Đánh vài thương nhân người Hồ chỉ là chuyện nhỏ, nhưng nếu vì giành giật một kỹ nữ thanh lâu mà đánh nhầm Vương tử Thổ Phồn đến để hòa đàm thì lúc đó sẽ trở thành đại sự chấn động toàn triều, chỉ sợ Lục Cửu lang sẽ lập tức bị trục xuất khỏi Trường An, bị đày đến biên cương xa xôi nào đó ăn đá ăn sỏi.
Quả là một kế hoạch tinh vi, chẳng qua người trù mưu đã bỏ sót một điều, đó là Lục Cửu lang không chỉ đã gặp Vương tử Đạt Già mà còn từng giao đấu với gã.
Dĩ nhiên Đạt Già không nhận ra người đàn ông mà gã chế giễu nhút nhát lại chính là người lính Hà Tây đã từng vung đao xông vào vạn quân năm xưa, lại càng chẳng ngờ vừa mới đến Trường An đã bị người khác lợi dụng. Gã vừa khinh thường sự yếu đuối của người Trung Nguyên vừa thản nhiên hưởng thụ sự phục vụ của mỹ nhân, chỉ có Tống Lang trung cúi đầu ủ rũ, không biết phải báo cáo thế nào.
Lục Cửu lang đã biết ai là kẻ ngấm ngầm sắp đặt, từ biệt đồng bọn rồi lập tức vào cung.
***
Trường An đang độ nắng chói chang, ngói lưu ly trên chín tầng cung điện phản chiếu muôn vàn tia sáng loá mắt, hệt như vẻ uy nghiêm của Thiên tử khiến không ai dám ngước nhìn.
Băng được đặt ở bốn góc Ngự thư phòng trong điện Cam Lộ, khiến không khí mát mẻ dễ chịu, mấy vị trọng thần đang thấp giọng bàn luận thì chợt có tiểu thái giám đi đến thông báo, mọi người lập tức im bặt, một bóng người màu vàng kim tiến vào.
Thiên tử bước đi đĩnh đạc, nét mặt nghiêm nghị, chẳng thể đoán được ngài đang vui hay giận.
Là một vị quân vương, quá trình ngài lên ngôi cũng thực ly kỳ. Hồi bé ngài trầm tính ít nói, vô cùng mờ nhạt trong số các hoàng tử, ai cũng ngỡ ngài là kẻ ngốc, hơn ba mươi năm sống trong cảnh bị coi thường, đến một ngày khi thời thế thay đổi, ngài bị kẻ tâm cơ đưa lên ngôi làm một con rối nhưng bất ngờ thể hiện bản lĩnh vượt trội, như tia sét quét sạch mọi tranh luận, từ đấy ngồi vững trên ngai vàng.
Nhiều năm ẩn nhẫn đã giúp ngài trở nên thâm trầm kín đáo, cũng khiến ngài đa nghi và thay đổi thất thường, ngay cả những cận thần cũng khó lòng biết được ngài đang nghĩ gì. Năm nay ngài đã quá tuổi ngũ tuần, tinh thần và thể lực kém hơn xưa nhưng vẫn do dự trong việc lập Trữ, thay vào đó ngài càng tin vào thuật luyện đan.
Nội Xu mật sứ Mã An Nam ân cần hỏi han, “Thần thấy sắc diện của Bệ hạ hồng hào, bước đi nhẹ nhàng, có vẻ long thể đã an khang?”
Chẳng mấy khi Thiên tử tỏ ra dễ chịu, “Đúng thế, đạo sĩ kia quả có tài, hiệu quả của đan dược rất tốt, Trẫm uống vào thấy tinh thần khỏe khoắn, chân cũng không còn đau nhức.”
Mã An Nam vốn xuất thân từ hoạn quan nên rất giỏi lấy lòng hoàng đế, cười nói, “Đó đâu phải do đạo sĩ, ấy là nhờ hồng phúc của Bệ hạ.”
Thiên tử thuận miệng hỏi, “Vì con nuôi của khanh đã tiến cử nên Trẫm sẽ ban thưởng, Tả quân còn vị trí trống không?”
