"Đừng nhúc nhích!"
Khương Dã sẵng giọng quát, nhắm bắn vào một góc mặt khỉ lộ ra sau lưng Hoắc Ngang. Mặt khỉ lại biến mất lần nữa, Hoắc Ngang cảm thấy bả vai mình nhẹ bẫng, cuống quýt lộn người, vẫn còn sợ hãi nhìn xung quanh, "Lần này bắn chết chưa?"
Cận Phi Trạch ngửa đầu, nói: "Chưa."
Khương Dã ngẩng đầu nhìn, thi thể thầy pháp nọ đang treo ngược trên vòm hang, hốc mắt sâu hoắm nhìn họ, toát ra vẻ ác ý nham hiểm.
"Không đối phó được," Khương Dã lạnh lùng nói: "Rút lui ngay."
Không cứu được Wail nữa, Hoắc Ngang lập tức túm A Sai trên giường đá dậy, A Sai ngơ ngác rời khỏi hang động theo mọi người. Lan can bên vách đá trống không, Sầm Duẫn đâu? Khương Dã đang ngờ vực, chợt đầu Sầm Duẫn ló ra bên dưới lan can. Hắn tỏ vẻ sốt ruột, kêu: "Đừng bỏ rơi tôi!"
Hắn ta tinh ranh thật, trốn dưới vách đá, lúc nãy thi thể thầy pháp vào hang không nhìn thấy hắn.
"Có mang theo hắn không?" Hoắc Ngang hỏi.
Hắn nắm giữ thông tin về thành Hắc Sơn, tạm thời không thể chết được.
Khương Dã nhắm súng vào cửa hang đen ngòm, nói: "Có."
Hoắc Ngang mở còng tay của Sầm Duẫn, túm cổ áo hắn lôi hắn lên. Bên kia hang động, thi thể thầy pháp đã bò ra. Khương Dã bắn thêm hai phát súng, tác dụng không nhiều, đạn bình thường có thể kìm hãm nó, nhưng không thể làm nó bị thương được. Nó ló cái đầu mặt khỉ ra ở cửa hang, lẳng lặng nhìn họ chằm chằm.
A Sai ngạc nhiên ra mặt, "Trung Quốc có Tôn Ngộ Không thật à?!"
Hoắc Ngang mắng: "Tôn Ngộ Không cái đầu cậu. Đồng đội cậu bị nó giết rồi, muốn sống thì đi theo bọn tôi."
Bỗng dưng, tay nó nhúc nhích, như muốn tháo mặt nạ.
Cận Phi Trạch vung tay, không biết ném thứ gì lên vách đá, thi thể thầy pháp dừng động tác tháo mặt nạ, nó nghiêng mặt đuổi theo thứ nọ, cắm đầu xuống vách núi.
"Ném gì thế?" Hoắc Ngang hỏi.
Cận Phi Trạch ung dung nói: "Thịt Thái Tuế."
Đã là tín đồ của Đấng, đệ tử của Đấng, đương nhiên thứ của Đấng sẽ hấp dẫn nó.
Nó rơi xuống vách núi, nguy hiểm được giải trừ, Hoắc Ngang lau mồ hôi. Khương Dã lại không yên tâm, bám lan can nhìn xuống dưới, chỉ thấy thi thể thầy pháp nọ ngậm Thịt Thái Tuế, dùng cả chân lẫn tay bò lên soàn soạt. Khương Dã sởn gai ốc, nói ngay: "Đến đạo quán, ngay lập tức."
Khương Dã bọc hậu, Hoắc Ngang cõng A Sai, Cận Phi Trạch đánh ngất Sầm Duẫn, xách hắn xuống núi. Năm người xuống núi nhanh như bay, buổi tối đạo quán khoá cửa, Hoắc Ngang liều mạng đập cửa. Tiểu đạo sĩ còn chưa mặc áo, ở trần bò dậy mở cửa cho họ.
"Các anh làm gì vậy, đêm khuya có cho người ta..."
Tiểu đạo sĩ còn chưa càu nhàu xong, mấy người họ vội vã lách vào đạo quán, đóng cửa lại.
"Buổi đêm có quỷ xuất hiện trên núi của các cậu." Hoắc Ngang nói.
Tiểu đạo sĩ ngẩn ra giây lát, nói: "Tôi đi mời trụ trì!"
