Ngược Về Thời Minh

Chương 150

Bên trong đại sảnh vắng vẻ và trống trải của Bắc trấn phủ ty, Dương Lăng đang ngồi nghiêng người trên chiếc ghế vịn bằng vàng lót da bạch hổ bên dưới bức mãnh hổ hạ sơn. Mười tay thiết vệ đã hộ tống y vào kinh đang đứng sừng sững ở hai bên, bất động như núi.

Khẽ nhấp một ngụm trà Vũ Tiền cực phẩm do những thiếu nữ hái trà vùng Giang Nam dùng lưỡi ngắt xuống rồi dùng ngực mềm hong khô, Dương Lăng mãn nguyện ngồi vắt chéo chân. Tuy y luôn âm thầm cảnh tỉnh mình phải đề phòng tính nóng nảy, ngăn ngừa lòng ích kỷ, nhưng cái cảm giác nắm đại quyền trong tay thực rất thoải mái.

Chẳng phải đúng như câu "tỉnh ta cầm kiếm giết người, say ta ngã gối kề đùi mỹ nhân" ư? Nhắc tới mỹ nhân, đang ngồi chống cằm trên chiếc ghế da hổ mềm mại Dương Lăng chợt nhớ đến Tiểu Lâu và Cao Văn Tâm. Hai cô chỉ mang theo bốn mươi tay hộ vệ lại phải thu hút hơn hai vạn bốn ngàn phiên tử như cọp như sói của Đông xưởng, sẽ không xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn đấy chứ?

Trong lòng y có chút bất an. Nhưng nghĩ đến những con đường lớn nhỏ dẫn đến kinh sư có đến hơn ngàn nhánh, Đông xưởng lại không thể sử dụng đến quan phủ và quân binh địa phương nên số quân chia ra canh gác mỗi nơi cùng lắm cũng chỉ vài chục người. Bốn mươi vệ sĩ được tuyển ra từ trong trăm người đó hẳn có thể bảo vệ hai cô được bình an vô sự, huống hồ còn có Thành nhị đáng đầu túc trí đa mưu có thể tuỳ cơ ứng biến.

Nếu thật sự khó khăn, cả bọn vẫn có thể lui về Thạch Gia trang, nơi đang có một vệ binh mã trấn giữ, Thiên hộ trưởng lại là em vợ của Nam trấn phủ sứ Thiệu Tiết Vũ. Hiện tại hai xưởng đang ngầm sống mái với nhau nhưng đều không được quyền sử dụng quân đội, hơn nữa Tiểu Lâu đang mang tín vật của Thiệu trấn phủ bên người, nếu rút về cố thủ trong Thạch Gia trang thì bọn họ sẽ vẫn có thể được che chở. Một khi đại cục trong kinh đã định, đám phiên tử Đông xưởng sẽ phải rủ nhau “đi ngắm cảnh” (về vườn, về hưu - ND) tất cả, bọn họ sẽ không còn gặp nguy hiểm gì nữa. Nghĩ đến đây, Dương Lăng bình tĩnh trở lại.

Người thị vệ báo tin thứ tư lại chạy vào trong sảnh, thực hiện quân lễ rồi báo:

- Bẩm xưởng đốc đại nhân, Đại đáng đầu đã dẫn quân tiến vào Đông An môn.

Ánh mắt Dương Lăng loé lên, y đưa chén trà sang một bên, một phiên tử vội đưa tay đón lấy. Dương Lăng ngồi thẳng lưng dậy, trầm giọng hỏi:

- Bên Đông xưởng có động tĩnh gì không?

Thị vệ thưa:

- Lúc vừa lên đèn thì phiên tử ra vào hãy còn đông, nhưng trong vòng nửa canh giờ sau bọn chúng đã đóng chặt cổng lớn, không thấy động tĩnh gì nữa.

Dương Lăng suy nghĩ một chút rồi hỏi tiếp:

- Đám mật thám do Đông xưởng phái đi giám sát Cao Lão trang thì sao? Không có ai trở về sao?

Thị vệ nọ mỉm cười, đáp:

- Dạ! Nhân mã của Đại đáng đầu hành động thần tốc, toàn bộ đám thám tử Đông xưởng phát hiện thấy tình thế không ổn định quay về báo tin đều đã bị người của chúng ta âm thầm xử lí sạch sẽ rồi ạ!

Dương Lăng gật đầu nhè nhẹ. Ngoài cửa vang lên tiếng giày lộp cộp, Ngô Kiệt và Bành Kế Tổ sải bước tiến vào. Dương Lăng mừng rỡ, không đợi hai người bái kiến liền vội chạy tới đỡ dậy hỏi luôn:

- Ngô lão! Bành huynh! Mọi việc ổn thoả chứ?

Ngô Kiệt cung kính đáp:

- Dạ! Mọi thứ đã thu xếp theo đúng bố trí của Xưởng đốc đại nhân, hai vị đô ty Liên Đắc Lộc và Phùng Đường đang bày binh bao vây Đông xưởng.