Đinh Lương phụ trách Tả quân điềm tĩnh đáp, “Tâu Bệ hạ, gần đây Tả quân không còn vị trí trống, nhưng nghe nói Hữu quân đang cần bổ sung một tướng quân.”
Chỉ huy Hữu quân là Quý Xương không hài lòng, vị trí trống đó vốn đã ngầm định trước cho người khác, ông ta không vui đáp lại, “Không có chỗ trống thì sao, lẽ nào có thể làm khó Đinh đại nhân? Đợi một lượt rồi bổ sung cũng được, chung quy cũng là phục vụ cho triều đình.”
Đinh Lương mỉm cười nhưng lời lẽ sắc sảo, “Nếu đã có công với Bệ hạ thì đâu thể đợi bổ sung được, ban thưởng vậy không hay, Mã đại nhân thấy có đúng không?”
Mã An Nam khéo léo ứng xử, không làm mích lòng hai bên, “Ân sủng của Bệ hạ như phúc lành giáng trần, chỉ có thể cảm tạ không ngớt.”
Ba người đều là quyền thần, gặp nhau cười nói khách sáo nhưng không ngừng ngấm ngầm đấu đá, các hạ thần khác giả vờ không nghe thấy, cuối cùng Thiên tử quyết định ban cho một chức Trung lang tướng hư danh ở Tả quân.
Tể tướng Thẩm Đồng bước lên trước, “Tâu bệ hạ, đoàn sứ giả Tây Vực đã đến Trường An, đang chờ triều đình triệu kiến.”
Người Phồn chiếm giữ vùng cao nguyên phía Tây Nam, thường xuyên gây hấn với Trung Nguyên. Mãi tới khi Hà Tây quy về quốc thổ, triều đình được tiếp tinh thần, trong những năm qua đã dần dần thu phục ba châu bảy quan ải, quân Phồn cũng từ từ suy yếu; đồng thời ở Trung Nguyên nội loạn liên miên khiến quốc khố trống rỗng, triều đình không muốn kéo dài chiến tranh với Thổ Phồn nên đã định ra dịp hoà đàm.
Thiên tử đáp, “Ba ngày sau sẽ triệu kiến, giao cho Tuyên huy sứ(*) Nam Viện phối hợp cùng bộ Binh thảo luận đàm phán với người Phồn.”
(*) Tuyên Huy sứ chịu trách nhiệm quản lý các nghi lễ đón tiếp sứ thần, phụ trách tế lễ, yến tiệc trong cung đình và đôi khi còn phụ trách quản lý kho báu, tài sản của hoàng gia.Thẩm Đồng tiếp tục tâu, “Chức tiết độ sứ Hà Tây đến nay vẫn chưa được sắc phong, Hàn Chiêu Văn lại lần nữa dâng sớ xin được định cư ở Trường An, tiếp tục kế thừa chí nguyện của Hàn Kim Ngô.”
Thiên tử không tỏ ý mà chuyển sang hỏi các đại thần.
Đinh Lương không chút do dự, “Từ sau khi Hàn Nhung Thu qua đời thì Hà Tây rối loạn liên miên, cho thấy sức mạnh của Hàn gia đã suy yếu, không nên tiếp tục cai quản mười một châu.”
Quý Xương không thể không phản đối, “Tình hình dân sinh ở Hà Tây rất phức tạp, không thể nói đổi là đổi được, một khi náo loạn chắc chắn Thổ Phồn sẽ thừa cơ xâm lăng.”
Đinh Lương lập tức phản bác, “Hiện nay đang hoà đàm, người Phồn sẽ không dễ dàng động binh, chính là cơ hội tốt để triều đình đưa một viên chức có năng lực đến Hà Tây thay thế, Bùi thị ở Cam Châu cũng là một thế lực lớn, sức mạnh tuyệt đối không thua kém Hàn gia.”
