Hiện giờ Hoàng hậu đối với con cái thân sinh hết mực cưng chiều. Dung Kỳ tuy rằng không được coi trọng bằng Dung Tễ – đích trưởng tử, nhưng cũng có chỗ dựa vững chắc, lại thêm phần được nâng đỡ. Ngay cả đế sư như Văn Nhân Loan cũng buộc phải bị mời đến để dạy dỗ việc học cho hắn ta.
Dung Kỳ vốn ngạo mạn quen thói, thế mà trước mặt Văn Nhân Loan lại tỏ ra khá cung kính và dè dặt. Vừa thấy Văn Nhân Loan đến, hắn ta liền lập tức đẩy Dung Oanh sang một bên.
Văn Nhân Loan có nghe phong thanh chuyện Dung Kỳ và Tiêu Thành Khí đánh cược, nhưng chẳng ngờ đến chuyện ấy lại lôi kéo cả Dung Oanh vào cuộc.
Bình Nam Vương phủ vốn là thế gia hiển hách, phú quý nghiêng trời, từ lâu đã khiến Hoàng đế sinh lòng dè chừng. Bình Nam Vương và đương kim Thiên tử từng là chỗ thâm giao, nhưng từ sau biến cố ở Thu Hoa Đình, vận mệnh Thiên tử cũng thay đổi. Có lẽ vì vẫn nghĩ tình cũ sâu đậm, nên lời nói hành vi không quá dè dặt, dẫn đến việc Tiêu Thành Khí cũng dần trở nên phóng túng ngạo mạn.
Chỉ là, lòng vua khó dò. Dẫu có giao tình sâu nặng đến đâu, đối với đế vương mà nói, cũng chẳng qua là một thanh đao chặt chém, dùng xong thì bỏ.
Được cá quên nơm.
Một khi con chó có khả năng cắn người, thì phải suy xét liệu có nên giữ nó lại hay không.
Văn Nhân Loan nhớ lại hình ảnh hôm trước Tiêu Thành Khí ở trại ngựa rút trâm hoa từ tóc Dung Oanh. Khi ấy hắn chỉ lướt qua một cái rồi rời đi, không ngờ về sau lại sinh ra bao nhiêu chuyện thế này.
Dung Oanh im lặng rơi lệ, không dám khóc thành tiếng. Lông mi dài bị nước mắt thấm ướt, dính bết lại từng sợi, đôi mắt hoe đỏ ướt đẫm như đóa hải đường bị vò nát mà vẫn cố gắng bung nở.
Ánh mắt Văn Nhân Loan dừng lại một thoáng, chẳng hiểu sao trong lòng nổi lên chút phiền muộn.
“Điện hạ làm vậy… là đang chuẩn bị cho cuộc đánh cược với Tiêu thế tử sao?”
Dung Kỳ vừa nghe đến cái tên Tiêu Thành Khí liền không nhịn được để lộ vẻ khinh thường, cười lạnh một tiếng: “Ta vốn muốn thắng, nhưng tiên sinh cũng nhìn thấy đấy, Dung Oanh cái gì cũng không biết. Dù ta có tâm dạy dỗ, sợ cũng chẳng thể xoay chuyển càn khôn.”
Văn Nhân Loan không tỏ thái độ, chỉ nhàn nhạt nói: “Tại hạ có một người hầu giỏi bắn cung, tạm thời để y thay điện hạ dạy dỗ Cửu công chúa.”
Dung Kỳ vốn cũng chẳng định tự mình dạy Dung Oanh, chỉ muốn giám sát nàng đôi chút, lại nhân đó mượn thế của Văn Nhân Loan. Nghe hắn đề nghị như vậy, liền không cần nghĩ nhiều mà gật đầu đồng ý.