Bành Kế Tổ cười tươi roi rói:

- Đại nhân! Từ khi đại nhân rời kinh, chúng tôi thực đã nếm không ít đau khổ từ đám nhãi nhép đó, trong khi đó chúng ta lại nắm quyền quản lý và giám sát chúng nó. Đừng nói là chúng binh sĩ, ngay cả ti chức cũng tức muốn rách phổi đây. Rốt cuộc lần này đã có thể thu thập bọn chúng rồi.

Dương Lăng mỉm cười, hỏi:

- Những thứ đó đã chuẩn bị ra sao rồi?

Bành Kế Tổ phình bụng ưỡn ngực đáp:

- Dạ! Đã sai người chất vào trong sân rồi. Ti chức đã giữ lại ba trăm người để nghe lệnh. Có điều... phiên tử Đông xưởng bình thường chỉ phụ trách thu thập tình báo, phụng lệnh bắt người, vũ khí phần lớn là đao và thương, thậm chí cung nỏ cũng chẳng được mấy cây. Ai cũng nói Đông xưởng có rất đông người giang hồ giỏi khinh công. Bọn chúng có phi thân giỏi cỡ nào, chẳng lẽ có thể địch lại trường cung nỏ cứng, hoả súng đại pháo của chúng ta sao? Đại nhân chuẩn bị những thứ này để làm gì?

Dương Lăng cười bảo:

- Hiện tại Đông xưởng vẫn còn tám ngàn phiên tử, trong đó có không ít hảo hán được chiêu mộ từ trong chốn giang hồ. Nếu chúng muốn trực tiếp chiến đấu cùng với quân đội chúng ta thì đúng là lấy trứng chọi với đá, nhưng nếu bọn chúng thừa lúc hỗn loạn đào tẩu thì cũng không dễ chặn lại. Chúng ta phải vây chặt bọn chúng ở trong Đông xưởng, không thể để chúng tẩu thoát, trốn chạy ra khắp nơi.

Hơn nữa, chiến tranh mà, dĩ nhiên thương vong càng ít càng tốt. Binh vô thường hình, dĩ quỷ trá vi đạo(1), không nhất định phải liều mạng chém giết!

Y vừa vỗ vai Bành Kế Tổ, vừa cười lớn nói tiếp:

- Hôm nay diệt trừ Đông xưởng, bản đốc sẽ dùng "Hoá học chiến", "Hoả khí chiến", "Công tâm chiến", và "Tuyên truyền chiến" là chính. Cất cây đại đao của huynh đi, theo bản đốc lên nóc nhà xem náo nhiệt một chút!

Bành Kế Tổ thấy khó hiểu bèn hỏi:

- Hoá học, tuyên truyền gì vậy? Sao ti chức cầm quân đã nửa đời người mà chưa bao giờ nghe nói tới?

Lúc ở Kim Lăng, mới nghe nói đến mấy danh từ này Ngô Kiệt cũng thấy lạ cho nên đã hỏi qua Dương Lăng, nay lão cười giải thích với Bành Kế Tổ:

- Ngươi đã thấy Phi Thiên Thần Hoả Độc Long thương trong quân rồi đúng không? Hoá học chiến mà đại nhân nói cũng có hiệu quả thần kì như Độc Long thương vậy.

Phi Thiên Thần Hoả Độc Long thương mà quân Minh phát minh có khi buộc thêm hoả tiễn dưới mũi thương (giáo), lúc lâm địch sẽ châm hoả tiễn, phóng tên giết giặc. Nếu như quân địch trốn trong hang động, nhà cao, còn có thể buộc thêm cái loại thuốc hun cay, đốt xong ném vào khiến kẻ địch bên trong hôn mê hoặc phải chạy ra ngoài. Được Ngô Kiệt giải thích xong, Bành Kế Tổ mới vở lẽ.

Tuy nhiên công dụng của loại vũ khí này không nhiều, uy lực không lớn, cho nên theo thói quen Bành Kế Tổ không hề nhớ đến trận chiến này là chiến đấu trong thành, rất thích hợp để sử dụng loại vũ khí này, tránh xung đột trực tiếp quy mô lớn.

Dương Lăng có được sáng kiến này xuất phát từ chuyện y bị khói hun cho mụ người ở bãi Lạc Nhạn lần trước. Lần đó y bị sặc đến chết đi sống lại nên vẫn nhớ như in. Lần này y để binh sĩ mỗi người mang theo một bao lớn, chẳng những chứa đầy rất nhiều thứ dễ bốc khói, cay sặc người, mà còn nhờ Cao Văn Tâm kê đơn thuốc, chuẩn bị thêm rất nhiều dược liệu gây choáng váng tinh thần, khiến người ta bủn rủn chân tay, trở nên yếu ớt.

Dương Lăng leo lên trên nóc nhà. Các căn nhà bình thường phương bắc đều có nóc chĩa lên, căn này cũng không ngoại lệ, về sau vì bọc nóc của Tứ Hợp viện lại mới hình thành một cái sân thượng gỗ. Trên con phố lớn này chỉ có hai tòa nhà là Bắc trấn phủ ty và Đông tập sự xưởng, không có ai nguyện làm hàng xóm láng giềng với bọn họ nên con phố hết sức vắng vẻ trống trải, thích hợp cho nhân mã Nội xưởng ra tay.