Tiểu đạo sĩ vừa chạy vừa hét "có quỷ", phòng trong đạo quán lần lượt sáng đèn. Không chỉ Trương Nghi thức dậy, mà phòng của sư thúc anh ta cũng bật đèn, một ông già râu bạc được tiểu đạo sĩ dìu ra. Ông cụ này mặc áo choàng đạo sĩ bằng vải sa màu đen, hai mắt chỉ có lòng trắng, không có tròng mắt, nhìn rất đáng sợ. Mặc dù bề ngoài xấu xí, nhưng ông nói năng rất dịu dàng, thong thả chỉ huy đệ tử khuân thang tre đến, bắc lên tường xem tình hình. Vài đệ tử trèo lên xem, trèo xuống nói: "Không thấy con ma mà các anh nói."
"Chắc là trốn rồi, yên tâm, chốn thanh tịnh của Đạo gia, nó không dám vào đâu." Lão sư thúc nói.
Hoắc Ngang xách Sầm Duẫn đang hôn mê dậy, "Chính thằng ngu này dẫn đến đây, mẹ kiếp, bị quỷ bám theo mà cũng không biết."
"E rằng không phải vậy." Lão sư thúc lắc đầu, "Ta thấy thứ đó không phải nhắm vào thí chủ này."
Quả vậy, thi thể thầy pháp nọ không phải bám theo Sầm Duẫn, mà là đến tìm Khương Dã. Khả năng là Đấng muốn ngăn cản cậu, nhưng bởi Khương Dã đã bị cấy con mắt thứ ba, Đấng không tìm thấy cậu được nữa.
"Thấy?" A Sai lầu bầu, "Đồ đệ của ông đều không nhìn thấy, ông nhìn thấy được à?"
"Mắt mù, không phải tâm mù."
Lão sư thúc quay mặt về phía Khương Dã, rõ ràng cặp mắt trắng của ông không nhìn thấy gì cả, nhưng Khương Dã lại cảm thấy ông đang nhìn mình.
Lão sư thúc ôn hoà hỏi: "Tỉnh giấc giữa đêm, chắc hẳn cũng không ngủ được nữa. Ta biết một chút về bói toán, chi bằng bói thử một quẻ?"
Tiểu đạo sĩ dìu ông về phòng ngủ, các đệ tử khác khuân Sầm Duẫn đến phòng chứa củi, A Sai đi theo đến phòng trống khác ngủ lại. Nhóm Khương Dã đi sau lão sư thúc, Trương Nghi nháy mắt với Khương Dã, "Bói toán nhìn trộm thiên cơ, hại đến tính mạng, trước giờ sư thúc tôi rất hiếm bói toán, trước đây có nhiều ông chủ lớn luân phiên đến xếp hàng mời sư thúc bói quẻ, sư thúc đều từ chối. Thế mà giờ sư thúc lại muốn bói quẻ cho cậu, cậu có phúc đấy, mau nghĩ xem hỏi gì đi."
Mọi người vào phòng ngủ, lão sư thúc ngồi xuống bàn, tiểu đạo sĩ rất lịch sự, nhấc ấm trà rót trà cho họ. Cận Phi Trạch tựa vào vai Khương Dã chợp mắt, hắn đã uống thuốc ngủ, bò dậy được đã khá lắm rồi, Khương Dã muốn bảo hắn đi nghỉ sớm, hắn không chịu, ôm cánh tay Khương Dã không nhúc nhích.
Lão sư thúc hỏi: "Có gì muốn hỏi?"
Khương Dã lắc đầu.
"Không có lấy câu hỏi nào?" Trương Nghi hơi ngạc nhiên.
Khương Dã lạnh nhạt lắc đầu.
Lão sư thúc cười ha ha nói: "Xem ra tiểu thí chủ tâm sáng như gương, có đáp án cho tất cả mọi thứ."
Hoắc Ngang bên cạnh nói: "Nếu không thì bói giờ lành để xuất phát đi."
Lão sư thúc lấy ra một chiếc mai rùa, cầm bằng hai tay và lắc, chậm chạp đặt ba đồng tiền xu xuống bàn. Tiền xu có mặt sấp mặt ngửa, chỉ thấy ông sờ kỹ một lượt, đặt hai tay xuống.
"Thời gian của các thí chủ không còn nhiều nữa." Lão sư thúc nói.
"Nghĩa là sao?" Hoắc Ngang chẳng hiểu mô tê gì.
"Mệnh của y không dài, tiểu thí chủ, cậu phải đến đích khi y còn sống." Lão sư thúc cầm mai rùa, thở dài, "Quẻ này nói rằng, y đang đợi cậu."
Khương Dã chạm vào ba đồng tiền xu trên mặt bàn, cụp mắt, cậu cảm nhận được Giang Nhiên đang thúc giục mình.
