Ngày Độc Lập Của Tôi - Dung Quang

Chương 18

Sự nghiệp dạy Tiếng Hán của Chúc Kim Hạ cứ thế lên hương, hay nói cách khác, sự nghiệp dạy Tiếng Anh của cô đã chính thức tuột dốc không phanh.

Tham gia giảng dạy đã ba năm, cứ ngỡ “con dâu đã thành mẹ chồng”, tất cả những lần đầu tiên với vai trò giáo viên cô đều đã trải qua, nào ngờ cơn sóng thần mới lại đang chờ cô ở đây.

Phiên âm.

Phiên âm thật sự là quá khó.

Trẻ con Tứ Xuyên học phiên âm đã khó.

Trẻ con Tứ Xuyên ở vùng Tây Tạng này học phiên âm còn khó hơn.

Chúc Kim Hạ: “Bèo nước gặp nhau.”

Lũ trẻ: “Bần nước gặp phần.”

Chúc Kim Hạ: “…”

Chúc Kim Hạ: “Mọi người đọc theo cô, bèo nước gặp nhau, bèo, b – eo – bèo.”

Lũ trẻ: “Bần nước gặp phần, bần, b – ân – bần.”

Chúc Kim Hạ: “Bèo nước gặp nhau, nhau, nh – au – nhau.”

Lũ trẻ: “Bần nước gặp phần, phần, ph – ân – phần.”

Dù dạy thế nào, bần vẫn là bần, phần vẫn là phần.

Chúc Kim Hạ bắt đầu suy nghĩ, rốt cuộc là giáo viên Tiếng Hán trước, A Bao, đã đào hố cho cô hay là cô tự đào hố chôn mình.

Luyện đọc cũng là một bài toán nan giải.

Tiết học đầu tiên mà Chúc Kim Hạ tiếp nhận là bài 《Con thuyền của cha》, một bài văn tự sự, tác giả hồi tưởng lại quãng thời gian từ nhỏ được cha đưa đi học, bày tỏ nỗi nhớ thương cha đã khuất.

“Có phải là chuyện xảy ra trong giấc mơ đêm qua, tôi vừa mới tỉnh giấc?”

Mở đầu bài văn, tác giả bắt đầu từ giấc mơ.

Bầu không khí đã được đẩy lên cao trào, nhưng khi lũ trẻ cất tiếng đọc, Chúc Kim Hạ vỡ mộng.

Cả lớp ba mươi mốt đứa trẻ, tất cả đều gào thét hết cỡ.

“Có! Phải! Là! Chuyện! Xảy! Ra! Trong! Giấc! Mơ! Đêm! Qua! Tôi! Vừa! Mới! Tỉnh! Giấc!”

Chúc Kim Hạ: “…”

Không, đây không phải là vừa mới tỉnh giấc, mà là cô vẫn đang mơ.

Cô đứng trên bục giảng, nghẹn lời, có người ở ngoài cửa lớp cười hả hê.

Chỉ là lần này, người cười đã học khôn hơn, còn biết xách ghế ra ngồi nghe giảng.

Chúc Kim Hạ thử sửa cho lũ trẻ, bảo mọi người đọc với cảm xúc, nhưng ngay cả việc đọc trơn tru còn khó khăn, làm sao có thể đọc với cảm xúc được?

Số học sinh có thể đọc trôi chảy, không vấp váp hết cả bài văn, chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Đa số bọn trẻ còn nhận chưa hết mặt chữ.

Khi Chúc Kim Hạ yêu cầu bọn trẻ hạ giọng xuống, bọn trẻ trở nên lúng túng, độ trôi chảy vốn đã bất ổn lại càng giảm sút.

Dưới màn đọc bài ngắc ngứ của mọi người, Chúc Kim Hạ chỉ đành ngầm đồng ý cho bọn trẻ đọc theo kiểu hò hét, hùng hồn đọc hết cả bài văn.

Cảnh tượng này, nào phải là con thuyền của cha—

“Mà là mối thù giết cha.”

Lúc ăn cơm trưa, Chúc Kim Hạ vẫn còn ám ảnh khi nhắc đến cảm nhận sau buổi học, may mà cô là người kiên cường và lạc quan.

“Thôi được rồi, ai bảo tình yêu mãnh liệt không phải là tình yêu chứ?”

Đêm qua trời mưa, sáng nay không có lớp, Đốn Châu vui vẻ leo lên núi, hái được một giỏ nấm nhỏ mang về, Thời Tự chế biến thành món ăn thơm ngon, ngọt ngào, chỉ là hơi ít một chút.