Hai tòa nhà được ngăn cách bởi một khoảng đất trống. Ánh trăng mông lung như nước, Dương Lăng lờ mờ nhìn thấy rất đông quan binh đã bao vây chung quanh Đông xưởng. Nội xưởng ít người mà sân trong của Đông xưởng lại rất rộng, nếu bọn họ cứ khiên cưỡng đánh vào chắc chắn vòng vây sẽ xuất hiện khe hở. Còn nếu cứ thủ bên ngoài như vầy thì sẽ kín như bưng, đảm bảo chắc chắn không một ai lọt thoát ra ngoài.

Dương Lăng khẽ gật đầu ra hiệu, Bành Kế Tổ vẫy một tên phiên tử đến gần, lấy cung của gã bắn một phát tên lệnh, mũi tên xé gió lao đi mang theo tiếng còi sắc nhọn. Phía Dương Lăng đang thuận gió, rất đông quan quân bắt đầu châm lửa lên các bao tải đã được mang đến chất đầy trong sân, bưng chúng chạy lên vứt qua bức tường cao hơn một trượng. "Hoá học chiến" bắt đầu.

Trong căn phòng nhỏ bên trái đại sảnh, Phạm Đình đang ngồi dưới tấm hoành phi khắc bốn chữ "Tinh Trung Báo Quốc", mặt nặng như chì không nói tiếng nào. Toàn bộ bảy đại đáng đầu đều ngồi phía dưới. Trước mặt Xưởng công, những tên ác quan giết người không chớp mắt này lại trông ngoan ngoãn như những con mèo, hoàn toàn không còn vẻ ngang tàng hung ác của ngày thường.

Phạm Đình trầm lặng thật lâu rồi mới u ám nói:

- Trong cung hạ đập kéo khoá sớm trước hai canh giờ, chúng ta đã phái ra bốn toán nhân mã, thế mà cũng không thám thính được chút tin tức gì. Các ngươi nghĩ xem rốt cuộc trong cung đã xảy ra chuyện gì vậy?

Đại đáng đầu Tống Sĩ Tuấn do dự một lúc rồi đáp:

- Xưởng công! Hôm nay Tam công Cửu khanh cùng hơn trăm quan viên cùng liên danh dâng sớ ép Hoàng thượng diệt trừ Dương Lăng và Bát Hổ, hoàng cung lại đột ngột bị phong toả, có phải là vì Hoàng thượng hoảng sợ, nhất thời lại không biết nên ứng phó thế nào, nên mới...

Cặp mắt ti hí của Nhị đáng đầu Ba Long loé hung quang, hắn không hề khách khí mà ngắt lời lão đại:

- Đại đáng đầu, sợ rằng không phải thế đâu! Cho dù Hoàng thượng phong toả cung điện, người của ty Lễ Giám cũng không thể không có cách gì truyền tin ra ngoài. Huống hồ phòng nào cung nào trong hoàng thành cũng có người của chúng ta bố trí.

Hiện tại trong hoàng cung không hề có động tĩnh gì. Người của chúng ta ở khắp bốn cổng đã dùng mọi cách để liên lạc, vậy mà bên trong không hề cất tiếng đám lời. Theo ti chức thấy, e rằng không phải là ty Lễ Giám không có tin tức truyền ra, mà là có muốn cũng không đưa ra ngoài được.

Quan viên của Tập sự xưởng không được sắp xếp theo phẩm hàm và tước vị trong triều đình mà toàn bộ đều do Xưởng chủ tự thiết lập. Phạm Đình không lập chức đáng đầu ngang cấp, mà sắp xếp trước sau theo đúng thứ tự tên gọi. Tứ đáng đầu Cam Kính Đường nghe vậy thì chột dạ, không dám tin bèn hỏi:

- Sao có thể như vậy được? Hoàng thượng có gan lớn như vậy sao? Nội đình và ngoại đình đã liên thủ, ngài còn dám bất chấp mà bắt giam các vị công công ty Lễ Giám sao? Hơn nữa... ngài có quân để dùng sao? Miêu Quỳ của Tây xưởng cũng không phải là kẻ ngốc, há sẽ chịu nghe lệnh hành sự?

Phạm Đình có phần đăm chiêu:

- Thiên tử trẻ tuổi, tâm cao khí ngạo, cũng không phải là không thể có hành vi bất chấp hậu quả. Nếu ngài hạ nghiêm lệnh, Miêu Quỳ lại không phải là đồng bọn của chúng ta, lão ta dám không phụng chỉ à?

Ờ..., để đề phòng bất trắc, lập tức phái thêm một ít thám mã quan sát động tĩnh trong kinh, những người khác đều phải ở lại phòng thủ trong xưởng, không được manh động.

Lão cười lạnh một tiếng rồi nói tiếp:

- Cho dù Hoàng thượng nắm giữ cung thành thì sao chứ? Đến sáng sớm mai nếu cổng cung vẫn không mở, chúng ta sẽ lấy danh nghĩa dẹp biến loạn trong cung mà dùng vũ lực xông vào.