"Mang theo sư điệt Nghi đi." Lão sư thúc nói.
"Tại sao?" Khương Dã ngước mắt lên.
Lão sư thúc cố tình bảo cậu dẫn theo Trương Nghi, nhất định là có dụng ý.
"Cậu có biết tại sao thí chủ Diệu Diệu lại có tình cảm đặc biệt với nó không?"
Khương Dã im lặng chờ vế sau của ông.
Lão sư thúc chạm vào mai rùa, nói từ tốn. Theo lời ông nói, Trương Nghi vốn không tên là Trương Nghi, mà tên là Hồ Tiểu Bảo, chào đời ở thôn Miếu Tử, thị trấn Ba Lặc Mộc, tỉnh Thanh Hải. Cha mẹ nhà họ Hồ múa rối bóng mưu sinh, cả đời chăm chỉ thật thà, thường múa rối bóng dịp hiếu hỷ của nhà khác. Lúc Trương Nghi chưa chào đời, có một năm nọ nhà trưởng thôn dời mộ, gọi ông Hồ đến múa rối bóng, tiện thể giúp di dời thi thể. Ngoại trừ ông Hồ, trưởng thôn còn thuê ba người đàn ông lực lưỡng, bói giờ lành dời mộ.
Canh ba, giờ lành dời mộ, ông Hồ xách một lồng gà trống đi theo ba người đến ngôi mộ. Ông Hồ dựng sân khấu, thắp đèn, bắt đầu múa rối bóng. Vở kịch này diễn cho người chết xem, vậy nên phải diễn giữa đêm. Sau khi diễn xong, nếu gà trống trong lồng không gáy, xung quanh cũng không có tiếng động lạ gì thì chứng tỏ tổ tiên đồng ý cho họ dời mộ.
Kịch diễn xong, gà không gáy, họ bắt đầu đào mộ, vừa đào được đầu mộ, họ phát hiện quan tài bên trong mộ đã mục nát, mùi gỗ mục nồng nặc, nhưng thi thể thì vẫn cứng đờ. Lúc ấy họ đã hơi sợ, bản địa lưu truyền một truyền thuyết, nói rằng thi thể chết mà không thối rữa gọi là "Thi Sát". Hiện giờ tổ tiên của trưởng thôn này toàn thân trắng bệch, chẳng phân huỷ chút nào, chẳng phải chính là "Thi Sát" đấy ư?
Ba người kia đều rút lui, ông Hồ nhà nghèo, trong nhà đã không đủ ăn từ lâu, nếu không làm việc này, vợ con đều phải chịu đói cùng ông. Hơn nữa, lúc múa rối bóng vẫn ổn mà, rõ ràng tổ tiên đã đồng ý cho họ dời mộ. Nhưng đến khi họ đi kiểm tra lồng gà thì phát hiện chẳng biết gà trong lồng đã chết hết từ bao giờ.
Thì ra chúng không gáy, là bởi chúng đã chết.
Ông Hồ nghiến răng, nghĩ bụng giờ công nghệ phát triển, lấy đâu ra thần linh quỷ quái nữa? Thế là ông bèn cắt cổ gà, máu gà đỏ tươi tưới lên thi thể trắng toát. Vừa tưới máu, thi thể vốn cứng đờ lập tức mềm ra. Ông Hồ cho rằng dù là Thi Sát thì cũng bị máu gà tưới chết rồi, bèn yên tâm vác thi thể lên. Ba người đàn ông kia thấy vậy, cũng lấy can đảm vác mấy thi thể còn lại lên đi cùng ông Hồ.
Bốn người vội vã đi đêm, trèo núi băng rừng. Ông Hồ đi chậm hơn, nên đi đằng sau họ. Đi được nửa đường, ông Hồ chợt cảm thấy một luồng gió lạnh thổi vào gáy mình. Trong núi lạnh quá, biết trước thì đã mặc thêm áo, ông Hồ nghĩ. Ngẩng đầu lên nhìn, thấy gấu áo ba người kia rủ xuống, tóc cũng không bay, đặc biệt là người nuôi tóc dài, mái tóc buông thõng sau gáy.
Ông Hồ từ từ nhận ra, xung quanh không có gió.
Vậy thứ gì thổi gáy ông?
Ông ngoái đầu nhìn, bắt gặp hai hốc mắt đen ngòm. Chẳng biết thi thể trên lưng đã không còn hình người từ bao giờ, mọc ra một gương mặt khỉ. Ông Hồ hét toáng lên, vội vã buông tay. Ba người đằng trước ngoái đầu nhìn, cũng tái mét mặt, đều vứt thi thể đi. Nghe sau này họ kể lại, những thi thể đó còn biết bò, ông Hồ vác tảng đá đập be bét một thi thể lao tới, ba người còn lại cũng làm theo ông, mới chạy thoát được.