Trước khi rời đi đến thư phòng, hắn ta vẫn cố tình bước đến bên cạnh Dung Oanh, hạ giọng cảnh cáo: “Loại ngu dốt như ngươi ta dạy không nổi nữa rồi. Hiện giờ theo người hầu của đế sư mà học cho đàng hoàng. Nếu ngươi dám lười biếng, chờ ta kiểm tra ra trò, tuyệt đối không tha cho ngươi!”
Dung Oanh rụt rè gật đầu, lặng lẽ theo sau người hầu rời đi. Vì hoảng loạn mà bước vội, lúc đi ngang qua bên người Văn Nhân Loan, nàng lỡ giẫm lên vạt váy, suýt nữa ngã nhào. Cũng may Văn Nhân Loan đưa tay đỡ kịp.
Dung Oanh lén liếc nhìn hắn, lại thấy người này cau mày, giữa nét mặt lộ rõ vẻ không kiên nhẫn.
“Công chúa nên chú ý dưới chân.”
Dung Oanh vội cúi đầu thấp hơn nữa, giống như đứa trẻ sợ bị người lớn trách mắng vì lỡ làm sai chuyện gì.
Dung Kỳ bên cạnh chỉ thấy nàng vụng về chậm chạp, còn lẩm bẩm: “Thật là vô dụng, đến đi cũng không xong, thứ chẳng làm nên trò trống gì.”
Văn Nhân Loan nhàn nhạt nói: “Điện hạ, nên đi thôi.”
—
Dung Oanh từng gặp người hầu của Văn Nhân Loan một lần ở chùa Lung Sơn — là một đôi huynh đệ song sinh. Khi mới gặp, hai người giống nhau như đúc, vừa thấy ở cổng, ngoảnh lại đã gặp trên hành lang, khiến nàng tưởng mình gặp phải ma, sợ đến mức chạy về méc với Văn Nhân Loan, kết quả lại bị hắn cười nhạo một hồi.
Tuy hai huynh đệ giống nhau về diện mạo, nhưng tính cách lại khác biệt hoàn toàn. Huynh trưởng tên Phong Từ y như người câm, trầm mặc như cái bóng, thường đứng trong góc tối không nói một lời. Còn đệ đệ Phong Thiện thì khéo ăn khéo nói, thân thiện dễ gần, thường phụ trách sắc thuốc, thu mua đồ đạc, thỉnh thoảng còn mua bánh ngọt dưới núi cho nàng.
Dung Oanh vốn nghĩ người dạy mình cưỡi ngựa bắn cung sẽ là Phong Thiện, ai ngờ lại là người quái gở, ít nói như Phong Từ.
Lúc đó Phong Thiện không có mặt trong viện. Phong Từ sau khi nghe cung nhân chuyển lời, liền nhanh chóng mang đến một cây cung tương đối nhẹ, đưa cho nàng. Sau đó hướng về phía sáu bình gốm treo trên cành cây, duỗi tay chỉ vào những chiếc bình, rồi lại chỉ vào cây cung trong tay nàng.
“Muốn ta đứng đây bắn trúng những chiếc bình kia sao?” Dung Oanh lúng túng hỏi, trong lòng tràn đầy khó xử — hiện tại đến cả tấm bia nàng còn chẳng chạm được.
Phong Từ gật đầu, sau đó xoay người trở vào phòng lấy thêm mấy món đồ ra.
Vấn đề của Dung Oanh không phải do không phân biệt được phương hướng, mà là vì cánh tay quá yếu, mỗi lần kéo cung đều run rẩy, không thể nào khống chế nổi lực đạo.
Sau khi nhận ra nguyên nhân, Phong Từ nhanh chóng tìm cách hỗ trợ, mang ra vài vật dụng buộc lên người nàng để tập luyện.
Lúc Văn Nhân Loan trở về, liền trông thấy Dung Oanh đứng trong viện, vẫn giữ tư thế kéo cung, tay treo một hộp cơm nặng, bên trong đặt mấy quả trứng gà, khuôn mặt nàng nhăn nhó, cánh tay run rẩy không chịu nổi, cứ thế trĩu dần xuống.