Lục đáng đầu Chu Khởi Phượng lưỡng lự:

- Xưởng công! Có phải là Bát Hổ đã nghe tin, cảm thấy cùng đường bí lối cho nên xúi giục Hoàng thượng phong toả cung điện không? Hay là... Dương Lăng đã bí mật hồi kinh rồi?

Phạm Đình thoáng ngẩn ra, trầm ngâm một chốc rồi lắc đầu:

- Không có đâu! Chúng ta vừa nghe nói Vương Quỳnh bị giết liền đã lập tức ngầm bố trí nhân thủ, nếu như Dương Lăng hồi kinh, bấy nhiêu mật thám ở chỗ Nội xưởng, phủ Uy Vũ Bá và cả bên trong hoàng cung há đều có thể bị qua mặt hết ư? Hơn nữa, Nội xưởng bị chúng ta khiêu khích mấy ngày nay đều chùn lại, không hề có động tĩnh gì, cũng không giống như đã có chủ định gì cả...

Miệng thì nói vậy, song thần sắc lão vẫn hơi có chút bất an, không đợi nói xong thì bỗng đứng dậy ra lệnh:

- Cấp tốc hạ lệnh triệu hồi toàn bộ nhân mã đã phái ra ngoài kinh về. Còn nữa, Khởi Phương! Ngươi hãy lập tức đi đến Trấn phủ ty một chuyến, xin Trương đề đốc và Mâu trấn phủ điều động Cẩm Y Vệ các trấn chung quanh hồi kinh. Hôm nay chúng ta lấy thế Thái Sơn để áp đảo, chẳng cần phải quản nhiều như vậy, hãy cứ để Dương Lăng tự bước vào chốn đầm rồng hang hổ này đi.

Chu Khởi Phượng đứng dậy đáp:

- Dạ, ti chức tuân lệnh!

Hắn vừa dứt lời, bên ngoài bỗng vọng vào một loạt tiếng huyên náo, có người vừa ho vừa la to:

- Cháy rồi! Đi lấy nước! Đi lấy nước! Khói nhiều quá, khụ khụ khụ...

Phạm Đình nạt lớn:

- Cháy ở đâu? Mau đi xem thử!

Hai đáng đầu liền vội đứng bật dậy xông ra ngoài. Ra đến đại sảnh, trong không khí dần tràn ngập một mùi khói nhàn nhạt. Khói tuy nhạt song lại cay xé mũi, Thất đáng đầu Sa Hồng Húc bịt mũi chạy ra ngoài. Gã thấy một đám phiên tử đang chạy ngược chiều gió về phía nơi khói bay đến, bèn vội hỏi:

- Cháy ở đâu vậy? Khụ khụ khụ...

Lúc này gã đã bị khói xông cho nước mắt đầm đìa, sặc ho một trận, đầu óc choáng váng. Vốn xuất thân là hải tặc, thỉnh thoảng Sa Hồng Húc cũng đi hái hoa, lén lút trộm hương cướp ngọc. Nay đã lâu không đụng đến nghề cũ nên hơi sơ ý, lúc này gã mới phát hiện khói này quả thực không giống như hoả hoạn, mới chợt cảnh giác la lớn:

- Không xong! Có người thả khói độc, hãy mau phòng bị, đề phòng... khụ khụ... có người đánh... khụ... vào...

Trên con đường lớn trước cổng Đông An, phía bên kia đường là mười khẩu đại pháo dàn thành hàng ngang. Nòng pháo đen ngòm đang chĩa vào cổng chính của Đông xưởng. Nhị đáng đầu Phùng Đường vẫn mặc quân phục giống như lúc còn trong Thần Cơ doanh, trầm tĩnh nhìn cánh cổng đóng chặt trước mặt, quát lớn:

- Đại pháo chĩa ngang, lắp Thực Tâm* đạn, thuốc súng mười thành! (*: loại đạn đặc ruột)

Đạn thủ (người phụ trách lắp đạn vào pháo - ND) ôm quả cầu sắt to đùng lắp vào trong nòng pháo. Hoả d4ược thủ (người phụ trách nhồi thuốc súng- ND) dùng cây chày gỗ dài dầm thuốc súng. Pháo thủ điều chỉnh đại pháo, châm lửa, mười tiếng nổ dữ dội liên tiếp phát ra. Viên đạn sắt đen xì và nặng trịch được bắn đi, gỗ vụn, gạch vụn vỡ văng tung toé. Cánh cổng sừng sững cao lớn của Đông xưởng ở trước mặt đổ sầm, tường gạch hai bên cũng sụp quá nửa.

Một nửa cánh cổng lớn bằng gỗ lê dày nặng bị bắn tung lên trời, rơi xuống con hẻm vắng vẻ cách nửa dặm bên ngoài vỡ tan tành. Hai con sư tử đá ngồi chồm hổm cũng bị ảnh hưởng, bị đập trúng biến dạng hoàn toàn.