Thấy Chúc Kim Hạ mải mê nói chuyện, không để ý đến việc ăn uống, Đốn Châu gắp hết nấm vào bát cô: “Đúng rồi, giống như ‘angry sex’ cũng là ‘sex’ vậy?”

“Phụt—”

Chúc Kim Hạ bị sặc, phun ra một miếng nấm, rơi trúng ngay giữa trán Đốn Châu.

Miếng nấm trượt xuống sống mũi, Đốn Châu cúi đầu nhìn, Chúc Kim Hạ luống cuống lấy giấy lau cho cậu.

Chỉ có Thời Tự tăng tốc, tranh thủ lúc này càn quét sạch nửa đĩa nấm, liếc nhìn vị trí miếng nấm rơi trúng liền “khen ngợi” Chúc Kim Hạ: “Miệng cô đúng là súng máy đấy.”

Sau đó, anh đặt bát xuống, rút khăn giấy lau trán cho Đốn Châu.

“Tiếng Anh thì không đạt, chuyện người lớn thì lắm mồm.”

Đốn Châu kêu lên một tiếng, cầm đũa lên mới phát hiện: “… Ê, nấm của em đâu?”

Còn thủ phạm đã càn quét sạch nấm, lúc này đang gọi Chúc Kim Hạ đi rửa bát.

Từ khi biết cô chân tay vụng về, muối đường không phân biệt được, chuyện rửa bát đã không còn liên quan đến cô nữa, vì vậy, khi Thời Tự gọi cô, Chúc Kim Hạ còn hơi ngẩn người.

Đốn Châu ngẩng đầu lên từ sau bát, nói lí nhí: “Sợ cô giáo lại làm vỡ bát à? Hay là để em làm cho.”

Bị Thời Tự từ chối, anh chỉ đích danh muốn Chúc Kim Hạ đi rửa bát.

Nhưng đi theo anh xuống bồn rửa dưới lầu, Thời Tự cũng không để cô động tay, chỉ đưa cho cô một chiếc khăn sạch, ra hiệu cho cô lau khô bát đã được rửa sạch.

Anh rửa một cái, cô lau một cái.

Lúc lau đến cái bát thứ hai, Chúc Kim Hạ nghe thấy anh nói.

“Trẻ con ở đây nói tiếng Phổ Thông muộn, từ lúc sinh ra, chúng chỉ nghe và nói tiếng Tây Tạng, mãi đến khi vào lớp 1 mới bắt đầu học chữ Hán.”

“Không có trường mầm non sao?”

“Có.” Thời Tự gật đầu: “Nhưng trường mầm non không cung cấp dịch vụ nội trú, đường núi xa xôi, hầu hết phụ huynh không thể đưa đón con cái hàng ngày, nên trường mầm non chỉ là hình thức.”

Anh không ngẩng đầu lên, rửa xong một cái bát, tự nhiên đưa cho Chúc Kim Hạ.

“Khi nào rảnh, cô có thể đến lớp 1 xem thử, cô sẽ phát hiện ra hầu như không ai hiểu cô đang nói gì.”

“Năm năm trời, ngoài một tiết Tiếng Hán mỗi ngày, thời gian còn lại chúng đều không sử dụng tiếng Phổ Thông, làm sao có thể nói trôi chảy, nói sao cho có cảm xúc được?”

Thời Tự lại cầm một cái bát lên, vừa rửa vừa nói: “Chúc Kim Hạ, cô phải kiên nhẫn.”

Đến lúc này, cuối cùng cô cũng hiểu tại sao anh lại gọi cô đi rửa bát.

“Anh cố tình gọi tôi đi rửa bát, chỉ để nói chuyện này sao?” Chúc Kim Hạ bật cười: “Sao nào, anh tưởng bọn chúng đọc bài khóa cũng có thể khiến tôi vỡ mộng à? Hiệu trưởng Thời xem thường tôi quá đấy.”

Thời Tự cũng cười: “Tôi không phải sợ cô chùn bước sao?”

“Xem thường ai đấy?” Chúc Kim Hạ lau sạch một cái bát khác, đặt vào chậu, lực hơi mạnh một chút: “Người lớn hai mươi tuổi tôi còn dạy được, huống chi là một đám nhóc con.”

Bát va vào bát, phát ra một tiếng “keng”.

Thời Tự đưa tay ra, lấy cái bát lên xem xét kỹ lưỡng, may mà vẫn còn nguyên vẹn.

“Nhìn anh keo kiệt kìa.” Chúc Kim Hạ lấy lại cái bát, đột nhiên nhớ đến một chuyện khác. “Anh là người Hán phải không?”

