Ngày Độc Lập Của Tôi - Dung Quang

Chương 54

Bữa trưa diễn ra rất hoành tráng.

Tuy Thời Tự là một kẻ “tham tiền”, nhưng lại rất giữ chữ tín, sau khi nhận tiền của Vệ Thành, dựa vào chút lương tâm chưa mất hẳn mà làm một bữa thịnh soạn, theo lời của Đốn Châu thì, mức độ phong phú này chỉ có thể được ăn trong hai dịp: một là Tết, hai là đám cưới.

Nhờ phúc của Vệ Thành, mọi người được đón Tết sớm, nhưng đáng tiếc bầu không khí lại quá kỳ lạ, chẳng ai tập trung vào đồ ăn cả.

Chúc Kim Hạ vốn tưởng Vệ Thành vẫn sẽ khăng khăng ăn trong xe, ai ngờ anh ta lại theo sau cô bước vào ký túc xá của Thời Tự.

Cô còn chưa kịp phản ứng, Thời Tự đã bưng từ trong bếp ra bốn bộ bát đũa, giống như bạn bè lâu năm mà hất cằm về phía Vệ Thành: “Ngồi đi.”

Vậy bây giờ là tình huống gì đây?

Chúc Kim Hạ nhìn hai người bọn họ, rõ ràng là vẫn chưa hiểu chuyện gì.

Vệ Thành lại giống như không nhìn thấy vẻ mặt cứng đờ của cô, kéo chiếc ghế bên cạnh cô ra, nhưng người còn chưa kịp ngồi xuống, một bóng dáng đã nhanh như chớp từ đối diện lao tới, “bịch” một tiếng ngồi xuống.

“Xin lỗi xin lỗi, đây là chỗ ngồi riêng của tôi.” Đốn Châu chiếm giữ chỗ ngồi, lại kéo chiếc ghế nhỏ bên cạnh mình ra: “Lại đây, anh ngồi đây!”

Ý đồ ngăn cách hai người rõ như ban ngày.

Vệ Thành liếc nhìn cậu một cái, Chúc Kim Hạ thót tim, lo sợ chiến tranh sẽ bùng nổ, nhưng điều đáng ngạc nhiên là ngay sau đó, Vệ Thành liền thu hồi tầm mắt, cam chịu số phận ngồi xuống vị trí mà Đốn Châu đã sắp xếp.

Chúc Kim Hạ: ?

Vì vậy, khi Thời Tự một lần nữa bưng bát cơm từ trong bếp đi ra, nhìn thấy chính là cảnh tượng tam giác quỷ này.

”…”

Anh ngồi xuống đối diện với cái bàn, đánh giá ba người: “Trời lạnh lắm à, phải chen lại với nhau để sưởi ấm hả?”

Không ai lên tiếng.

Là ngọc trai sáng chói của giới tấu hài, Đốn Châu không muốn bỏ lỡ bất kỳ mẩu chuyện cười nào: “Đây gọi là ‘ba người cùng đi, ắt có người là thầy ta’.”

(*)三人行,必有我师焉 (Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên): Câu nói nổi tiếng của Khổng Tử, ý nói trong ba người cùng đi, nhất định sẽ có người là thầy của ta, chúng ta có thể học hỏi được điều gì đó từ họ.

Sau đó, trong suốt bữa ăn, cũng chỉ có cậu là diễn hài kịch .

Cậu khen Thời Tự nấu ăn ngon, nghiêm túc nghi ngờ học vấn của Thời Tự là giả.

“Cái này mà tốt nghiệp Thanh Hoa à, chắc là sinh viên giỏi của Tân Đông Phương thì có.”

(*)Tân Đông Phương là trung tâm đào tạo dạy nghề

Sau đó lại khen Chúc Kim Hạ bên phải, da dẻ của cô Chúc thật trắng, trắng như đậu hũ non vậy, so sánh với cánh tay đen nhẻm của mình: “Không hổ là người ta nói đàn ông được nặn bằng bùn đất, phụ nữ được nặn bằng nước.”

Lại nhìn Thời Tự đối diện, làn da nằm giữa cậu và Chúc Kim Hạ, đưa ra đánh giá trung lập: “Thời Tự được nặn bằng xi măng.”

Cuối cùng nhìn “anh chồng cũ” bên cạnh lúc nào cũng im lặng ăn cơm, gãi gãi đầu, cũng không muốn thiên vị ai.