Loại đạn đặc ruột này có tầm bắn xa, lực sát thương trực tiếp nhỏ, vốn chuyên dùng trong công thành chiếm đất, là thứ vũ khí lợi hại để xuyên phá công sự tường thành. Ở cự ly gần như vậy, uy lực của nó càng được phát huy kinh người hơn. Khói bụi mù trời, song lờ mờ đã có thể thấy một đám phiên tử đang đứng đờ người ở phía trước và trong đại sảnh của Đông tập sự xưởng.

Cung nỏ thủ ở hai bên chỉa những mũi tên nhọn dày đặc vào trong tập sự xưởng, song lại không thấy ai xông ra. Đám phiên tử Đông xưởng giết người không chớp mắt đấy chưa từng thấy uy lực của thứ trọng pháo này, càng không nghĩ rằng sẽ có ngày dùng thân thể bằng xương bằng thịt của mình để đối diện với sự uy hiếp của nó. Phơi mình trước họng của những khẩu đại pháo, đám phiên tử quên cả việc chạy trốn, cứ đứng đực người ra đó mà nhìn.

Đối với tình huống trước mắt, Phùng Đường vẫn làm như không thấy, vẫn tiếp tục chấp hành cẩn thận mệnh lệnh Đại đáng đầu giao cho, cao giọng quát:

- Đại pháo chĩa lên, lắp Phích Lịch Khai Hoa đạn*, thuốc súng chín thành!"

(*: tên gọi của loại đạn nhồi các mảnh vụn kim loại. Xem hình tại http://image5.club.sohu.net/54/88/ca...45_640_480.jpg)

Mặt đất run chuyển, mười viên đạn Phích Lịch Chấn Thiên như tiên nữ tán hoa bay qua những tên phiên tử đang đứng ngẩn người, đập trúng các nơi trong xưởng, phát ra những tiếng nổ long trời. Lúc này đám phiên tử đứng trước cổng mới như tỉnh giấc mơ, cùng thét lên một tiếng rồi lập tức chạy tán loạn, vừa gào khóc vừa tìm đường thoát thân trong đám khói cay sặc sụa.

Dưới mệnh lệnh của Phùng Đường, dàn pháo lại chĩa ngang lần nữa. Đạn bắn lần này là "Cuồng Phong Bạo Vũ". Loại đạn trái phá mà tầm bắn xa nhất chỉ có một dặm này là món vũ khí hỏa pháo có sức sát thương kinh khủng nhất của Đại Minh, với vô số những viên bi hợp kim mạ sắt nhỏ được nhồi vào trong nòng pháo. Nếu có giang hồ hảo hán như "Vân Trung Hạc" hay "Phiên Thiên Diêu Tử" gì đó dám can đảm xông ra, gã không bị biến thành con "chim lửa" ngay tức khắc mới lạ.

Sau khi Tả Tiêu quân Thần Cơ doanh được đổi lại thành quan binh Nội xưởng, không những bọn họ không còn được phân phối hoả khí tác chiến cỡ lớn, mà còn phải trả lại những vũ khí hạng nặng như trọng pháo. Lúc còn làm thân quân của Hoàng đế, Tả Tiêu quân đã đưa trọng pháo đến Cao Lão trang. Không lâu sau đó Tả Tiêu quân được đổi lại thành Nội xưởng, nhưng Dương Lăng lại đang bận "mở mang bờ cõi" nên cũng không rảnh giao trả lại những vũ khí hạng nặng. Thần Cơ doanh vì ngại thân phận của y trước mặt Hoàng thượng cho nên cũng không dám chủ động gõ cửa để đòi, vì vậy lúc này trọng pháo đã phát huy tác dụng rất lớn.

Có điều đây đã là số đạn dược cuối cùng, lúc diễn võ trong núi đã hao phí quá nửa.

Song sau phen uy hiếp này, đã không còn ai dám có ý định chạy trốn bằng cổng chính nữa.

Trong khoảnh khắc cổng chính bị phá huỷ, đám người Hồng Sa Húc đã dìu Phạm Đình vội vã chạy trốn, tập hợp một đám tàn binh chạy về chỗ khói bốc dày đặc. Những loại thuốc Trung y có tác dụng gây mê đã bị lửa đốt nóng nên dược tính giảm đi rất nhiều, đã không thể khiến đám người này bị hôn mê nhưng ít nhiều cũng ảnh hưởng đến sự linh mẫn của bọn họ, cộng thêm những dược liệu gây cay mắt rát họng kia. Một đám phiên tử đầm đìa nước mắt nước mũi, ho đến rách phổi còn chưa tìm được nơi phát ra đám cháy thì đã bị đám phiên tử Nội xưởng leo lên đầu tường dùng loạn tiễn bắn lui trở về.

Đó là nghiêm lệnh của Dương Lăng: cố gắng tối đa giảm thiểu mức tử thương của quân ta tới mức thấp nhất, cố hết sức tránh giáp chiến trực tiếp, không cho bọn chúng cơ hội để chạy thoát.

