Viên Thương và người bạn thân Lâm Mạch Thâm ngày trước sao lại không cùng chết ở sông Hán chứ? Vọng Ngưng Thanh vô cùng bình tĩnh mà nghĩ.
Nếu Lâm Mạch Thâm chết, nàng sẽ không vì đền bù nhân quả mà đi giúp đỡ Viên Thương; không giúp đỡ Viên Thương, khí vận chi tử rất có thể sẽ chết trong kế hoạch của An Đô Vương; nếu khí vận chi tử chết, trên đời này sẽ không có ai có thể uy h**p đến sự tồn tại của nàng; nàng có thể tìm người khác đến khai sáng thái bình thịnh thế, cũng không đến mức rơi vào kết cục chật vật như thế này.
Hiện tại, nhà nàng sắp sập, ván cờ bị lật úp, Viên Thương, cái đồ vô lương tâm phá tiền này, nuốt bạc của nàng, hiện tại lại còn muốn hất đổ sạp hàng của nàng.
“Tôn thượng! Tôn thượng ngài bình tĩnh một chút đi ạ! Hít sâu, hít sâu! Vẫn chưa đến mức không thể xoay chuyển trời đất phải không?” Mèo nhỏ gấp đến độ liều mạng dùng móng vuốt cào vào cẳng chân Vọng Ngưng Thanh.
Đúng vậy, quả thực vẫn chưa đến mức sông cạn, núi mòn. Chỉ cần Dương Tri Liêm, Thôi Cửu và Hoài Thích bọn họ có thể giữ kín như bưng, vậy vẫn còn đường sống để cứu vãn…
“Thì ra chính là thí chủ sao?”
Hoài Thích thân mặc áo cà sa trắng như tuyết, thần sắc từ bi đứng trước công đường. Hắn hướng về mọi người làm lễ Phật, trên mặt thậm chí không có ý cười, nhưng luồng khí xa rời thế tục, trong trẻo đó khiến mọi người mắt sáng bừng, chỉ cảm thấy ánh sáng của trần thế đều đổ dồn lên tấm áo trắng không vướng bụi trần đó, chiếu rọi khiến thanh niên giống như một vị Phật tử trên đài sen, đường hoàng quang minh.
Viên Thương vừa nhìn thấy Hoài Thích, liền khó lòng tự chủ mà đứng dậy. Chàng bước nhanh đến trước mặt Hoài Thích, thậm chí như một đứa trẻ tràn đầy kích động, hưng phấn mà nói: “Tiên sinh, ta —”
“Thì ra chính là thí chủ ngài sao?”
Hai chữ “Tiên sinh” của Viên Thương vừa thốt ra, vị Phật tử thương trời xót dân liền cắt ngang lời chàng. Chỉ thấy Hoài Thích chắp tay trước ngực, rũ mắt nói: “A di đà Phật, thì ra là vậy.”
Hoài Thích từ trong tay áo lấy ra một khối vuông được bọc trong khăn trắng, chậm rãi vén vải lên. Mọi người lúc này mới thấy, đó lại là một khối con dấu được chạm khắc hoàn mỹ.
Trên con dấu có khắc tuyết tùng cứng cỏi và phong lan đẹp đẽ, thanh tao. Người khắc dấu có tài năng hội họa tuyệt vời, nhát dao dứt khoát, chỉ vài nét ít ỏi đã khắc tuyết tùng và phong lan có hồn có thần, sống động như thật.
Con dấu tuy không có tên, nhưng lấy hình họa thấy lòng, chứng giám sự trong sáng.
Lan tỏa phẩm quân tử, tùng bách tượng người xưa.
Viên Thương gần như nhìn một cái liền nhận ra, đây là dấu khắc cá nhân của Tiên sinh. Chàng nhìn tuyết tùng và phong lan, nhất thời lệ nóng lưng tròng: “Tiên sinh…”
"Bần tăng đến đây, trả lại vật về cho chủ." Giọng Hoài Thích rất điềm đạm, như mặt nước hồ lặng không chút gợn sóng, tĩnh mịch như núi vắng nghìn trùng.
