Nhân Vật Phản Diện Quá Xinh Đẹp

Chương 138

Lúc Tạp Tứ xách Từ Bình Sinh như xách bọc quần áo bước vào cổng, một đệ tử Phong Lăng quen biết nhìn thấy họ thì khẽ cười gật đầu: “Tạp công tử. Từ sư huynh.”

Người đó là một trong số các đệ tử mười ba năm trước cùng trấn giữ cửa Tây Nam với Từ Bình Sinh, vào lúc bấp bênh lại khá coi thường hắn ta, nhưng được ngày tháng không thấy mặt trời mài giũa trong nhiều năm qua, rất nhiều người đã giũa ra được tính nết hiền hòa tỏa sáng, năm xưa có biết bao so bì lục đục, bây giờ lại trông thong dong thờ ơ nhạt chẳng bằng cơn gió.

Từ Bình Sinh không nhớ rõ gương mặt của người này, chỉ chăm chú vật lộn với Tạp Tứ, muốn tụt xuống khỏi người Tạp Tứ.

Tạp Tứ hỏi: “Hành Chi đâu?”

Đệ tử kia hòa nhã đáp: “Sư huynh ở sau núi.”

Bỗng nhiên, trong mắt người đó lóe lên một chút xíu lo lắng, bổ sung: “Đang an táng sư phụ.”

Tạp Tứ hít sâu một hơi như bị đau răng: “Được rồi. Bây giờ ta vào không tiện cho lắm, bao giờ hắn quay lại thì báo với hắn một tiếng, ta chờ hắn ở trong điện của hắn.”

Buổi sáng ở Phong Lăng vẫn hệt như xưa, hít một hơi sương sớm, miệng đầy hương thơm mát. Vì đây là mảnh đất tiên linh trăm năm khó gặp, dù đang giữa ngày đông có tuyết mỏng, vẫn có không ít mầm nhỏ lá non ẩn mình, nước xanh bao quanh như chiếc thắt lưng, lá sen dày như những đồng tiền xanh tô điểm cho mặt nước, điểm thúy giữa không gian trắng tuyết, mang vẻ thanh nhã đặc biệt.

Thanh Tĩnh Quân có riêng một ngôi mộ chôn quần áo di vật riêng ở đây, thi thể đã được đưa vào quan tài băng, đóng kín trong hầm băng.

Bia mộ dựng trước mộ tưởng niệm được quét dọn sạch sẽ cực kỳ, dễ thấy có người tới lau dọn quanh năm suốt tháng.

Vừa nãy Từ Hành Chi đã hành lễ, lấy túi linh được cất trong nhẫn ngọc Độc Sơn của Mạnh Trọng Quang ra, mời mảnh vỡ linh phách li ti như đom đóm chui ra, chôn cùng tà áo trắng phát quan ngọc.

Mảnh vỡ nguyên anh của Tạp La và Thanh Tĩnh Quân đã trộn lẫn vào nhau từ lâu, hơi thở liên kết, khó mà phân biệt, nhưng lại không thể để mặc chúng lang thang đầu đường xó chợ, chẳng còn cách nào khác, đành chôn chung xuống mồ.

Từ Hành Chi đóng mộ phần lại, cầm một vò rượu, đổ cả vò mát lạnh xuống đất, nhỏ giọng gọi: “Sư phụ, ra uống rượu này.”

Đây là rượu nguyên chất Từ Hành Chi mua về từ sáng sớm, rải hết xuống nền đất vương tuyết ngày đông, tỏa ra hương thơm tinh khiết nồng nàn.

“Sư phụ, con và Trọng Quang đã kết làm đạo lữ.” Từ Hành Chi nói: “Đặc biệt đến đây để bẩm báo với sư phụ.”

Mạnh Trọng Quang quỳ xuống, dè dặt dập đầu một cái, ánh mắt vẫn luôn nhìn vào Từ Hành Chi, ngón tay lần lên chạm vào dây thắt lưng của Từ Hành Chi, đầu ngón tay cuốn lại, sẵn sàng ôm Từ Hành Chi sau nỗi đau buồn vào lòng bất cứ lúc nào, nhẹ nhàng vỗ về an ủi.