“Anh Vệ, thân hình anh đẹp thật đấy, không có lấy một chút mỡ thừa nào, làm thế nào vậy?” Cậu dùng khuỷu tay huých Vệ Thành.

Tiếng “anh” này gọi rất tự nhiên, hoàn toàn không có chút ý thức nào về việc hôm qua hai người vẫn còn đánh nhau.

Vệ Thành thản nhiên nói: “Không khó, ly hôn là được.”

Ba người còn lại: “…”

Đốn Châu cười gượng hai tiếng, giống như không nghe thấy gì, tiếp tục khen: “Haiz, giá mà tôi có thân hình như anh, chết cũng phải mặc quần bó cho áo quan.”

Chỉ cần cậu không xấu hổ, người xấu hổ chính là người khác.

Cơm còn chưa ăn xong, Thời Tự đột nhiên nhận được một cuộc điện thoại, đối phương còn chưa nói xong, anh đã bật dậy, sắc mặt thay đổi lớn.

Điện thoại là của một người dân trên núi gọi đến, người đàn ông nói tiếng Tây Tạng, nói không biết đã xảy ra chuyện gì, Lang Nhung Trát Mỗ đột nhiên chạy vào nhà ông ta, cầm điện thoại gọi cho Thời Tự muốn nói chuyện với anh.

Lang Nhung Trát Mỗ là một cô gái câm, không thể nói chuyện, mà người đàn ông này vừa không biết chữ, cũng không hiểu ngôn ngữ ký hiệu, hoàn toàn không biết Lang Nhung Trát Mỗ muốn nói gì với Thời Tự.

“Tôi cũng không biết cô ấy làm sao nữa, xông vào nhét điện thoại vào tay tôi, ư ử a a, trông rất hoảng sợ.” Ông ta nói bằng tiếng Tây Tạng với giọng hoảng hốt: “Bây giờ vẫn đang la hét loạn xạ, trông như sắp khóc rồi…”

Những ngôi nhà trên núi không giống như trong thành phố, hàng xóm cách nhau rất xa, có khi phải đi bộ cả nửa ngày mới thấy được một nhà, ngôi nhà mà Lang Nhung Trát Mỗ xông vào đã là ngôi nhà gần nhà chú Vượng nhất trong làng rồi.

Qua điện thoại, Thời Tự vẫn có thể nghe thấy tiếng Lang Nhung Trát Mỗ lo lắng phát ra những âm thanh lộn xộn.

Anh hơi khựng lại, lập tức nhận ra vấn đề nằm ở đâu.

Chú Vượng.

Có thể khiến Lang Nhung Trát Mỗ bất chấp tất cả chạy ra khỏi nhà, bỏ mặc người bị Alzheimer mà không chăm sóc, chỉ có một lý do duy nhất, chú Vượng gặp chuyện rồi.

Trái tim Thời Tự đập thình thịch, cố kìm nén cảm xúc nói với người đàn ông: “Ông hãy trả điện thoại cho Lang Nhung Trát Mỗ đi, bảo con bé đừng lo lắng, lập tức nhắn tin cho tôi!”

Anh đoán Lang Nhung Trát Mỗ nhất định là quá hoảng sợ, vậy mà lại bất chấp tất cả chạy vào nhà người khác, đến cả việc có thể nhắn tin cho anh cũng quên mất.

Một lúc sau, anh nhận được tin nhắn của Lang Nhung Trát Mỗ.

[Lúc em nấu cơm quên khóa cửa, lúc quay vào nhà thì chú Vượng không thấy đâu nữa.]

Tin nhắn tiếp theo: [Em đã tìm khắp nhà, từ trước ra sau, kể cả trong sân và chuồng lợn cũng không thấy ông ấy. Anh ơi, giờ phải làm sao đây, em để mất chú Vượng rồi.]

Thời Tự lòng chùng xuống, nhanh tay nhắn tin: [Em tiếp tục tìm ở gần nhà đi, mang theo điện thoại, giữ liên lạc thường xuyên.]

Nói rồi ngẩng đầu lên, anh gọi Đốn Châu: “Đi, lập tức quay lại núi!”

Đốn Châu vẫn đang cầm bát đũa, không hiểu chuyện gì: “Lang Nhung Trát Mỗ làm sao vậy?”