Một trận đại pháo bắn tan cổng chính của nhà mình, ngay sau đó là một trận mưa tên khiến cho phe ta tử thương vô số, song ngay cả bộ dáng của đối phương thế nào bọn chúng cũng không nhìn thấy. Khói cay càng lúc càng dày, song bọn chúng lại không biết kẻ địch là ai, không biết kẻ địch có bao nhiêu người, không biết mục tiêu của kẻ địch là gì.

Vũ khí không bằng người, sĩ khí kém hơn xa, lần đầu tiên đám phiên tử Đông xưởng ngang tàng luôn cho rằng thiên vương lão tử là nhất, còn mình là nhì này phát hiện nếu như có người dám vượt qua quyền uy của bọn chúng thì bọn chúng sẽ hoàn toàn không chịu nổi một đòn.

Phạm Đình vừa dùng khăn ấm che mũi miệng, vừa khom lưng run rẩy hỏi:

- Đã xảy ra chuyện gì vậy? Chẳng lẽ Hoàng thượng đã điều binh đến rồi ư? Là Kinh doanh hay Đoàn doanh? Cái đám Tổng binh và Tham tướng vô sỉ đó ăn đồ chúng ta, lấy đồ chúng ta, thế mà lại động thủ thật rồi.

Ba Long vội hiến kế:

- Xưởng công! Chúng ta tập trung nhân mã đánh từ phía nam ra ngoài, con hẻm đó rất hẹp, đi xuyên qua rừng cây, chỉ cần ra khỏi khu rừng là sẽ vào nơi dân cư. Khụ khụ khụ... cho dù quân đội chúng có đông hơn cũng đừng hòng bắt được chúng ta.

Bên trong Đông xưởng còn tám ngàn tên phiên tử, nhưng trận chiến này Dương Lăng lấy tâm lý chiến làm chủ, chỉ công kích kịch liệt, không một người nào để lộ thân phận và ý đồ, điều này đã gây ra áp lực tâm lý nặng nề cho đám người Phạm Đình, khiến bọn họ chỉ có thể nghĩ đến điều xấu mà không có bất kỳ ý định phản kháng nào.

Tống Sĩ Tuấn vừa nghe liền luôn miệng khen hay, nói thêm:

- Xưởng công! Hiện tại khói dày đặc khắp nơi, muốn tổ chức nhân mã phản kích cũng không được, hay là tập trung càng nhiều người càng tốt để xông ra ngoài trước rồi hẵng tính tiếp đi.

Trên quan trường Phạm Đình quỷ kế đa đoan nhưng lại không có kinh nghiệm ứng phó với tình cảnh này, trong lòng lão đã không có biện pháp gì, nghe vậy vội vàng gọi các đáng đầu cấp tốc chỉnh đốn nhân mã, trong chốc lát đã tập hợp được hơn ba ngàn người, cầm đao kiếm xông về phía tường viện phía nam.

Khói lan đến nơi đây đã nhạt dần, đám phiên tử lèm nhèm nước mắt liền phấn chấn tinh thần. Dưới tường viện phía nam có ba cửa, ngày thường đều được khoá chặt, chỉ cần chém đứt khoá sắt xông ra khỏi con hẻm nhỏ là sẽ có thể "tái sinh".

Một khoảng đất trống, vốn là diễn võ trường của phiên tử Đông xưởng, song lúc này lại xuất hiện một dãy đuốc cháy chỉnh tề. Đuốc cháy nằm trên tay người. Gần trăm người ăn mặc kỳ quái đứng nghiêm trước mắt bọn chúng, ánh lửa soi sáng khuôn mặt lạnh lùng và nghiêm nghị của bọn họ.

Đám phiên tử từ xa chạy đến đã thấy một hàng người cầm đuốc trên tay, kẻ nào kẻ nấy đều có thể hình to béo cồng kềnh, một người mà to bằng ba. Chạy đến ngoài trăm mét mới phát hiện những kẻ đó đầu đội mũ sắt, trên lưng đeo một cái thùng lõm mặt, thân thể lắp vừa khớp vào chỗ lõm ấy.

Phía bắc có tên nhọn, cổng chính có hoả pháo, bọn họ vốn cũng không hy vọng cổng nam sẽ không có phục binh, nhưng chạy ra khỏi đây sẽ là ngõ hẻm rừng cây, là con đường sống có hy vọng nhất để thoát khỏi tay đám sát thần đáng sợ này. Đám phiên tử mắt đỏ lè giơ đao sắt trong tay, liều mạng hò hét xông về phía chỉ có khoảng trăm người đó.

Khoảng cách càng lúc càng gần, gần trăm người cầm đuốc nọ đột nhiên đồng loạt xoay lưng lại. Trong sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng xen lẫn niềm vui sướng không thể diễn tả thành lời, đám phiên tử Đông xưởng chen nhau điên cuồng xông tới.

Không biết từ đâu chợt loé lên một ánh lửa, rồi ánh lửa thứ hai, rồi thứ ba. Hàng trăm, hàng ngàn hoả tiễn dày đặc, đuôi phun lửa như sao băng, thẳng có, vòng có, nghiêng có, từ các góc độ khác nhau ùa tới như bầy ong vỡ tổ.