"Viên thí chủ nay đã là đệ tử của người kia, thì cái con dấu này nên trả lại cho thí chủ. Đến đây, mong thí chủ hãy dốc lòng lo việc nước, đừng quên ý nguyện ban đầu, như người ấy đã kỳ vọng: vì trời đất mà lập lòng, vì dân chúng mà định mệnh, vì thánh hiền mà nối tinh hoa, vì muôn đời mà mở thái bình."
Cái con dấu nhỏ nhắn, tinh xảo, vậy mà nặng trĩu đặt vào lòng bàn tay Viên Thương.
"… Tiên sinh, đây là ý gì?" Viên Thương nâng con dấu, mắt ngỡ ngàng đứng tại chỗ.
“Người xuất gia không nói dối, bần tăng không phải người ngài muốn tìm.” Hoài Thích chắp tay trước ngực, niệm một tiếng Phật.
Sau khi giao con dấu cho Viên Thương, Hoài Thích liền như trút bỏ được điều gì đó, cả người đều trở nên khác biệt. Nếu nói lúc trước hắn giống như tượng Phật mạ vàng, đầy vẻ rực rỡ quang minh, thì lúc này Hoài Thích lại giống như một tảng ngọc thô, chất phác mà lại cổ sơ, nội liễm mà lại trang trọng: “Bần tăng hổ thẹn, tuy dốc lòng nghiên cứu Phật pháp nhiều năm, nhưng vẫn luôn do dự không chừng giữa Phật và ma, trong lòng hướng Phật, nhưng rễ ma (nghiệp chướng) lại đâm sâu, không buông xuống được, cũng không thông suốt.”
“Bần tăng vì muốn thể ngộ trần tâm mà vào đời, vì muốn cắt đứt tục duyên mà đến đây. Nhưng hư danh mê hoặc nhân tâm, tâm Phật quá cao, sai lầm khi coi hoa trong gương, trăng dưới nước là nỗi chấp niệm trần gian. Chính “Tiên sinh” của Viên thí chủ đã đánh thức bần tăng. Nàng dùng cả đời mình hỏi trời xanh, chất vấn thần Phật khắp nơi, so với nàng, bần tăng tự biết xấu hổ, hổ thẹn không bằng.”
“Chính nàng đã làm bần tăng hiểu ra, phù hoa hư danh tất cả đều là bụi đất.”
“Nàng sinh ra giữa hồng trần mềm mại, lấy bá tánh làm xương sống, cắm rễ vào triều đại mục nát đã suy tàn, nhưng lại nở ra đóa hoa của giang sơn thịnh thế.”
“Bần tăng tưởng độ chúng sinh, không ngờ lại bị chúng sinh độ.”
Những điều hắn đã chấp niệm cho đến nay, so với Trưởng công chúa Dung Hoa, quả thực là những chuyện nhỏ không đáng nhắc tới. Hiện giờ, phán quyết đối với Trưởng công chúa Dung Hoa đã được hạ, vô số bá tánh vì thế vỗ tay tán thưởng, tranh nhau truyền tin, nhưng điều hắn nghĩ lại là người đó đêm dài bên bàn, đêm đêm cô độc và tịch mịch.
Con tằm đến thác tơ còn vướng, chiếc nến chưa tàn lệ vẫn sa. (Ý nói sự cống hiến đến hơi thở cuối cùng).
Công chúa, công chúa, nước mắt của người có phải chăng đã sớm cạn khô?
Bởi vì không thể lại rơi lệ vì thương sinh thiên hạ, cho nên người cũng chỉ có thể đổ máu.
Hoài Thích không biết, hắn thực sự không biết, trong lòng Dung Hoa công chúa có một bức tường thật dày, không có cửa, cũng không có cửa sổ.
Nhưng điều duy nhất Hoài Thích biết, là hắn đã vật lộn trong vũng lầy, giãy giụa muốn lên bờ, lại bỗng nhiên thấy một đóa hoa sen, nở rộ rực rỡ như vậy.
Từ đây, hắn nguyện buông bỏ chấp niệm, tiêu tan quá khứ, quy y Phật môn, vì nàng trống chiều chuông sớm, giữ một đời tình si.