“Phải thì sao?” Thời Tự bật lại: “Người Hán thì không được keo kiệt à? Ai quy định chỉ có dân tộc thiểu số mới được keo kiệt?”

Anh nheo mắt lại, như muốn lên án “cô đang phân biệt chủng tộc đấy”.

Chúc Kim Hạ nói: “Không, ý tôi là, lúc anh đến trường học, anh có biết nói tiếng Tây Tạng không?”

“Không.”

“Vậy anh có nghe hiểu không?”

“Không.”

“Vậy…” Chúc Kim Hạ há miệng, nhưng không hỏi ra lời.

Cô chỉ đột nhiên nghĩ đến việc Thời Tự đã trải qua thời thơ ấu như thế nào.

Khi tất cả mọi người chỉ nói thứ tiếng quen thuộc với anh vào giờ học Tiếng Hán mỗi ngày, còn lại, anh đã giao tiếp với họ như thế nào?

Trong đầu Chúc Kim Hạ hiện lên hình ảnh Thời Tự lúc nhỏ ngồi trong lớp học, cô không thể tưởng tượng ra cậu bé đó trông như thế nào, có biểu cảm gì, nhưng cô quen thuộc với Thời Tự của hiện tại.

Lúc mọi người ăn lẩu tiễn A Bao, anh đứng bên cạnh.

Lúc học sinh tập thể dục buổi sáng, anh đứng sau đám đông.

Mỗi tối thứ ba, thứ năm, giáo viên và học sinh sẽ cùng nhau nhảy Oa Trang trên sân trường một tiếng đồng hồ, Chúc Kim Hạ theo bản năng tìm kiếm anh trong đám đông, nhưng lại không thấy anh tham gia, cuối cùng ngẩng đầu lên, anh đang lặng lẽ đứng bên cửa sổ tầng ba.

Giống như niềm vui đều thuộc về bọn họ, anh chẳng có gì cả.

Chúc Kim Hạ còn đang ngẩn người, Thời Tự bên cạnh đã khóa vòi nước, nhận lấy chậu nhựa đựng bát đũa từ tay cô.

“Ngẩn ngơ cái gì, đi thôi.”

“… Ừ.”

Bước từ dưới ánh nắng chói chang vào hành lang tối tăm, Chúc Kim Hạ mới hỏi: “Vậy anh học tiếng Tây Tạng từ khi nào?”

“Tùy vào định nghĩa ‘học được’ của cô.” Thời Tự đi trước, không quay đầu lại: “Nghe hiểu mất nửa học kỳ, nói được lại mất thêm nửa học kỳ nữa.”

“Nhanh vậy?”

“Tôi học cái gì cũng nhanh.”

“…”

Giỏi ghê ha.

Gặp phải thánh nổ, chút lòng thương cảm trong lòng Chúc Kim Hạ tan biến ngay lập tức.

May mà Thời Tự còn bổ sung một câu: “Nhưng cũng chỉ là nói được thôi, nói không hay.”

Thôi được rồi, truyền thống mỹ đức của dân tộc Trung Hoa vẫn chưa bị anh vứt bỏ hết.

Nhưng mà—

“Nói không hay sao? Lần trước đến thị trấn Ngưu Gia, tôi thấy anh nói rất tốt mà?”

“Đó là chuyện sau này rồi.” Thời Tự dừng lại ở tầng ba, một tay bưng chậu, một tay mở cửa, ung dung bước vào: “Sau này tôi phát hiện ra, ở vùng núi này, nếu không nói được tiếng Tây Tạng thì sẽ rất thiệt thòi.”

“Thiệt thòi gì?” Chúc Kim Hạ suy nghĩ miên man: “Mọi người cô lập anh? Bắt nạt anh?”

Thời Tự quay đầu lại, vẻ mặt “đúng là giáo viên dạy Văn, trí tưởng tượng thật phong phú”—

“Không thể mặc cả khi mua đồ.”

Lòng thương cảm của Chúc Kim Hạ phanh gấp: “…”

Cô nhìn anh đặt bát đũa vào bếp, lúc đi ra, anh mở chiếc tủ lạnh cũ kỹ, nhỏ xíu, lấy hai quả táo ra, đưa một quả cho cô.

Quả táo nhỏ xíu, xấu xí, méo mó, quả thật là nỗi nhục của giới táo.

Chúc Kim Hạ tinh mắt, lập tức nhận ra, đây chẳng phải là sọt táo mà lần trước cô gái bán trái cây lấy từ trong nhà ra cho anh sao?

Hóa ra là do anh không nói được tiếng Tây Tạng, bỏ lỡ cơ hội thả thính bà chủ, ăn chực đồ của người ta.