“Không phải Lang Nhung Trát Mỗ, là chú Vượng.” Thời Tự giật lấy bát cơm trong tay cậu, “cạch” một tiếng đặt xuống bàn: “Chú Vượng mất tích rồi.”

Thời Tự đi xuống lầu trước, sắc mặt Đốn Châu cũng trắng bệch, vội vàng đứng dậy đuổi theo, suýt chút nữa thì bị ghế ngáng ngã, may mà Vệ Thành nhanh tay lẹ mắt, kịp thời giúp cậu một tay.

Cậu quá hoảng sợ, đến nỗi nói lộn lời cảm ơn thành xin lỗi, như ruồi không đầu đuổi theo ra ngoài.

Chúc Kim Hạ cũng đứng dậy theo, nhìn Vệ Thành một cái, nhanh chóng nói: “Chú Vượng là Hiệu trưởng cũ của trường, Thời Tự và Đốn Châu đều là do ông ấy nuôi lớn, mấy năm trước ông ấy bị Alzheimer, được đưa lên núi chữa bệnh, chỉ có một cô con gái câm chăm sóc. Lần trước em gặp ông ấy, bệnh tình đã nghiêm trọng đến mức cả ngày đều không tỉnh táo lại, cứ thỉnh thoảng lại mất kiểm soát cảm xúc.”

Cô dừng lại một chút, nói: “Trường học ít nhân sự, tổng cộng chỉ có vài giáo viên, nếu Thời Tự và Đốn Châu đồng thời rời khỏi trường, có thể sẽ gặp vấn đề. Đi, chúng ta đi giúp một tay!”

Không phải là ngữ khí thảo luận, mà là ra quyết định.

Vệ Thành chỉ dừng lại một chút ở chỗ đó, rất nhanh liền đuổi theo Chúc Kim Hạ, trước khi đi còn đóng cửa phòng lại.

Hai người đuổi kịp hai anh em ở ngoài cổng trường, bên kia Thời Tự và Đốn Châu mỗi người đang dắt một chiếc xe máy, bị Chúc Kim Hạ chặn lại.

“Hai người không thể cùng đi được.” Cô dứt khoát nói: “Để lại một người trông trường, tôi và Vệ Thành đi giúp một tay!”

Lực lượng giáo viên trên núi thiếu thốn, nhân sự lại thường xuyên thay đổi, ngoại trừ hai anh em ra, các giáo viên khác trong trường không có ai dạy đủ ba năm, uy tín không đủ. Chỉ có Thời Tự và Đốn Châu là do Hiệu trưởng cũ dạy dỗ, từ học sinh trở thành giáo viên trong ngôi trường này, trong hoàn cảnh gió táp mưa sa, vẫn có thể gắng gượng làm trụ cột.

Thời Tự nhìn Chúc Kim Hạ trước xe, nhất thời không nói nên lời.

Gió núi thổi qua, đầu óc anh tỉnh táo hơn một chút, rất nhanh đã đưa ra quyết định, quay đầu lại nói với Đốn Châu: “Em quay về đi, gọi Vu Minh đến, bốn chúng ta lên núi.”

“Không!” Sắc mặt Đốn Châu trắng bệch, trông như sắp khóc đến nơi: “Em phải đi tìm chú Vượng.”

“Sẽ tìm thấy chú Vượng thôi, trường học cũng cần có người trông. Tôi phụ trách đi tìm ông ấy, em phụ trách giúp ông ấy trông coi nơi này—”

“Trông cái gì mà trông!” Đốn Châu lau nước mắt, gào lên đầy tức giận: “Không có chú Vượng, ai thèm quan tâm đến cái trường rách nát này chứ?”

“Chú Vượng trước khi lên núi đã dặn dò em như thế nào, em quên rồi à?”

“…”

“Nghe lời, Đốn Châu.” Thời Tự khó có khi nào không mắng cậu.

Hốc mắt Đốn Châu bỗng chốc đỏ hoe, nhớ lại năm ngoái đầy biến động.

Lúc đầu, chú Vượng còn giấu mọi người chuyện mình bị bệnh, cho đến sau này, tần suất “phát bệnh” từ thỉnh thoảng trở thành thường xuyên, ông thường vô cớ rời khỏi trường học, đến khi tỉnh lại, mới phát hiện mình đã đi đến đỉnh núi gần đó, lúc vội vã quay lại thì đã là vài tiếng sau.