Nhưng Từ Hành Chi không hề khóc lóc thảm thương, mất hết sức lực ngồi xuống đối mặt với bia mộ: “Trọng Quang, ngươi đi dạo đi. Hai cha con ta trò chuyện một lúc.”

Mạnh Trọng Quang làm nũng: “Nhạc phụ và con rể cũng có thể trò chuyện mà.”

Từ Hành Chi bị hắn chọc cười, bóp mặt hắn kiên trì nói: “Đi đi.”

Mạnh Trọng Quang muốn nhõng nhẽo quấn lấy y nhưng thấy được sự u ám khó che giấu được bên dưới nụ cười mỉm của Từ Hành Chi, hắn nghe lời Từ Hành Chi, nắm chặt tay y một cái rồi quay người đi khỏi đó.

Tới khi Mạnh Trọng Quang đi mất, Từ Hành Chi khoanh chân ngồi thẳng người dậy, cầm vò rượu lên, uống một hơi cạn sạch số rượu còn lại trong vò, rượu trong suốt chảy xuống từ khóe môi, nhỏ vào quần áo.

Y mở vạt áo trước ra, dùng mu bàn tay trái lau rượu dính đầy trên áo đi, vừa lau vừa thì thầm: “Sư phụ, người lười quá rồi đó, mười ba năm qua, nếu người vào giấc mơ của con một lần thôi, có khi con có thể nhớ ra việc năm xưa. Nhưng con chỉ mơ thấy kẻ đâu đâu chứ chẳng mơ thấy người. Có phải người hận con không cho người uống rượu suốt mười ba năm qua không? Sau này con sẽ đền bù cho người, mỗi ngày đều đến đây lượn một vòng, người đừng chê con phiền đấy.”

“Con giao thi thể của Cửu Chi Đăng cho Bắc Nam rồi. Trước kia hắn từng nói, nếu đánh bại được Cửu Chi Đăng, sống thì ăn thịt uống máu, chết thì quật xác phanh thây, mà đến khi thấy xác Cửu Chi Đăng thật, hắn lại chẳng chịu ra tay, bảo là dù sao cũng chết rồi, chôn đi vậy. Con và Khúc Trì từng bàn bạc, định đưa thi thể hắn về tổng đàn ma đạo năm xưa, chôn cất bên cạnh mẫu thân hắn Thạch Bình Phong, cũng coi như được về nhà.”

“Ma đạo vẫn còn không ít tàn dư chưa hết hi vọng lẩn trốn bên ngoài, bọn con phải tăng cường ra tay quét sạch, kẻo bọn chúng cùng đường bí lối chó cùng rứt giậu, giết hại dân thường.”

“Sư phụ, bốn môn phái cũ không còn. Con, Khúc Trì, Bắc Nam và Tiểu Lục đã bàn bạc với nhau… À Tiểu Lục là Lục Ngự Cửu. Bọn họ đã bàn nhau, định thành lập bốn môn phái mới, thông báo với bên ngoài gọi chung là “bốn môn phái mới”, chia ra bốn nhánh lớn Phong Lăng Sơn, Đan Dương Phong, Thanh Lương Cốc, Ứng Thiên Xuyên, vẫn làm theo quy định cũ, trấn giữ bốn phương.”

“Bây giờ công việc của bốn môn phái tạm thời do Khúc Trì quản lý. Sư phụ, người cứ yên tâm, mặc dù ngày trước Hành Chi cứ cười bảo chí hướng không ở đây nhưng vì tương lai của Phong Lăng, Hành Chi sẽ học dần dần, làm từ từ, sẽ có một ngày khiến Phong Lăng rực rỡ, bốn môn phái trở lại như xưa.”

Lần lượt nói hết câu này đến câu khác, trong mắt trong lòng Từ Hành Chi rất bình thản, giọng điệu như nói chuyện phiếm về việc thường ngày trong nhà.

Nỗi đau thương vào mười mấy năm trước đã bị thời gian làm cho dần dần phai nhạt, người đã mất, kẻ sống ở lại cô đơn lẻ loi, dần quên mất phải khóc thế nào.