Quý Xương cười mỉa, “Chỉ sợ người Phồn lòng lang dạ sói, chưa chắc đã hiểu được sự tin tưởng của Đinh đại nhân, nếu thấy hai nhà Hàn Bùi tranh chấp, khéo có khi sẽ khởi binh làm loạn.”
Đinh Lương không chịu nhượng bộ, hừ một tiếng, “Cứ liên tục ban ơn cho Hàn gia cũng chẳng phải là giải pháp, chính vì bọn họ kém cỏi mới tỏ ra khiêm nhường, nếu triều đình kỳ vọng quá cao làm họ kiêu ngạo, có khả năng sẽ trở thành đại họa, vẫn nên nâng đỡ Bùi gia để cân bằng.”
Hai người tranh luận qua lại không ngớt, Thiên tử chỉ lắng nghe, không biểu lộ cảm xúc.
Mã An Nam thử phỏng đoán thánh ý, vừa giữ trung lập vừa cân nhắc, “Hà Tây cách xa vạn dặm, triều đình khó cai quản, trước mắt cần phải thử thách lòng trung thành của Hàn gia, không nên dễ dàng đáp ứng yêu cầu của họ; còn về phía người Phồn, từ lâu bọn chúng đã gian manh hung ác, không thể không đề phòng.”
Tể tướng Thẩm Đồng cũng không đồng tình với việc dễ dàng bỏ cũ thay mới, “Đáng tiếc Hàn Kim Ngô không có con trai trưởng thành tại Trường An, bằng không đưa người trở về nối nghiệp thì tốt quá.”
Đây cũng là kế sách quen thuộc của triều đình, để con tin được nuôi dưỡng tại Trường An về quê tranh quyền, chắc chắn sẽ bị anh em trong tộc đố kỵ, đến lúc đó con tin sẽ phải dựa vào sự ủng hộ của Trung Nguyên, càng tranh chấp càng đồng tâm với triều đình.
Các đại thần tranh luận một hồi lâu, Thiên tử vẫn chưa mở lời. Đợi khi bá quan lui ra, ngài cũng cảm thấy mệt mỏi, đứng dậy đi về phía Ngự Hoa Viên.
Ngũ hoàng tử Lý Duệ đến vấn an, đáng nhẽ theo lệ hoàng tử sau khi trưởng thành phải xuất cung xây phủ riêng, chỉ mình y được Thiên tử sủng ái, cho phép ở lại trong cung.
Thiên tử tình cờ hỏi, “Dạo này sức khoẻ của Phù nhi thế nào rồi?”
Lý Duệ trả lời, “Hôm qua nhi thần vừa đến Thập Lục Vương Trạch thăm, hoàng huynh đã khỏi bệnh, tinh thần rất tốt, xin phụ hoàng yên tâm.”
Thiên tử hài lòng gật đầu, “Là em trai, hoàng nhi làm thế rất tốt, Phù nhi có thể chất yếu, hãy để nội khố đưa thêm thuốc bổ sang, bảo nó nghỉ ngơi dưỡng sức, đừng bận tâm những việc nhỏ nhặt.”
Đại Hoàng tử Lý Phù thường xuyên ốm yếu, thực ra cũng không phải là điều xấu. Vốn dĩ y không được lòng phụ hoàng, nhưng vì các đại thần khuyên nhủ nên Thiên tử vẫn giao cho một số chính sự, song thái độ rất nghiêm khắc, thường xuyên trách mắng. Chỉ khi bệnh tật y mới được giảm nhẹ trách nhiệm, và cũng vì Thiên tử niệm tình cốt nhục mà mối quan hệ cha con mới có thể duy trì.
Thiên tử rất mực yêu thương Lý Duệ, “Hoàng nhi cũng biết về việc ở biên cương, vậy có hiểu mục đích của cuộc hòa đàm lần này không?”
Lý Duệ rất cần mẫn chính sự, trả lời trôi chảy, “Dù đã thu phục được Hà Tây nhưng Lương Châu vẫn nằm trong tay người Phồn, đó vẫn là một mối lo lớn. Nếu biên giới có thể yên ổn vài năm, đợi khi tiền thuế tích lũy đầy đủ thì có thể thử thu phục Lương Châu, giải trừ mối lo ở bờ Tây.”