Trong bóng đêm, sao băng rợp trời, đó là cảnh sắc lãng mạn và huy hoàng cỡ nào?

Nhưng sự huy hoàng ấy lại đến để đoạt lấy mạng người. Những tên xông pha lên đầu đứng mũi chịu sào lập tức bị loạn tiễn xuyên thân, thân thể bị mấy chục mũi tên bắn trúng. Do đuôi hoả tiễn vẫn không ngừng đẩy về phía trước cho nên những thân thể từng xông lên phía trước bị đẩy bay ngược về phía sau.

Một tên phiên tử đang cầm đao sắt, trợn tròn mắt nhìn đồng bọn bên cạnh mình buổi sáng còn cùng nhau ức hiếp người, buổi trưa còn cùng nhau chơi gái, buổi tối còn cùng nhau uống rượu, nay mắt, miệng, cổ họng, bụng chỗ nào cũng cắm những mũi tên đang cháy phừng phừng bay ngược về sau. Tiếng thét vỡ mật còn chưa kịp thốt ra khỏi miệng, một mũi hoả tiễn đã bay vòng cắm xuyên vào huyệt thái dương của gã rồi xuyên ra ngoài.

Một cái thùng gỗ hết sức bình thường, nguyên liệu có thể lấy ngay trên núi, sai thợ thuyền trong quân chế tạo, đằng trước là một tấm phản ngăn đục lỗ. Đây là loại hoả tiễn được Dương Lăng lấy cảm hứng từ "Bách Hổ Tề Bôn tiễn"(*) của quân đội lúc luyện binh ở hậu sơn Cao Lão trang cải tiến thành. Giá thành rẻ, dễ chế tạo, dễ mang theo, dùng xong thì bỏ đi, đơn giản là loại vũ khí "dùng một lần rồi bỏ". (*: xem hình http://www.ljhis.com/uploads/allimg/...55103195-3.jpg)

Mặc dù hoả tiễn giải quyết được khuyết điểm nhồi thuốc chậm của súng hoả mai, song số lượng hoả tiễn mang theo có hạn, tầm bắn không xa, độ chuẩn xác lại càng không đáng nói tới. Tính luôn khả năng mang vác của binh sĩ, mỗi thùng chỉ được trang bị 75 mũi tên, song đó lại là món vũ khí cực kỳ lợi hại dùng trong những trận loạn chiến như vầy.

Đợt hỏa tiễn vừa xong, hơn một ngàn tên ngã xuống mặt đất, trên xác của một số phiên tử vẫn còn hoả tiễn đang cháy lập loè. Đám phiên tử vốn có thể cầm thanh sắt nóng rực đâm vào chân phạm nhân, nhìn người ta gào thét điên cuồng, nhìn mỡ người chảy nhỏ từng giọt mà vẫn cười nói tự nhiên nay đã kinh hoảng đến ngây người rồi; bọn đao phủ thích nhất là lấy nước sôi rưới lên người phạm nhân rồi dùng bàn chải sắt chà cho tróc thịt lòi xương nay đã kinh sợ đến ngây người rồi.

Nỗi sợ hãi tột độ ngược lại sẽ làm cho con người ta mất đi mong muốn trốn chạy. Khi những cặp mắt đờ đẫn trông thấy những kẻ cầm đuốc nọ bỏ rương xuống đất, vất đuốc rồi chạy vào trong bóng đêm, chủ nhân của chúng chợt thét lên một tiếng hét thảm khốc, càng lao nhanh về phía trước hơn.

Những tên phiên tử đáng thương đó giống như người phụ nữ bị một con sâu nhỏ dồn ép vào đường cùng, trong lòng tuy vô cùng hoảng sợ, hận không thể lập tức tránh xa nó, song lại không tự chủ được mà điên cuồng đạp bẹp dí nó.

Song, dưới bóng đen của bức tường cao trước mặt, một dãy đuốc khác lại cháy bừng lên, đám người vội vã chạy về đã nấp vào trong chỗ tối. Đứng nghiêm trước mắt bọn phiên tử là một hàng người sắp thành hình chữ ĐINH (丁) khác, trên lưng của mỗi người cũng đeo một cái thùng.

Rốt cuộc đám phiên tử Đông xưởng đã suy sụp tinh thần, bọn chúng lập tức quay đầu chạy ngược về. Nếu như có người cho dù chỉ hơi cản đường bọn chúng, cản trở bước chân tháo chạy của bọn chúng, những cây đao sẽ điên cuồng chém về phía trước. Bọn chúng không có dũng khí ngoái đầu lại, nhưng trong đầu vẫn hiện lên những hình ảnh hàng vạn mũi tên cùng bắn, là những bóng người bị tên nhọn bắn nát người nát mặt, bắn cho chết không toàn thây.

Nỗi sợ hãi lan nhanh như ôn dịch, tốc độ chạy trở về của đám phiên tử còn nhanh gấp đôi lúc bọn họ xông lên. Những đám phiên tử khác nghe tin cùng trốn chạy đến phía nam còn chưa kịp thấy gì thì đã bị bộ dạng trông như ma quỷ và những tiếng kêu la quái dị không phát ra thành tiếng của bọn họ hù cho sững người, bèn cũng điên cuồng chạy ngược trờ về.