Kể hết một lượt các sự việc trong núi, chân Từ Hành Chi bị tuyết làm cho lạnh cứng, mặt lại nóng ran như bị sốt.

Vì không còn gì để nói nữa, y ngồi yên đối diện với bia mộ, bàn tay nguyên vẹn nắm lấy bùn đất bên trái.

Một lúc lâu trôi qua, Từ Hành Chi gượng gạo nở một nụ cười: “Sư phụ, con tìm được đạo lữ bầu bạn cả đời rồi…”

Y buông tay ra, nhìn văn bia điêu khắc trên ngọc xanh: “Nhưng của hồi môn và sính lễ của con thì sao. Dù thế nào, trước kia người đã hứa với con rồi cơ mà.”

Người trong mộ không thể đáp lời, Từ Hành Chi chủ động sáp tới, áp mặt lên bia mộ ngọc xanh, thì thầm với người trong mộ: “Sư phụ, con nhớ người lắm.”

Y không khóc, không chỉ vậy, y còn hệt như đứa trẻ ranh mãnh, híp mắt thành trăng lưỡi liềm đen xinh đẹp.

Y dựa vào bia mộ, thân thiết thương lượng với Thanh Tĩnh Quân ngủ yên trong lòng đất: “Sư phụ, người quản lý chuyện dưới đất, con quản lý chuyện của người sống. Cha con ta mãi mãi không xa rời, người thấy có được không?”

Nếu Thanh Tĩnh Quân ở dưới suối vàng biết, nhìn thấy nụ cười tinh thần phấn chấn của y, chắc hẳn lúc này cũng khẽ mỉm cười hiểu ý.

Dựa vào bia mộ nghỉ tạm một lát, Từ Hành Chi đứng dậy, phủi bùn đất trên đùi xuống: “Bây giờ con phải đi quản lý chuyện của người sống đây. Sư phụ, đừng bị ông già kia bắt nạt nhé, cứ đánh hắn đi.”

Dứt lời, y giẫm cái chân tê rần, xoay người lại gọi: “Mạnh Trọng Quang, Trọng Quang!”

Xung quanh không có ai đáp lại, Từ Hành Chi khó hiểu lầm bầm, xòe quạt trúc ra đặt trước ngực, tăng cao âm lượng lên: “Trọng Quang ơi?”

Khi y quay lưng về phía phần mộ rồi đi khỏi đó, một bóng mờ chậm rãi hiện lên trước mộ Thanh Tĩnh Quân.

Mạnh Trọng Quang vén vạt áo trước, quỳ trước Thanh Tĩnh Quân, con ngươi đen nhánh như mực giống như quân cờ đen ngâm trong nước sạch, lóe lên ánh sáng nhạt xao động.

“Sư phụ, sư huynh là của ta.” Mạnh Trọng Quang nhỏ giọng, nói từng từ từng chữ một cách thành kính: “Ta một lòng yêu huynh ấy. Huynh ấy là mắt, tính mạng và tất cả của ta. Cảm ơn ngài đã chăm sóc sư huynh trước khi ta đến, sau này… Xin ngài yên tâm giao sư huynh cho ta.”

Từ Hành Chi đi hơn năm mươi thước mà vẫn chưa thấy bóng dáng Mạnh Trọng Quang đâu, vô thức thấy buồn cười: Chạy đi đâu rồi?

Vừa nảy ra suy nghĩ đó, y cảm thấy sau lưng bỗng nặng trĩu, cứ như có một tiểu linh tiên rơi từ trên trời xuống, đúng lúc rơi lên lưng y, từ nay về sau y phải cõng gánh nặng nặng nề mà ngọt ngào này, leo núi cũng cõng hắn đi, vượt biển cũng phải cõng hắn theo.

Bên tai vang lên âm gió trêu chọc lòng người của thanh niên: “Sư huynh, ta ở đây này.”

Dứt lời, hắn xòe tay ra trước mắt Từ Hành Chi, vân tay ở lòng bàn tay đan cài nở ra một đóa hoa nhỏ đỏ tươi.