Phong Từ là sát thủ từng sống sót giữa biển máu, sao có thể dạy dỗ theo kiểu nuông chiều tiểu cô nương. Nếu thật sự để y huấn luyện, e rằng còn nghiêm khắc hơn cả Dung Kỳ. Chỉ là không ngờ, Dung Oanh lại chịu đựng rất ngoan ngoãn, không khóc, cũng không làm mình làm mẩy.
Văn Nhân Loan bước lại gần, thấy tay nàng sắp không trụ được nữa thì đưa tay đỡ, hỏi: “Thế nào rồi?”
Dung Oanh quá mải tập trung, không hề để ý có người lại gần, bị tiếng nói đột ngột của hắn dọa giật mình, hộp cơm suýt rơi khỏi tay, may mà được hắn đỡ kịp.
“Sao lúc nào cũng sợ hãi giật mình thế.” Hắn thu tay về, đưa hộp cơm cho Phong Từ.
Hắn thật sự không vừa mắt tính tình của Dung Oanh — hoặc có thể nói là không thể chịu nổi. Dù là kêu ngạo như Dung Hi, hay ngang bướng như Dung Hân Vi, cũng không khiến người ta phiền lòng như cái dáng vẻ yếu đuối nhút nhát này của nàng.
“Ta học không được,” Dung Oanh nói nhỏ, “Với lại ta cũng không phải là muốn học.”
Lúc ở trước mặt Dung Kỳ nàng không dám lau nước mắt, nhưng trước mặt Văn Nhân Loan lại dám nói ra tiếng lòng, rằng mình hoàn toàn không tự nguyện.
Văn Nhân Loan liếc nhìn nàng, nói: “Ai bắt công chúa không có quyền từ chối chứ?”
Dung Hân Vi không muốn làm gì thì có thể không làm, còn với Dung Oanh, chẳng ai quan tâm nàng có đồng ý hay không.
Nghe vậy, Dung Oanh không tỏ vẻ gì quá đau khổ. Nàng thừa biết là do bản thân vô dụng, nhưng việc đó vốn chẳng phải lỗi nàng. Chỉ là quá uất ức, nên muốn nói ra vài lời, tìm một lối thoát để trút giận trong lòng Lúc bị Dung Kỳ châm chọc, nàng còn chưa thấy tủi thân đến vậy. Nhưng cứ hễ trông thấy Văn Nhân Loan, không hiểu sao hốc mắt lại cay xè, uất ức dâng lên như nước vỡ bờ, muốn kiềm cũng kiềm không nổi, nước mắt lặng lẽ tuôn rồi mới thấy hối hận.
Văn Nhân Loan nhìn sang Phong Từ, hỏi: “Thế nào?”
Phong Từ lắc đầu. Văn Nhân Loan lộ ra biểu cảm như đã sớm đoán được, thở dài nói: “Thôi, công chúa vào phòng trước đi.”
Dẫu cách dạy dỗ của Phong Từ có khắt khe gian khổ, nhưng so với việc bị Dung Kỳ mắng chửi làm nhục, cũng vẫn còn dễ chịu hơn đôi chút. Cánh tay Dung Oanh đã mỏi nhừ, nhưng trong lòng lại không cảm thấy khó tiếp nhận như trước.
Văn Nhân Loan gọi nàng vào phòng, nàng ngoan ngoãn ngồi xuống đối diện hắn.
Trong phòng bày biện sạch sẽ tao nhã, y như gian phòng mà hắn từng ở tại chùa Lung Sơn, mọi thứ đều được sắp xếp ngăn nắp gọn gàng, không một chút bừa bộn.
Văn Nhân Loan chỉnh lại nếp áo trên tay, hờ hững hỏi: “Công chúa lần cuối cùng gặp Tam công chúa là khi nào?”
Dung Oanh không rõ vì sao lại bị hỏi điều này, nhưng vẫn thành thật đáp: “Là khi Lục hoàng đệ tổ chức sinh nhật, lúc ấy gặp Tam tỷ và phò mã ngoài điện của Triệu Quý phi, nhưng tỷ ấy chẳng thèm để ý đến ta.”