Lúc đó Đốn Châu còn nói đùa, không ngờ chú Vượng cũng học được cách trốn việc, có thể thấy, từ “già rồi thì càng giảo hoạt” không phải là không có lý, người già rồi liền trở nên giảo hoạt.

Chú Vượng không phản bác, chỉ là nếp nhăn trên vầng trán ngày một hằn sâu.

Trường học gió táp mưa sa, Thời Tự đã trưởng thành lại ở xa tận thủ đô, có sự nghiệp rộng mở, còn Đốn Châu vẫn còn ở trường học thì vừa mới tốt nghiệp trở về, trước mặt học sinh là một giáo viên mới, nhưng trước mặt ông vẫn là một đứa trẻ chưa lớn.

Không có ai có thể tiếp quản, chú Vượng chỉ có thể cắn răng cố gắng chịu đựng, ông sợ rằng một khi mình rút lui, đám người trong huyện kia sẽ càng được thừa cơ hống hách, trực tiếp đóng cửa trường.

Cho đến một đêm nọ, trên đường trở về trường sau khi tỉnh lại, ông lại “phát bệnh”, trên đường đi cứ lúc tỉnh lúc không, tỉnh rồi lại không, cuối cùng cả đêm không về.

Ngày hôm sau, là một người dân trên núi chăn bò tình cờ phát hiện chú Vượng ngồi run rẩy bên đường. Người đó gọi tên ông, ông mơ màng ngẩng đầu lên, vậy mà lại không biết người đó đang gọi ai.

“Ông Vượng, ông không nhận ra tôi nữa sao?”

Người dân phát hiện có điều bất ổn liền lập tức gọi điện thông báo cho Đốn Châu. Đốn Châu cả đêm không liên lạc được với chú Vượng, người đã sắp lo chết rồi, vội vàng chạy lên núi, phát hiện trạng thái của chú Vượng không bình thường, ông bị ngã, gãy xương chân, nghiêm trọng hơn là, ông hình như không nhận ra ai nữa.

Nhìn ông xơ xác ngồi bên đường, trái tim Đốn Châu như bị ai bóp nghẹn, lao đến quỳ rụp xuống đất, nắm lấy tay ông lão: “Sao vậy chú Vượng, chú ngã ở đâu vậy?”

Phản ứng đầu tiên của ông lão là giãy ra, vừa hoảng hốt rút tay lại, vừa hỏi cậu: “Cậu là ai?”

Đốn Châu sững sờ.

Chẳng lẽ là ngã đến nỗi mất trí nhớ sao?

Vội vàng đưa ông đến bệnh viện huyện, bác sĩ cho ông chụp MRI, lại chụp CT toàn thân, phát hiện chỉ có chân là bị thương, những chỗ khác đến cả vết xước cũng không có.

Đốn Châu mắt ngấn lệ hỏi bác sĩ: “Vậy sao ông ấy lại không nhận ra ai vậy?”

Chú Vượng lúc này mới tỉnh lại, việc đầu tiên khi mở mắt ra là nắm lấy tay cậu, nói: “Gọi Thời Tự về đi.”

“Chú tỉnh rồi à, chú Vượng? Rốt cuộc là chú không khỏe ở đâu? Vừa nãy sao lại nói nhăng nói cuội, đến cả cháu cũng không nhận ra!” Đốn Châu thật sự bị dọa sợ, kéo chú Vượng liên tục hỏi.

Chú Vượng nói ngắn gọn: “Chú không biết mình có thể tỉnh táo được bao lâu, lần sau phát bệnh là lúc nào, cho nên cháu hãy gọi Thời Tự về ngay. Nói với nó, chú bị Alzheimer rồi, thường xuyên mất phương hướng, có vẻ như không thể tiếp tục ở lại trường học nữa rồi.”

Tiếp tục ở lại, nhỡ đâu lúc phát bệnh lên lại ảnh hưởng đến học sinh thì phải làm sao?

Một cuộc điện thoại, tối hôm đó Thời Tự liền lên chuyến bay từ thủ đô đến Thành Đô, sau đó bắt xe riêng vượt núi trèo đèo trở về xã Nghi Ba.

Sau đó nữa, là trước khi chú Vượng trở lại núi, hai anh em quỳ trước mặt ông, ông mỗi tay nắm lấy một người.

Ông nói với Thời Tự, chú không còn ai để nương tựa nữa, chỉ có thể gọi cháu trở về, trường học cháu hãy trông nom, ít nhất… ít nhất hãy vượt qua giai đoạn này đã, đừng để bọn họ lợi dụng cơ hội đóng cửa trường.