Hắn ngắt đóa hoa trong lòng bàn tay xuống, gài vào cổ áo Từ Hành Chi.

Từ Hành Chi cười: “Có dụ sâu bọ đến không thế?”

Mạnh Trọng Quang áp sát mặt vào gáy Từ Hành Chi, thân mật như cọ ngứa: “Có ta ở đây sẽ không dụ sâu tới đâu.”

Từ Hành Chi cười đỡ đùi hắn, xốc lên trên: “Vậy thì ngươi ôm cho chắc, cũng đừng chạy mất.”

Mạnh Trọng Quang không lên tiếng, chỉ ôm y chặt hơn.

Ánh nắng sưởi ấm, Từ Hành Chi chỉ cảm thấy trên vai là một con mèo vàng, nó nằm nhoài trên vai y, khò khè phát ra tiếng rì rầm thỏa mãn khe khẽ.

Từ Hành Chi cười mỉm, cõng lão yêu tinh biết nở hoa này đi về phía trước núi.

Hai người đi tới khu vực giữa núi, lúc đi ngang qua địa lao, nhìn thấy một người ôm đàn tỳ bà che nửa mặt nằm dưới ánh mặt trời từ xa, chiếu cói quấn chặt thân và đầu của gã nhưng lại chẳng thể lo cho cái chân của gã được, vì thế Từ Hành Chi chẳng tốt chút công sức nào cũng thấy được ngón chân xương trắng như đá nhám của gã.

Từ Hành Chi gọi một đệ tử đang xử lý thi thể: “Đó là ai?”

Đệ tử hành lễ với y: “Thưa sư huynh, chắc hắn là người của ma đạo, bị giam cầm ở đây lâu rồi. Áo tù vẫn còn đánh dấu, hình như tên là Lục Vân Hạc.”

Từ Hành Chi nhíu mày lại.

Y nhớ cái tên này nhưng hình ảnh cụ thể đại diện cho cái tên này thì mơ hồ từ lâu rồi.

Thấy Từ Hành Chi bước về phía thi thể đó hai bước, đệ tử tốt bụng cản y lại: “Sư huynh, đừng nhìn. Mặt hắn tàn tạ khó coi lắm, chỉ còn bộ xương khô sống ấy thôi.”

Mạnh Trọng Quang phát ra tiếng từ sau lưng Từ Hành Chi: “Sống?”

Đệ tử kia thấy Mạnh Trọng Quang và Từ Hành Chi dính sát vào nhau thân mật không một kẽ hở, không kiêng dè gì trước mặt người khác, người này thản nhiên hơn người kia, đệ tử há miệng, chỉ thấy chân răng đau âm ỉ: “Vốn dĩ còn sống. Nhưng Chu sư huynh thấy ngứa mắt nên cho hắn ra đi dứt khoát rồi.”

Nếu chết rồi thì Từ Hành Chi không còn quá nhiều hứng thú với người quen cũ ấy nữa, đương nhiên sẽ không cố đi chiêm ngưỡng gương mặt nát bét của gã.

Sau khi tránh khỏi đó, Từ Hành Chi đi hơn trăm bước nữa, một đệ tử xông thẳng tới, nói cho y biết Tạp Tứ đến, đang chờ y ở điện ngày xưa của y.

Từ Hành Chi vui vẻ đi tới đó.

Vòng qua nước chảy, tùng xanh, hành lang khúc khuỷu, về tới gian điện mà y và Mạnh Trọng Quang ở cùng nhau vào năm đó, Từ Hành Chi bất ngờ thấy nơi này sạch sẽ chẳng có hạt bụi nào, cảnh sắc khi xưa không thay đổi, trong lòng y ấm áp thêm đôi phần.

Nhưng Mạnh Trọng Quang nhìn quanh một vòng xong lại không vui chau mày.

Hắn nghĩ đến kẻ đầu têu âm hồn bất tán, khinh thường bĩu môi.

Khi hai người đi vào trong điện, chạm mặt Tạp Tứ, Tạp Tứ nói thẳng vào chuyện chính: “Chuyến này ta tới đây là để đưa một người đến cho ngươi.”