“Sau đó còn gặp lại nữa không?”
“Chưa từng.”
Văn Nhân Loan khẽ nhíu mày, chậm rãi nói: “Nếu vậy, công chúa có nhớ mình từng đắc tội gì với Tam công chúa không?”
Dung Oanh lập tức lắc đầu.
Tuy nàng không được chú ý, nhưng cũng chẳng đến mức khiến người khác phải ghét bỏ. Dung Hi chỉ khinh thường xuất thân của nàng, chứ chưa từng cố ý gây khó dễ. Càng không có chuyện nàng đắc tội gì đáng kể… chẳng lẽ chỉ vì nàng chào hỏi Triệu Miễn một câu, liền bị ghi hận sao?
Vì thế nàng rụt rè nói thêm: “Chỉ là ta có chào hỏi phò mã, chẳng lẽ là lý do này?”
Văn Nhân Loan thấy nàng thật thà, rõ ràng là không biết gì cả. “Tự nhiên không phải vì chuyện nhỏ ấy.”
Trưởng công chúa mất sớm, Nhị công chúa gả đi xa, Tam công chúa Dung Hi là nữ tử phong quang nhất Kinh thành, một Triệu Miễn nhỏ bé sao đủ để khiến nàng ta để tâm.
Dung Oanh nhíu mày, nghi hoặc hỏi: “Vậy ta với Tam tỷ có hiểu lầm gì sao? Nhưng ta còn chưa biết chuyện gì. Tiên sinh sao lại biết?”
Văn Nhân Loan không chịu nổi vẻ ngây thơ vô tri của nàng, song vẫn đáp thật: “Hung Nô thượng triều, thỉnh cầu Thánh Thượng ban công chúa hòa thân. Nghe nói chuyện này là do Tam công chúa ở giữa làm khó dễ, muốn đẩy ngươi đi.”
Dung Oanh há hốc miệng, một lúc lâu không thốt nổi nên lời, gương mặt như trời sập xuống. Văn Nhân Loan rót ly trà đưa nàng. Nàng run rẩy đón lấy, không rõ là vì hoảng sợ hay vì tay đã mỏi nhừ, chén trà rơi khỏi tay, đổ nước lên váy tạo thành một mảng ướt đẫm.
Văn Nhân Loan bóp trán, thở dài một hơi.
Thật chẳng có lấy nửa phần dáng vẻ công chúa.
Còn chưa kịp trách mắng, Dung Oanh đã đỏ hoe mắt, luống cuống đứng lên lau vạt váy, sau đó ngây ngốc đứng yên tại chỗ.
Hắn nghĩ, nếu nàng lại khóc nháo nữa, thì bảo Phong Từ đuổi nàng ra ngoài, mặc kệ sống chết, cho đi hòa thân còn hơn là phải nhìn cái dáng vẻ hoảng loạn này khiến người ta chán ghét.
Nhưng nghĩ thì nghĩ vậy, tâm tình hắn lại trầm xuống vài phần, cuối cùng vẫn nhịn không được mở miệng: “Ngươi đừng khóc.”
Dung Oanh khịt mũi, thật sự không khóc, chỉ nắm chặt tay, yếu ớt nói: “Ta không có đắc tội Tam tỷ.”
“Đi tìm Nguyên Thái phi, bà ấy sẽ giúp ngươi.”
Lúc ở chùa Lung Sơn, Dung Oanh từng nhắc đến Nguyên Thái phi. Vì không được ai quan tâm, mà Thái phi lại không có con, nên nàng thường giúp bà tụng kinh niệm Phật, hoặc đọc sách bên cạnh cho đôi mắt mờ kém ấy nghe. Tuy vậy, Thái phi cũng chưa từng biểu lộ yêu thích nàng.