Cô cười như không cười ngồi xuống, đặt quả táo lên bàn, đẩy ra xa, không thèm động vào.

“Sao cô không ăn?” Thời Tự ngồi đối diện cô: “Xấu xí thì xấu xí thật đấy, nhưng vùng núi này nhiều nắng, trái cây rất ngọt.”

Anh tưởng tôi chê quả táo sao?

Là chê anh đấy.

Thời Tự, người bị chê, vẫn không hề hay biết, cắn mấy miếng, ăn hết quả táo: “Nếu không phải do bần cùng sinh đạo tặc, ai thèm học nhiều kỹ năng thế để bảo vệ bản thân mình?”

Nghe kìa, còn rất tự hào.

Cái này mà gọi là kỹ năng à.

Chúc Kim Hạ cười tủm tỉm gật đầu, nói đúng rồi, với nhan sắc của anh, cộng thêm những kỹ năng luyện được sau này, chắc chắn đến cuối năm sẽ kiếm được cho trung tâm chúng ta một tòa nhà dạy học mới.

Nói xong, cô bỏ đi.

Thông thường, trong ký túc xá của Thời Tự cái gì cũng có, có bếp lò, có nước trà, bình thường giờ nghỉ trưa, Chúc Kim Hạ đều ở lì trong phòng khách của anh, khi thì soạn bài, khi thì đọc sách, khi thì chấm bài tập.

Thời Tự thỉnh thoảng ngồi đối diện cô, trò chuyện về kinh nghiệm giảng dạy, phần lớn thời gian là ai làm việc nấy, bầu không khí cũng khá hòa hợp.

Hôm nay cô lại bỏ đi?

Thời Tự không suy nghĩ nhiều, chỉ nhìn chăm chú vào cuốn vở bài tập, đánh mấy dấu “x”, rồi mới cảm thấy có gì đó sai sai.

Khoan đã, lúc nãy cô nói gì nhỉ?

“Kiếm” được một tòa nhà dạy học mới?

… “Kiếm”?

Hình như cô không phải đang khen anh.

“Tuần lễ lớn” đã đến.

Trường học cho nghỉ hai tuần một lần, từ chiều thứ năm đến chiều Chủ nhật, tổng cộng ba ngày, mọi người gọi đây là “tuần lễ lớn”.

Trước khi nghỉ, Chúc Kim Hạ giao cho học sinh viết một bài nhật ký, yêu cầu mọi người viết bài văn nửa tự do: “Nếu tôi là _____”.

Lời dặn dò của A Bao trước khi rời đi vẫn còn văng vẳng bên tai:

“Tôi luôn muốn dạy bọn trẻ cách diễn đạt tốt hơn, nhưng vẫn chưa thể nâng cao khả năng đọc hiểu và viết của chúng.”

“Biết giáo viên từ thành phố sắp đến, tôi đã nói với Hiệu trưởng, mong cô có thể dạy môn Tiếng Hán cho lớp tôi.”

“Mong cô có thể dạy chúng nói tiếng Phổ Thông thật tốt, viết ra những bài văn hay.”

Vì lời “trăn trối” này, Chúc Kim Hạ quyết định, phải rèn luyện kỹ năng viết văn cho bọn trẻ từ những bài nhật ký.

Làm thế nào để bọn trẻ không ghét viết nhật ký? Cô suy nghĩ mãi, cuối cùng đã chọn hình thức nửa tự do này.

Xét cho cùng, lũ trẻ còn nhỏ, trải nghiệm sống còn hạn chế, không thể đòi hỏi chúng có khả năng diễn đạt ngôn ngữ tốt, nhưng trí tưởng tượng là người thầy tốt nhất.

Cô muốn bọn trẻ tự do tưởng tượng, trở thành người mà chúng muốn trở thành trong những bài nhật ký, đồng thời xem xem những đứa trẻ này có ước mơ gì, cũng để nắm bắt trình độ chung của chúng.

Chỉ là cô không ngờ, buổi sáng, sau khi kết thúc tiết học Tiếng Hán đầu tiên, vừa giao bài tập về nhà, đến trưa đã có người ôm vở bài tập chạy đến ký túc xá giáo viên, gõ cửa phòng Thời Tự.

Bọn trẻ đều biết, giáo viên Tiếng Hán của chúng mỗi ngày đều đến ký túc xá Hiệu trưởng để ăn chực, uống chực, nằm chực (…).

“Viết xong rồi à?”

Chúc Kim Hạ cầm cuốn vở, vẻ mặt hoang mang, quay đầu nhìn Thời Tự.