Ông nói với Đốn Châu, cháu phải nghe lời anh cháu, chú không có ở đây, lời của nó chính là lời của chú.

Bàn tay ông lão khô rám yếu ớt, lòng bàn tay đầy vết chai sần và nứt nẻ, làn da đen sạm cũng không che nổi những nốt đồi mồi trên mu bàn tay. Ông dùng hết sức lực nắm lấy hai người, rõ ràng toàn thân đã kiệt quệ, nhưng giọng nói lại rất kiên định.

Ông nói xã Nghi Ba rất nhỏ bé, nhưng núi lại rất cao, bao đời nay người ta sống ở đây, cả đời cũng không bước ra ngoài. Đóng cửa trường học chính là triệt để chặt đứt con đường ra ngoài của bọn trẻ.

Ông nói đi được một người là một người, ông không trông mong nơi núi rừng này lại có thể xuất hiện người thứ hai như Thời Tự, nhưng ít nhất hãy để ông nhìn thấy người thứ hai, người thứ ba như Đốn Châu, như vậy là được rồi. Học hành thành tài, trở về tiếp tục dạy dỗ thế hệ sau, dù cho bản thân không ra ngoài, thì đôi mắt cũng phải bay ra ngoài cho ông, tuyệt đối không thể làm người mù chữ.

Cha mẹ ông là người mù chữ, trồng ruộng cả đời nhưng đất đai cằn cỗi, không trồng được thứ gì ra hồn. Chăn bò cả đời, nhưng dù trong nhà có mười mấy con bò Tây Tạng, họ vẫn sống một cuộc sống nghèo khó, bởi vì bò Tây Tạng lớn rất chậm, thường phải mất mấy năm mới có thể trưởng thành. Người Tây Tạng theo đạo Phật, rất nhẹ về vật chất và danh lợi, thường bán bò Tây Tạng xong liền dâng hết tiền cho chùa chiền.

Đến khi ông hơi khôn lớn một chút, phát hiện ra tất cả mọi người trong xã Nghi Ba đều là hình ảnh phản chiếu của cha mẹ, từ người già đến trẻ nhỏ, ông gần như có thể nhìn thấy rõ ràng tương lai của đám trẻ này. Giống như một vòng lặp.

Trong một lần đi chợ, lần đầu tiên trong đời ông nhìn thấy tivi, thời bấy giờ vẫn là tivi đen trắng, chưa có tivi màu. Ông nhìn thấy người bên trong đang nói chuyện, nói những lời mà ông không hiểu. Nhìn thấy họ cầm một đống giấy, không hiểu sao lại xem say sưa như vậy. Nhìn thấy họ đi ở những nơi kỳ lạ, nơi đó không có núi không có nước, mà lại có những khu rừng màu xám được xây dựng bằng thép và xi măng.

Ông hỏi ông chủ: “Đây là cái gì vậy?”

Ông chủ trả lời ông, đây là tivi.

“Cháu chỉ thấy gà trống gà mái, chưa thấy gà tivi bao giờ.” Chú Vượng thuở thiếu thời cẩn thận sờ lên chiếc hộp vuông kia: “Sao trong con gà này lại có người vậy?”

Ông chủ cười ha hả, nói không phải, bên trong không có người.

“Vậy những người này là sao? Chẳng lẽ họ bị nhốt vào trong đó sao?”

Lời nói ngây ngô của trẻ con khiến ông chủ cười nghiêng ngả, nhưng sau khi cười xong ông ta cũng không biết nói sao, chỉ biết nói với đứa trẻ trước mặt: “Cháu đi học đi, học nhiều vào là biết ngay thôi.”

Chú Vượng nói: “Cháu đi đâu để học đây?”

“Huyện thành. Cháu bảo cha mẹ đưa cháu đến huyện thành, xã Nghi Ba không có trường học, ở đây cháu không thể nào học được.”

Ông hồn nhiên đồng ý, về nhà kể với em gái kém mình bốn tuổi về chuyện này. Em gái nói, vậy đợi anh học xong, biết cái gì gọi là “gà tivi” rồi, nhớ về kể cho em biết nhé.

Ông gật đầu, hứa hẹn đầy nghiêm túc.