Lúc này, người mà hắn ta đưa tới đang vùi mình trong điện Diệu Pháp ngày xưa của Quảng Phủ Quân.

Từ Bình Sinh thò cái đầu tò mò ra khỏi lan can ngọc trắng, nhìn ngó cá bơi khắp hồ, màu sắc sặc sỡ, to mập chen chúc nhau, trong mắt là vẻ thèm ăn không kiềm chế được.

Từ khi biến thành tỉnh thi, Từ Bình Sinh có thêm rất nhiều mong ước mà lúc trước không có.

Nếu không có Tạp Tứ ở bên cạnh áp chế, thậm chí tự mình mớm máu, lúc nào hắn ta cũng có khát vọng ăn thịt sống, uống máu tươi.

Ví dụ như bây giờ, hắn ta cảm thấy đàn cá trước mặt vô cùng ngon miệng, nóng lòng muốn thử định bắt một hai con lên cho thỏa mãn cái bụng.

Khi hắn ta cởi áo ngoài ra, kéo ống quần lên chuẩn bị xuống nước, một cái bóng áo choàng đen kịt bưng một bát thức ăn cho cá, đúng lúc nhìn thấy cơ thể trần trụi của hắn ta, hơi bất ngờ rồi “á” một tiếng không kèm theo ác ý.

Từ Bình Sinh nghe giọng nữ quen thuộc ấy thì ham muốn ăn uống bị đuổi bay sạch, ôm hết đống quần áo chạy lạch bạch ra sau cây tùng già cao ngất trời, dùng thân cây che chắn cơ thể, luống cuống xấu hổ mặc áo vào.

Nguyên Như Trú không muốn khiến hắn ta xấu hổ nên đứng yên tại chỗ không nhúc nhích, mãi đến tận khi gần nửa gương mặt hoang mang thò ra khỏi cái cây, nàng mới dịu giọng an ủi: “Từ sư đệ đừng sợ.”

Từ Bình Sinh đỏ mặt, chỉ thò cái đỉnh đầu ra khỏi gốc cây, khúm núm: “Nguyên, Nguyên sư tỷ. Khó coi lắm, tỷ đừng nhìn.”

Vừa nãy Nguyên Như Trú thấy đống vết khâu vá khắp người hắn ta, chằng chịt khắp nơi, cứ như cả người bị chặt ra rồi ghép lại, trong lòng đã thấy hơi buồn thương, bây giờ thấy hắn ta thẹn thùng lại càng dịu giọng hơn, chỉ lo khiến con mèo hoang nhỏ này sợ: “Ta chữa trị cho đệ nhé.”

Từ Bình Sinh e sợ túm chặt áo mình: “Đừng, đừng mà.”

Nguyên Như Trú thử thăm dò bước về phía cái cây hai bước: “Ít nhất là chỗ cổ, ta có thể giúp đệ. Mùa đông đệ có thể đeo khăn quàng để che, thế tới mùa hè thì phải làm sao? Cứ bịt mãi sẽ bị mẩn đấy.”

Qua một lúc lâu, Từ Bình Sinh mới cụp gai nhọn dựng đứng khắp người xuống, rón rén chạy ra khỏi cái cây, ngồi ngay ngắn trong cái đình gần hồ, đợi Nguyên Như Trú chữa trị cho.

Nguyên Như Trú vươn một bàn tay xương ra sau gáy Từ Bình Sinh, ấn da dẻ mềm mại ở đó, thấy bên trong vẫn còn xúc cảm của sợi chỉ thô rất rõ.

Từ Bình Sinh nhún vai lên như bị ngứa, đôi mắt ướt át đảo tới đảo lui, căng thẳng đến mức lông mi run rẩy, trên khuôn mặt khá thanh tú hiện lên bóng dáng của sự bất an: “Nguyên sư tỷ…”

“Đừng sợ.” Nguyên Như Trú dỗ hắn ta: “Nhanh lắm.”

Nàng rất thương thanh niên giống một người đệ đệ này.

Bọn họ từng là sư tỷ đệ, không đến mức thân thiết không kẽ hở nhưng cũng cũng có tình nghĩa bạn bè cùng một môn phái, bây giờ kỳ diệu thay lại cùng trở thành dáng vẻ không phải người chẳng phải quỷ, có chút đồng bệnh tương liên.