Sáng ngày hôm sau, mọi người dẫn người đến nơi đó xem thử, mấy thi thể nọ đều đã biến mất. Bốn người kể rất rành mạch, trưởng thôn cũng không tiện nói gì, dẫn người tìm xung quanh nhưng chẳng tìm thấy gì cả, đành tạm thời bỏ cuộc. Về sau, bà Hồ và Đại Bảo nhà họ Hồ phát hiện ra, ông Hồ suốt ngày còng lưng, không ưỡn thẳng eo được nữa, chắc là ngày vác thi thể đã bị thương cột sống.
Mẹ con bà Hồ dẫn ông Hồ đi khám khắp nơi, chẳng tài nào chữa được cái tật gù lưng này. Ông Hồ không làm được việc nặng nữa, hàng ngày mẹ con nhà họ Hồ thức khuya dậy sớm, nuôi sống gia đình, ông Hồ thì ở nhà một mình, chẳng biết cả ngày làm những gì. Một lần nọ về nhà giữa đêm, chợt thấy phòng ông Hồ vẫn sáng đèn, còn loáng thoáng tiếng rất nhiều người nói chuyện.
Bà Hồ tưởng có khách đến nhà, mở cửa ra nhìn, trong phòng chỉ có một mình ông Hồ. Bà giật mình, lục tủ quần áo, lại bò rạp xuống nhìn gầm giường, không có ai, nhưng rõ ràng lúc nãy bà đã nghe thấy tiếng rất nhiều người nói chuyện. Kể từ đó trở đi, bà Hồ từ từ phát hiện ra ông Hồ hơi khác lạ. Nửa đêm tỉnh giấc, bà phát hiện ông đang soi gương chải tóc, sắc mặt âm u. Bà Hồ không dám ngủ cùng ông Hồ nữa, dọn sang phòng Đại Bảo ở. Một tối nọ, hai mẹ con dồn can đảm, lén lút trốn ngoài tường phòng ông Hồ nghe xem bên trong là ai nói chuyện, nhưng nghe mãi mà chẳng nghe rõ nội dung cuộc trò chuyện. Họ nói nghe như tiếng người, lại như không phải.
Hai mẹ con quyết định canh ngoài cửa phòng, căn phòng này chỉ có một cửa ra vào một cửa sổ, họ phải ra khỏi phòng chứ, nếu bắt được họ thì chưa biết chừng sẽ nhìn rõ được bộ mặt thật của yêu ma. Thế là hai mẹ con canh ngoài cửa một đêm, sáng ngày hôm sau chỉ có ông Hồ bước ra từ cửa phòng, hai mẹ con vào phòng kiểm tra, trong phòng vẫn trống không, ngoại trừ ông Hồ thì chẳng có ai khác.
Đáng sợ quá, bà Hồ sởn gai ốc. Sau đó mỗi lần đến tối, hai mẹ con ở trong phòng mình ngủ, vẫn nghe thấy được tiếng nói chuyện vọng ra từ phòng ông Hồ. Lầm bầm sột soạt, nghe kiểu gì cũng không nghe rõ. Thời gian dần trôi qua, dường như tiếng nói chuyện đã bước ra khỏi phòng ông Hồ, quanh quẩn ngoài phòng mẹ con bà Hồ, nhưng hai người lén lút chọc thủng giấy dán cửa sổ nhìn ra ngoài, chỉ nhìn thấy sân nhà mình vắng vẻ, ánh trăng như rắc muối đầy đất, sáng choang, không thấy lấy một bóng người.
Hai mẹ con sống trong nơm nớp lo sợ hơn hai tháng trời, bà Hồ được chẩn đoán là đã mang thai bốn tháng. Cũng vào ngày bà Hồ được bác sĩ thông báo là mang thai, người trong thôn Miếu Tử phát hiện mộ tổ tiên nhà mình bị đào lên vô cớ, thi thể trong mộ không cánh mà bay, còn ông Hồ và ba người đàn ông lực lưỡng kia cũng đều mất tích. Thậm chí có người nói rằng mình nhìn thấy rất nhiều thi thể trắng toát đi trong rừng, họ đều tin rằng thi thể trong mộ tổ tiên đã biến thành Thi Sát, tự bỏ chạy.
Từ đó trở đi, không còn tung tích gì về ông Hồ.