Em gái lấy hết số kẹo nhận được lúc Tết cho ông, nói đây là tiền công, hai anh em ngồi bên cửa sổ, cùng nhau ăn hết.

Sau đó, chú Vượng liền bắt đầu quấn lấy cha mẹ đòi đến huyện thành đi học.

Trẻ con trên núi đều không đi học, từ nhỏ đã chăn bò, không ai đòi học hành, cũng không ai muốn đến huyện thành.

Huyện thành xa xôi như vậy, đến đó làm gì?

Nhưng chú Vượng cứ khóc lóc om sòm, ông muốn đi học, ông nói ông đã hứa với em gái, đợi ông biết cái thứ gọi là “gà tivi” kia tại sao lại có thể nhét người vào trong đó rồi, ông sẽ trở về kể cho cô bé nghe.

Một ngày lại một ngày, cứ nghĩ đến là lại quậy.

Sau đó ông thậm chí còn bỏ nhà đi, muốn một mình đến huyện thành. Ông không biết huyện thành xa lắm, dựa vào đôi chân của ông, vượt núi trèo đèo, mười ngày nửa tháng cũng chưa chắc đã đến nơi.

Cha mẹ cuối cùng cũng không thể nào chịu được nữa, họ đành bán đi một con bò Tây Tạng, đứng bên đường chặn xe, đưa ông đến huyện thành.

Ngày rời khỏi nhà, em gái buộc hai bím tóc, khóc lóc đuổi theo đến đầu làng, nói anh mau trở về nhé.

Ông toe toét cười, gật đầu đáp ứng: “Em yên tâm, anh học xong sẽ về ngay.”

“Nhớ kể cho em nghe về con gà tivi đó nhé.”

Ông vỗ ngực cam đoan: “Chờ đó, nhất định anh sẽ về kể cho em nghe.”

Lúc nhập học, chú Vượng đã mười hai tuổi, muộn hơn bạn bè cùng trang lứa đến vài năm trời. Chữ to chữ nhỏ đều không biết, tiếng Phổ Thông cũng chẳng hiểu, việc học hành vô cùng vất vả. Nhưng ông vốn là người cố chấp, dù khó khăn đến đâu cũng không bỏ cuộc, cuối cùng cũng “già đầu” mà học xong tiểu học và trung học. Nhưng huyện thành lại không có trường cấp ba, muốn học tiếp thì phải đến huyện bên cạnh, nơi còn xa xôi hơn gấp bội.

Vì vậy, gia đình lại phải bán thêm vài con bò.

Đến khi chú Vượng tốt nghiệp cấp ba trở về, mới hay tin cô em gái duy nhất trong nhà đã đi lấy chồng, khi ấy con bé mới vỏn vẹn mười bốn tuổi, bị cha mẹ gả cho một người trong làng.

Mười lăm tuổi, em gái mang thai, nhưng đứa bé đã mất khi mới được ba tháng tuổi.

Vài tháng sau, cô bé lại mang thai, rồi lại một lần nữa sảy thai.

Vài năm sau đó, cô cứ liên tục mang thai rồi lại sảy thai, bị gia đình nhà chồng nhiếc móc, đánh đập, cuối cùng, vào một ngày xuân năm cô mười chín tuổi, cô đã gieo mình từ trên đỉnh núi xuống.

Thời bấy giờ xã Nghi Ba không có điện thoại, chú Vượng không có cách nào liên lạc với gia đình.

Học hành phương xa, giao thông lại không thuận tiện, ông cũng chưa từng một lần về nhà.

Cả cái làng chẳng ai biết chữ, muốn viết thư cũng không có ai viết cho.

Mất liên lạc nhiều năm liền, mãi đến khi chú Vượng trở về nhà mới hay tin em gái đã mất từ đầu năm. Ông như phát điên xông đến nhà chồng cô bé, nhưng lại bị họ mắng nhiếc là nhà ông gả một con gà mái không biết đẻ trứng sang nhà họ.

Sau khi em gái đi lấy chồng, trong nhà đã chẳng còn lại món đồ nào liên quan đến cô bé nữa, như thể người con gái ấy chưa từng tồn tại trên cõi đời này.

Mặt mũi bầm dập trở về nhà, chú Vượng ngồi bên cửa sổ, úp mặt vào lòng bàn tay, nước mắt thi nhau chực trào. Ông nhớ lại mùa xuân năm ấy, khi từ phiên chợ trở về, ông đã từng ngồi đây cùng em gái ăn kẹo.