Không phải nói khả năng diễn đạt kém sao? Sao viết văn lại nhanh như tên lửa thế này, vèo một cái là xong rồi…?

Thời Tự: “Bình thường thôi, ở đây, vào ‘tuần lễ lớn’, chẳng mấy giáo viên giao bài tập về nhà, học sinh về nhà giống như quân giặc vào làng vậy, cô tưởng bọn nó chịu khó ngồi nhà học bài à?”

Không đời nào.

Để không phải mang bài tập về nhà, lũ trẻ vội vàng hoàn thành nhiệm vụ trong giờ nghỉ trưa.

Chúc Kim Hạ thầm nghĩ, cũng được, không mang bài tập về nhà, ít nhất thái độ cũng tích cực.

Cả buổi trưa, tiếng gõ cửa không ngớt, cả lớp ba mươi mốt đứa trẻ, cô đã nhận được ít nhất mười bảy bài tập được nộp trước thời hạn.

Với tâm trạng vui mừng, cô cầm bút đỏ lên, lật mở cuốn vở—

Chỉ có thể nói, quả nhiên là bài văn do những đứa trẻ sử dụng tiếng Phổ Thông là ngôn ngữ thứ hai viết, câu cú loạn xì ngầu, dùng từ thiếu cẩn trọng.

“Con yêu ba. Ba con là một người đàn ông oai phong lẫm liệt, ba có một mái tóc dài khỏe mạnh, và một thân hình cứng rắn hơn cả tường đồng vách sắt, ba đi như gió cuốn, đánh người thì đến cả con lợn nhà nuôi cũng phải sợ hãi khóc lóc.”

Đây là bài văn “Nếu em là ba” do một cậu bé tên Tỏa Lãng viết.

Nhìn thấy tiêu đề, Chúc Kim Hạ suýt chút nữa thì tưởng cậu bé này đang thách thức quyền uy của giáo viên.

Đọc kỹ hơn mới biết, hóa ra Tỏa Lãng rất kính yêu ba mình, ước mơ lớn nhất đời cậu là trở thành người đàn ông vĩ đại như ba.

Có lẽ là do ảnh hưởng của bài văn 《Con thuyền của cha》vừa học cách đây không lâu, Tỏa Lãng đã học theo, sử dụng rất nhiều phép so sánh, giống như tác giả.

Ví dụ như so sánh ba mình với một con sư tử oai hùng.

Chúc Kim Hạ gạch chân khen ngợi: Rất tốt!

Lại ví dụ như so sánh dáng chạy của ba với con lợn rừng đang lao vun vút.

Chúc Kim Hạ cân nhắc nhận xét: Có thể dùng phép so sánh nào hay hơn không em?

Lại ví dụ như khi nói đến phẩm chất tốt bụng, hay giúp đỡ người khác của ba, Tỏa Lãng kể: Dì hàng xóm sức khỏe yếu, hay bị ốm, ba con luôn “y bất giải đới”(*) chăm sóc dì ấy, thổi nguội thuốc rồi mới cho dì uống, bưng cơm đến tận giường cho dì ăn. Mỗi khi trời mưa, dì sợ sấm sét, ba con liền thức trắng đêm để bảo vệ dì ấy.

Chúc Kim Hạ: “…”

Biểu cảm dần dần đóng băng.

Cô hít thở sâu, đánh dấu dưới cụm từ “y bất giải đới”, khó khăn viết lời phê.

Thấy vẻ mặt đau khổ của cô, Thời Tự nhận lấy cuốn vở, đọc lướt qua, cuối cùng dừng lại ở lời phê: “… Dùng thành ngữ hay đấy chứ?”

Suy nghĩ một lúc, anh gật đầu: “Cũng đúng. Quần áo chưa cởi vẫn tốt hơn cởi quần tháo đai(*).”

“Phụt—”  Cuối cùng Chúc Kim Hạ cũng không nhịn được nữa, cười phá lên.

(*)衣不解 (Y bất giải đới): Nghĩa đen là “quần áo không cởi ra”, thường dùng để miêu tả sự tận tâm, chăm sóc người khác chu đáo, không quản ngày đêm. Ví dụ, khi chăm sóc người bệnh, người ta có thể thức trắng đêm, không cởi quần áo để nghỉ ngơi.

(*)宽衣解带 (Khoan y giải đới): Nghĩa đen là “cởi quần tháo đai”, thường dùng để miêu tả việc chuẩn bị nghỉ ngơi, thư giãn, hoặc mang hàm ý “ân ái” giữa nam nữ.

Bình Luận (0)
Comment