Lúc linh lực của Nguyên Như Trú chậm rãi chảy vào trong cổ mình, Từ Bình Sinh nhắm mắt nói nhỏ: “Nguyên sư tỷ, ta… Muốn, muốn hỏi tỷ một chuyện.”

Nguyên Như Trú chăm chú nhìn vào vết thương của hắn ta: “Đệ cứ nói đi.”

Từ Bình Sinh vặn ngón tay, phát ra tiếng răng rắc giòn giã: “Ta muốn nói với một người về chuyện rất quan trọng nhưng ta không biết nên nói thế nào.”

Nguyên Như Trú ngẩn người, bỗng bật cười thật khẽ.

Tiếng cười của nàng dịu dàng ấm áp như gió xuân, Từ Bình Sinh nhắm mắt lại là có thể tưởng tượng ra gương mặt tuyệt đẹp, khi mở mắt ra nhìn thấy xương trắng cũng cũng cảm thấy cực kỳ đẹp, hắn ta vô thức cười theo nàng.

Nguyên Như Trú dùng ngón tay xương nâng cằm hắn ta lên, kiểm tra vết thương trên cổ đã được loại trừ sạch chưa, đồng thời đưa ra câu trả lời: “Nếu không biết nói thế nào thì viết ra.”

Từ Bình Sinh nghiêng đầu, vươn tay kéo nghịch vết thương trên cổ theo thói quen, nhưng lại phát hiện ra nó đã trơn bóng, chưa thích ứng được nhưng vẫn đành bỏ tay xuống, nhỏ giọng lẩm bẩm: “Viết ra…”

Tầm gần nửa canh giờ sau.

Từ Hành Chi cầm quạt trên tay, rảo bước đi trên hành lang.

Tạp Tứ đuổi theo sau Từ Hành Chi, xông thẳng lên trước người y, lùi lại để theo kịp bước chân y, lải nhải dặn dò: “Hắn phải uống máu. Ta nói cho ngươi biết, ta cố ý hạn chế hắn, cứ cách ba ngày cho hắn uống một lần, ngươi không thể chiều theo ý hắn được, hắn được đà lấn tới đấy, ta nói với ngươi…”

Từ Hành Chi cầm quạt đẩy mặt hắn ta ra, cất giọng hỏi một đệ tử ở phía xa: “Ngươi có thấy Từ Bình Sinh đâu không?”

Đệ tử đó lắc đầu.

Thấy Tạp Tứ vẫn muốn quấn lấy mình lải nhải, Từ Hành Chi kịp thời cắt ngang hắn ta: “Tìm được huynh ấy đã rồi nói mấy cái đấy! Chẳng may huynh trưởng chạy ra khỏi núi thì phải làm sao?”

Tạp Tứ bật thốt: “Hắn không còn chỗ nào để đi, dù chạy ra ngoài thì cuối cùng vẫn sẽ về núi Thư Mạt thôi.”

Lời vừa ra khỏi miệng, hắn ta cảm thấy câu này không ổn cho lắm, nhưng hắn ta nhanh chóng tự loại bỏ sự mất tự nhiên ấy đi, mặt dày cằn nhằn tiếp: “Buổi tối hắn bị lạ giường, nhất định phải dùng chăn bông rách mới ngủ được, túm cũng không túm xuống được. Tới khi sắp xếp ổn thỏa cho hắn thì ngươi phải đổi đệm chăn khác cho hắn, chắc chắn hắn sẽ nghe lời ngươi, ta thì chẳng làm gì hắn được.”

Từ Hành Chi: “...”

Tạp Tứ không buông tha: “Ngươi nhớ chưa? Lặp lại cho ta nghe coi.”

Từ Hành Chi ghét bỏ hắn ta: “Được rồi được rồi, nhìn ngươi là thấy phiền. Ta sẽ chăm sóc huynh trưởng thật tốt, nhưng trước hết phải tìm được huynh trưởng đã rồi mới nói tới mấy cái này!”