Dung Oanh thoáng chần chừ, Văn Nhân Loan như nhìn thấu lòng nàng, nói: “Ngươi cứ đi, đừng nói là ta bảo. Thái phi tuy mặt lạnh, nhưng tâm địa rất tốt. Cứ đi là được.”
Nàng thấy kỳ lạ vì sao hắn biết Thái phi tâm tốt, nhưng giờ tâm trí rối loạn bởi chuyện hòa thân, nên cũng chẳng suy nghĩ nhiều. Về đến Tẩy Hoa điện, nàng lập tức cầm sách kinh chuẩn bị đi gặp Thái phi.
Vừa đến đã được báo: bệnh tình Thái phi đã chuyển nặng, không còn nhận biết rõ mọi chuyện.
Khi nàng bước vào phòng, Thái phi đang trợn tròn đôi mắt đục ngầu, đôi tay gầy gò run rẩy siết chăn thành từng nếp nhăn, miệng phát ra vài tiếng đứt quãng, như tiếng đàn cổ đứt dây:
“Thủ túc… Thái tử điện hạ… Đại nghịch bất đạo…”
Dung Oanh chỉ nghe được vài từ ấy, chẳng thể xâu chuỗi lại với nhau, nghi hoặc nhìn về phía cung nữ hầu cận. Cung nữ mặt trắng bệch, vội nhắc nhở: “Thái phi thần trí không rõ, mong công chúa đừng nhiều lời.”
Dung Oanh lặng lẽ ngồi bên giường, gật đầu. Nào ngờ chưa ngồi được bao lâu đã bị Thái phi đột nhiên nắm lấy cổ tay, lực mạnh đến mức khiến nàng suýt bật dậy. Đôi mắt đục ngầu kia lại nhìn nàng chằm chằm như chim ưng, không hẳn là hung ác, mà dường như là kinh hãi.
“Hoài Cảnh…”
Vừa thốt ra cái tên ấy, thị nữ lập tức tiến tới đỡ lấy bà, kéo Dung Oanh tránh sang bên.
Sau một hồi trấn an, Thái phi mới dần bình tĩnh lại. Có lẽ vì Dung Oanh hay lui tới chăm sóc, lại ngoan ngoãn trầm tĩnh, nên thị nữ cũng không đuổi nàng về, ngược lại để nàng ở lại hầu hạ.
Đêm đó, nàng cùng thị nữ trông chừng bên giường. Khi mệt liền ngủ gật ngay bên cạnh.
Ban đêm lạnh lẽo khiến nàng tỉnh giấc, vừa ngẩng đầu liền bắt gặp Thái phi đang mở mắt, bất động nhìn nàng chằm chằm, khiến nàng giật mình ngồi bật dậy.
“Thái… Thái phi, người cảm thấy đỡ hơn chút nào chưa?”
Nguyên Thái phi lạnh lùng thu ánh mắt lại, nói: “Đi rót cho ta chén nước.”
Dung Oanh vội vàng làm theo, không bao lâu, Thái phi đã nhắm mắt, tựa hồ lại ngủ thiếp đi.
Nàng mới thở phào nhẹ nhõm, vừa định ngả đầu ngủ tiếp, liền nghe Thái phi đột ngột mở miệng: “Ngươi có chuyện muốn cầu bổn cung.”
Dung Oanh giật mình, chột dạ nói khẽ: “Thái phi… sao người biết?”
Nguyên Thái phi cười lạnh: “Bổn cung thuận miệng hỏi một câu, không ngờ lại đoán trúng thật.”
“…”
Nàng còn đang do dự không biết mở lời thế nào, Thái phi đã mất kiên nhẫn: “Mau nói đi, nếu không nói, chờ bổn cung chết rồi thì ngươi chẳng còn cơ hội đâu.”
—
[Tác giả có lời muốn nói:]
Hiện giờ thì thấy Dung Oanh phiền lắm đó, nhưng rồi sẽ có ngày phải khóc lóc cầu xin nàng đừng rời đi.