Ông nhớ hôm đó nắng đẹp chan hòa, đàn gà con trong sân thi nhau mổ thóc, những chú bò Tây Tạng thong dong ve vẩy đuôi.

Ông nhớ nụ cười rạng rỡ của mình, nụ cười hồn nhiên của em gái, viên kẹo trong miệng chua chua ngọt ngọt, hương vị của những loại trái cây.

Thế nhưng, ông lại chẳng thể nào nhớ nổi gương mặt em gái.

Em gái thậm chí còn không có lấy một nấm mồ, cô bé gieo mình xuống vực, chìm vào dòng Kim Sa cuồn cuộn chảy xiết.

Cô bé thậm chí còn không có một cái tên, mọi người đều gọi cô là “Nyi mo”, trong tiếng Tây Tạng có nghĩa là “em gái út”.

Gia đình mà cô bé về làm dâu là họ hàng gần trong làng, trong cả cái xã Nghi Ba này, chỉ có mỗi chú Vượng biết kết hôn cận huyết sẽ dẫn đến những vấn đề di truyền, đó chính là nguyên nhân khiến em gái ông liên tục sảy thai.

Nhưng ông biết trách ai bây giờ? Trách cha mẹ sao? Hay trách gia đình nhà chồng cô bé? Bọn họ cũng chỉ là đồng lõa mà thôi. Ngay cả bản thân em gái ông cũng đâu có biết, cô bé không hề có lỗi.

Kẻ sát nhân thực sự chính là ngọn núi này, chính là ngọn núi đã che đi đôi mắt, bịt kín miệng lưỡi, chặt đứt đôi chân của con người.

Ông đến bên bờ sông Kim Sa, dưới chân vực sâu hun hút, gào thét tên em gái, nước mắt giàn giụa. Ông nói rằng thì ra cái đó không phải “gà tivi”, mà là tivi. Ông nói rằng giờ đây ông đã biết nguyên lý hoạt động của nó rồi, nhưng ông đã trở về quá muộn, không kịp kể cho em gái nghe nữa rồi.

Một ngày sau khi trở về, chú Vượng lại một lần nữa khăn gói lên đường, tiếp tục con đường học vấn của mình.

Lần này, ông nói rằng ông muốn học đại học, ông muốn trở về xây dựng mái trường.

Ba mươi năm sau, hai đứa trẻ mồ côi được ông nuôi nấng đứng trước cổng Trung tâm giáo dục xã Nghi Ba xiêu vẹo, quyết định chia nhau hành động, một người ở lại trông chừng trường học, một người lên núi tìm người.

Bên trong cánh cổng là trăm gương mặt non nớt, ngây thơ, tuy trình độ còn hạn chế, nhưng ít ra ai cũng biết chữ.

Bên ngoài cánh cổng, dòng Kim Sa vẫn cuồn cuộn chảy xiết, trong lòng sông chôn vùi cát vàng và đất đai, cũng chôn vùi theo năm tháng đầy những bí mật kia.

••••••••

Lời tác giả:

Lúc mới bắt đầu viết《Ngày độc lập của tôi》, tôi thật sự không ngờ mình lại viết một câu chuyện ngôn tình theo hướng này, nhưng rất nhiều khi, hạt giống đã được gieo xuống, việc chúng phát triển như thế nào dường như không hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của tôi.

Tôi bắt đầu nghĩ, có lẽ Vệ Thành không chỉ là một gã chồng cũ trẻ con, phiền phức, anh ta cũng có những khó khăn và sự trưởng thành của riêng mình.

Cũng bắt đầu nghĩ, liệu trên thế giới này có tồn tại kiểu người hy sinh bản thân, cống hiến cả cuộc đời mà không cần lý do hay không, vì vậy chú Vượng đã có khoảng thời gian bí mật này.

Có lẽ tôi đã đề cập khá nhiều thứ ngoài lề của chuyện tình cảm, nhưng tôi rất vui vì《Ngày độc lập của tôi》đã trở thành hình dạng như ngày hôm nay, dần dần có thêm cành lá và thơm thảo, đó là trong mười năm viết truyện ngôn tình, “tay viết ngọt sủng” Dung Quang dần dần trưởng thành.

Tất cả đều có lì xì, cảm ơn mọi người đã đến xem đôi cánh vô hình của tôi.

Bình Luận (0)
Comment