Vào lúc này, vô số âm thanh từ bốn bề đồng loạt quát to:

- Tuân thánh dụ, Nội xưởng bắt người, không giết những kẻ đầu hàng!

Phiên tử Nội xưởng xông vào Đông xưởng bắt người chỉ vẻn vẹn có bốn trăm tên. Hơn sáu ngàn phiên tử Đông xưởng mặt cắt không còn hột máu, như những con cừu non ngoan ngoãn nghe lời. Một người Nội xưởng bắt giữ mấy chục, thậm chí hơn cả trăm phiên tử Đông xưởng, thế mà không tên nào có ý niệm kháng cự.

Dương Lăng ngồi thẳng người trên sân thượng nha môn Cẩm Y Vệ nghe Liên Đức Lộc chạy lại hào hứng bẩm báo chiến quả.

Bàn Kế Tổ cười lớn:

- Đại nhân! Ti chức cũng lường trước bọn Đông xưởng không phải là đối thủ của chúng ta, song không ngờ bọn chúng lại không chịu nổi một đòn như vậy. Mẹ nó, đừng thấy Đông xưởng hô hào hung hãn, thật giống mụ đàn bà trói gà không chặt quá đi, đàn ông muốn ra sao thì sẽ ra sao, bọn chúng chỉ có thể hứng chịu.

Thấy Dương Lăng hết sức hài lòng với chiến quả, Liên Đắc Lộc bèn cũng góp vui:

- Chỉ có thể “hứng chịu”? Chỉ có thể hứng chịu thì chỉ có thể hứng chịu cái tốt, ít nhất thì người ta không cần phải lo lắng cho cái sự “bất lực” của chính mình. Ha ha ha ha..., lão Bành ông cũng đừng có đắc ý, nếu không nhờ diệu kế của Xưởng đốc đại nhân, chỉ dựa vào một trận “cày bừa” của ông, không chừng chỉ làm trò cười cho cái đám đàn bà Đông xưởng rồi đấy.

Hai người nói xong thì ôm bụng cười ngặt nghẽo. Dương Lăng nuốt không nổi kiểu nói đùa thô tục này bèn đứng dậy, quay sang bảo với Ngô Kiệt nãy giờ yên lặng đứng một bên:

- Ngô lão! Việc còn lại giao cho ông, mọi thứ đều ngầm chuẩn bị đầy đủ rồi chứ?

Ngô Kiệt gật đầu đáp:

- Đại nhân yên tâm! Chắc chắn sẽ để người của Đông xưởng thấy nó được lục lấy ra từ phòng của Phạm Đình.

Dương Lăng gật đầu, siết chặt chiếc áo khoác trên người và nói:

- Tốt! vậy việc ở Đông xưởng sẽ giao cho ông, bây giờ ta sẽ đi về tụ hợp với Thành nhị đáng đầu.

Ngô Kiệt khẽ cười hỏi:

- Lúc đại nhân "trọng thương" hồi kinh, có muốn thông báo để các phu nhân đến nghênh đón không?

Dương Lăng dừng bước, suy nghĩ một chút rồi cười đáp:

- Khỏi đi, không cần phải diễn vở kịch đó, già quá sẽ hoá non.

Bành Kế Tổ và Liên Đắc Lộc sớm đã được Ngô Kiệt căn dặn sau khi diệt trừ xong Đông xưởng, đại nhân còn phải bí mật rời kinh, cho nên vừa thấy Dương Lăng đứng dậy bèn vội đến gần đưa tiễn. Dương Lăng dặn dò:

- Bành huynh! Liên huynh! Đêm nay dẫn quân trú đóng ở Đông xưởng, sự vụ trong kinh sẽ phải phiền đến các người rồi.

Dương Lăng đang bước xuống thang gác, chợt nghe Bành Kế Tổ trên sân thượng tàn bạo hạ mệnh lệnh xuống cho thân quân bên cạnh:

- Đi! Theo lão tử đến Đông xưởng, chú ý đến ánh mắt của ta mà hành sự. Kẻ nào đáng biến mất thì khiến cho hắn biến mất luôn, làm gọn ghẽ một chút!

Dương Lăng dừng bước vịn lan can, ngẩng đầu nhìn vầng trăng tỏ trên trời, thở dài dằng dặc: "Thật chết tiệt! Cuối cùng vẫn phải vung đao giết người. Sống trong chốn quan trường này mà muốn được yên ổn, nói dễ vậy sao?"

Chú thích:

(1) “Binh vô thường hình” chỉ việc dùng binh không phải là việc một khi đã hình thành thì không thể thay đổi, mà phải vận dụng tuỳ theo hoàn cảnh. “Binh vô thường hình, dĩ quỷ trá vi đạo” nghĩa trong chiến tranh tình huống luôn thay đổi, vận dụng sự xảo trá mới là lẽ phải. Trích trong “Tôn Tử - Kế”
Bình Luận (0)
Comment