Sau khi đi được thêm mấy bước, Từ Hành Chi đẩy vai Tạp Tứ: “Này, chúng ta chia nhau ra tìm đi. Ta đoán có khả năng huynh trưởng đến điện Diệu Pháp tìm Như Trú rồi, ngươi không cần đi theo, đi một vòng xung quanh, có khi… Huynh trưởng chỉ không nhớ đường về thôi.”

Sau khi dặn dò xong, Từ Hành Chi đạp gió, nhanh nhẹn đi mất, bỏ lại một mình Tạp Tứ.

Tạp Tứ gãi tai, trong lòng tràn ngập buồn bực không nói rõ được.

Không phải hắn ta không biết cái nết dông dài của mình khiến người ta phiền, nhưng mà Từ Bình Sinh được hắn ta nuôi nhiều năm thế rồi, dù là con chó con mèo cũng phải có chút tình nghĩa, bây giờ phải giao vào tay người khác, lòng hắn ta thật sự thấy khó chịu, chỉ muốn dốc túi dạy dỗ người ta tất cả bí quyết chăn nuôi Từ Bình Sinh.

Đi loanh quanh trong rừng mấy lần, Tạp Tứ cảm thấy mình sắp lạc đường đến nơi thì khi rẽ qua một lối ngoặt trong rừng trúc lại nhìn thấy Từ Bình Sinh.

Đầu tiên hắn ta thấy vui, sải bước chạy lên trước, nhấc chân đạp một phát: “Ngươi chết dí ở đâu đấy hả? Có biết bọn ta… Hành Chi tìm người sắp nổi cáu rồi không? Hắn còn tưởng ngươi bị tên khốn ma đạo nào bắt mất rồi.”

Hiển nhiên là hắn ta không ý thức được rằng hắn ta mắng luôn cả bản thân rồi, Từ Bình Sinh nghe ra nhưng không sửa lại cho hắn ta.

Tên khốn, cũng không sai.

Tới khi Tạp Tứ bình tĩnh lại, huyệt thái dương nảy lên thình thịch…

Trước mặt Từ Bình Sinh có một cây trúc sào bị bổ thành bảy tám khúc, nhìn qua vết gãy là biết nó bị con dã thú trước mặt dùng tay và miệng xé ra.

Tạp Tứ vươn tay che mặt: “Ôi mẹ ơi. Ngươi có biết ngươi phá đồ của người ta là phải đền không hả!”

Bao năm qua đã không ít lần hắn ta phải trả tiền thanh toán vì Từ Bình Sinh chân tay lóng ngóng rồi, bây giờ hắn phá đồ ở Phong Lăng Sơn, Tạp Tứ không ngăn lại kịp nên theo thói quen dạy bảo hắn.

Nhưng mà hiếm có là lần này Từ Bình Sinh lại không phàn nàn hắn ta.

Từ Bình Sinh vứt thanh trúc nhỏ sắc bén trong lòng bàn tay phải xuống, nhặt thanh trúc to bị tước thành bốn mảnh trên đất lên, giơ lên cao, suýt thì khiến lá trúc xanh biếc chọc vào mắt Tạp Tứ.

Tạp Tứ né tránh, rì rầm: “Cái giống gì thế?”

Một lát sau, tới khi Tạp Tứ ta nhìn rõ thứ Từ Bình Sinh cầm trong tay, hắn ta bỗng ngây người.

Mảnh trúc đầu tiên khắc: “Ta biết kiếm thuật.”

Mảnh thứ hai nói: “Không sợ đau, không sợ chết.”

Mảnh thứ ba nói: “Ta có thể ăn ít lại. Bốn năm ngày ăn một lần cũng được.”

Tạp Tứ nhận mảnh trúc thứ tư, nâng trong lòng bàn tay, nhìn mấy hàng chữ ngắn ngủi xiêu vẹo ấy một lúc lâu, khóe miệng nhếch lên mỉm cười từ bao giờ cũng không biết.

Mảnh trúc thứ tư được khắc một cách dè dặt cẩn thận: “Xin người đừng bỏ ta lại, dẫn ta đi cùng.”
Bình Luận (0)
Comment