Thiên tử tán dương, “Đúng vậy, có tin hiện giờ đất Thổ Phồn cũng không yên, những đứa con trưởng thành đều có sự ủng hộ của mẫu tộc, tranh chấp rất quyết liệt. Vương đệ Ương Cách nhờ tập kích giết chết Hàn Nhung Thu mới được trọng dụng, quốc tướng Khố Bố Nhĩ không cam lòng thất thế nên đã phò tá ấu tử của Phồn vương nổi dậy. Dù đã bị Ương Cách tiêu diệt nhưng mối bất hoà khúc mắc giữa các bộ tộc vẫn còn đó.”
Lý Duệ hiểu rõ ý, “Vì vậy người Phồn mới đề xuất hòa đàm, chúng cũng cần thời gian dưỡng sức.”
Thiên tử chậm rãi bước đi, ngắm hoa thơm ven đường, “Đúng thế, nhưng người chủ trương hòa đàm là Ương Cách, còn kẻ đến lại thuộc phe Địch Ngân, chưa chắc có thể đạt được thỏa thuận. Hoàng nhi cứ theo dõi xem thế nào, coi như trau dồi kinh nghiệm.”
Lý Duệ từng tuần tra Tây Bắc, nghe nói Địch Ngân không cam lòng bị đày đến nơi xa, một lòng muốn tiến thân bằng chiến công, dã tâm bừng bừng cướp đoạt Hà Tây, gây ra sự bất hòa giữa hai nhà Hàn, Bùi. Người như vậy làm sao chịu hòa đàm, e rằng không muốn Ương Cách đạt được thỏa thuận, nâng cao danh vọng nên mới để em trai Đạt Già đến làm sứ giả.
Y liền đáp, “Nhi thần hiểu rồi, nhất định sẽ cẩn thận quan sát.”
Bầy vịt trên ngự trì dẫn đàn vịt con bơi qua, Thiên tử đưa mắt nhìn, bỗng hỏi, “Lục Cửu lang vốn xuất thân từ Hàn gia, rốt cuộc có liên hệ gì với bọn họ không?”
Lý Duệ đã điều tra kỹ lưỡng, cẩn trọng đáp, “Có tin đồn rằng hắn là huyết mạch ngoài giá thú của Hàn Nhung Thu, nhưng không có chứng cứ rõ ràng, Hàn gia chưa bao giờ thừa nhận và bản thân hắn cũng không hề hay biết.”
Mà dù có thực sự là huyết mạch của Hàn gia đi chăng nữa, nếu không có sự chống lưng của mẫu tộc hay được thân tộc công nhận thì chẳng khác nào cây mất rễ, dẫu được sắc phong cũng không thể kiểm soát Hà Tây. Thiên tử trầm ngâm một lúc, bỏ qua ý định, “Người này có thể trọng dụng, việc ở Lĩnh Nam xử lý rất tốt, trước mắt cứ cho nhậm chức ở Hữu quân đi.”
Điều này hợp với mong muốn của Lý Duệ, y vô cùng phấn khởi, nhưng ngoài miệng vẫn nói, “Hắn còn quá trẻ, không có căn cơ lẫn gia thế, nếu đột ngột được cất nhắc vào Hữu quân chỉ sợ sẽ bị người ta bàn tán.”
Thiên tử ẩn ý nói, “Không có căn cơ càng tốt, như thế hành sự mới có thể dứt khoát, sử dụng người như vậy sẽ rất thuận lợi, mà khi xử lý cũng dễ dàng.”
Thái giám bưng tới một khay vàng đựng chén ngọc, trong chén là một viên đan màu đỏ tròn trĩnh.
Thiên tử nhặt viên đan đỏ lên nuốt xuống, hơi nóng nhanh chóng lan tỏa khắp thân thể khiến tinh thần ngài thăng hoa, không còn muốn nghĩ đến chính sự, lập tức đuổi con trai đi rồi rảo bước tới hậu cung.