn ấy?
Rốt cuộc y rời đi vì điều gì?
Đi để trốn tránh, để tìm tự do, hay chỉ vì "muốn đi" mà thôi?
Suy cho cùng, đã sinh ra trong chốn trần thế vẩn đục này thì vĩnh viễn sẽ không thể sở hữu sự "tự do" đúng nghĩa. Mà dẫu có thể chặt đứt mọi phiền muộn trên thế gian, bỏ lại thân xác này đi nữa, thì y – Tạ Chi Vô thật sự có được tự do để "tìm đến cái chết" hay không?
Nếu phải lựa chọn ngay khi vừa hay tin dữ về cái chết của Lục Lệnh Chân, thì không cần nghi ngờ gì cả, Tạ Cánh thật sự có thể đã chọn cái chết. Lúc ấy đại sự còn chưa bắt đầu, huyết thù vẫn chưa báo, sợ rằng sẽ lại có người mất mạng vì thù hận của bản thân, lại không gánh nổi cái giá quá nặng nề mang tên "sống chết", cho nên rất có khả năng y sẽ tự mình kết thúc tất cả.
Có lẽ vì Lục Lệnh Tùng đã nghĩ đến chuyện này, cho nên tất cả chi tiết tình hình chuyện xảy ra ở đảo Bát Quái, hắn đều không bàn bạc với Tạ Cánh. Hắn sợ y sẽ buông bỏ, càng sợ y khó lòng chọn lựa giữa "kiên trì" và "buông bỏ", sau đó dùng cái chết để trốn tránh.
Nhưng hôm nay tất thảy đều đã chấm dứt, những sự việc đã xảy ra không thể vãn hồi, người đã mất cũng chẳng thể sống lại. Ngăn giữa "sự sống" và "cái chết" của bản thân y chính là biết bao nhiêu sinh mạng và máu tươi đã đổ xuống, là nửa đời cay đắng gian truân của những người trần mắt thịt. Nếu như Tạ Cánh vẫn lựa chọn cái chết, vậy thì chẳng khác nào giống như lời Lục Lệnh Tùng từng nói, bọn họ đều đã "chết vô ích" cả rồi. Vứt bỏ mạng sống của chính mình là sỉ nhục tất cả những người đã liều mạng bảo vệ y, những người cố gắng giành lấy một tia hy vọng mong manh chỉ để y được sống.
Tự do mà Thôi Thục Thế từng nói trước lúc lâm chung, rằng nàng "sẽ chết vì bản thân mình", y không có tư cách để sở hữu.
Tạ Cánh bỗng chợt hiểu ra vì sao Tiêu Thái hậu lại giành cả cuối cuộc đời mình để ẩn náu nơi cửa Phật chùa Kê Minh, và vì sao suốt mấy năm nay Ngô thị ngày càng một lòng hướng thiện. Khi con người ta không tìm thấy lối thoát khỏi vận mệnh mà cũng chẳng thể chết đi, thì hướng mắt về phía Thần Phật có lẽ là con đường ít phải trả giá nhất, ít rủi ro nhất, cũng ít phải hy sinh nhất.
Từ xa vang lên tiếng lá khô bị giẫm nát, Tạ Cánh thu tầm mắt lại, chỉ thấy Tạ Tuấn khoác áo choàng dày, xách đèn lồng vội vã bước đến. Trong tay cậu còn nắm một vật gì đó, khi cách y chừng mười mấy bước, cậu đã lớn tiếng báo tin:
"Chiến báo từ Ung Châu, là thư tay của Lý tướng quân ạ!"