Quan Cư Nhất Phẩm

Chương 854

- Cao Củng đã quyết thay Hải Thụy, thậm chí có người thay thế rồi.
Dư Dần phân tích:
- Làm thế có hai cái lợi, một là xoa dịu dư luận, hai là Hải Diêm Vương đi, Thái Đồ Tể lại tới, vận mệnh cha con họ Từ càng bi thảm hơn, ruộng đo vẫn đo... Kỳ thực còn có điều thứ ba, năm xưa Hải Thụy từng chửi mắng Cao Củng, với tính ông ta, sao có thể không không khúc mắc gì, cho nên thay người chẳng có gì lạ.

Nghe Dư Dần phân tích, Thẩm Mặc im lặng rất lâu mới lạnh lùng nói:
- Ta không đồng ý.
Để cơn giận lắng xuống, y mới nói tiếp:
- Hải Thụy là người ta chọn, không thể để ông ta muốn đổi là đổi, nếu không có tiền lệ này, sẽ mang tới hậu họa khôn cùng.

- Vâng.
Dư Dần liền không nói tới Cao Củng nữa, quay sang Hải Thụy:
- Nghe nói Hải đại nhân có câu danh ngôn là "kẻ giàu không phải người, là người thì không giàu", vừa mới tới Tô Châu đã ban bố pháp lệnh yêu cầu quan viên tiết kiệm, đại hộ cũng phải tiết kiệm, còn đóng cửa đổ trường thanh lâu. Hơn nữa cũng rất bất mãn với việc đổi trồng lúa sang bông dâu, có ý thay đổi... Nếu để hắn làm loạn kinh tế Tô Tùng thế nào cũng thụt lùi, đó là trái tim kinh tế toàn quốc.

- Sao ta không biết hắn là dao hai lưỡi chứ?
Thẩm Mặc cười méo xẹo:
- Đừng quên mục đích của chúng ta là gì.

- Chúng ta muốn ép đại hộ ra khỏi đất đai.
Là tâm phúc Thẩm Mặc tín nhiệm nhất, Dư Dần đương nhiên là biết...

Trong mắt Thẩm Mặc, Cao Củng và Trương Cư Chính thông qua kiềm chế thôn tính, giải quyết nguy cơ vương triều, là trị ngọn không trị gốc, hơn nữa phương pháp đả kích trực tiếp của bọn họ, sẽ khiến họ đứng về phía đối lập với cường hào địa chủ. Mà cường hào địa chủ là cơ sở thống trị đế quốc nghìn năm qua, dù hoàng đế có muốn xử bọn chúng cũng sẽ bị bọn chúng xử lại.

Nên phải thay đổi quan niệm của mọi người, khiến giai cấp địa chủ mau chóng rút khỏi đất đai, chuyển hóa thành giai cấp công thương thuần túy.

Vậy phải làm sao? Chính như Hải Thụy đang làm, khiến bọn chúng trả lại ruộng đất chiếm đoạt, đồng thời nạp thuế theo số mẫu đất, khiếm thôn tính đất đai không còn kiếm lợi được nữa.

Chuyện này nhìn khắp Đại Minh chỉ có Hải Cương Phong là làm được, vì thanh danh của hắn quá tốt, được công nhận là công chính vô tư, còn đám phú hào đại hộ lợi ích bị tổn hao kia, chỉ có thể bôi xấu hắn ở phương thức công tác, như thù người giàu, thô bạo v..v..v..

Mà những điều này sức sát thương với một quan viên mà nói rất hữu hạn, tất nhiên cần có người kiên trì chống lưng cho hắn.

Cho nên Thẩm Mặc cực kỳ kiên định đứng về phía hắn, viết cho Cao Củng một lá thư dài dốc hết ruột gan, nói rõ sư nghĩ của mình. Y còn viết một phong tấu sớ, lấy thân phận thượng cấp cũ, biện hộ cho Hải Thụy, tán thưởng hắn một phen:" Giữ chính nghĩa thiên hạ, sửa cái sai thế gian, tuy nguy hiểm chông gai, vẫn không quay đầu lại"

Ý tứ là một quan viên như vậy mà triều đình cũng không dưng sao? Đương nhiên Hải Thụy cũng có khiếm khuyết, sau này phải chú ý phương pháp công tác.

Đây gần như là lần đầu tiên Thẩm các lão công khai bài tỏ thái độ với sự kiện gây tranh luận, đám ngôn quan tức thì im thin thít, ngay cả báo chí đông nam chửi Hải Thụy thành kẻ ngu xuẩn, cũng giảm bớt thế công, bắt đầu dùng phương pháp tách bạch để bình luận vị tuần phủ đại nhân này.

Biết rõ thái độ của Thẩm Mặc, Cao Củng chỉ đành tiếp tục ủng hộ Hải Thụy, tức thì hướng gió nghịch chuyển, bóng mây bao phủ trên đầu Hải Thụy bị xua tan hết.

Thẩm Mặc hiểu rất rõ sự vô sỉ của hào tộc đông nam, bọn chúng công khai không hạ được Hải Cương Phong, sẽ dùng thủ đoạn ngầm. Vì thế lệnh Dư Dần lập tức tới Tùng Giang, ngầm bảo hộ Hải Thụy tránh thanh thần kiếm gãy trong âm mưu quỷ kế.

Được nội các ủng hộ, sau tết năm Long Khánh thứ tư, Hải Thụy thẳng tay triển khai hành động đo đạc ruộng đất... Đương nhiên đó là chuyện sau này.

Thời gian như thoi đưa, chớp mắt đã tới tháng hai năm Long Khánh thứ tư, thời tiết ấm dần, cỏ chuyển màu xanh, én bay về phía bắc, mọi người bỏ đi áo mùa đông dầy cộm. Thẩm Mặc không chú ý tới triều cục nữa, vì qua mùa đông, thế công phục Sóc đã triển khai.

Trong mấy tháng mùa đông, thế cục Hà Sóc phát sinh biên hóa cực lớn, đầu tiên là Nặc Nhan tuyên bố quy y Lạt Ma giáo, sau đó ba tên đệ đệ bị bắt của hắn cũng nối gọt, dẫn bộ của mình quy thuận Đại Minh. Trong 9 bộ, đã có 4 bộ quy phục, một cái bị đánh tan từ ban đầu, bốn bộ còn lại không dám vượt Hoàng Hà một bước, tránh nạn ở bình nguyên phía bắc.

Thẩm Mặc một mặt lệnh đám Đặc Nhan và Bái Tang giữ liên hệ với bộ lạc huynh đệ, truyền đạt ý chiêu nạp của Đại Minh, đồng thời không giảm bớt hành động quân sự, thời cơ vừa tới, Lý Thành Lương chờ đợi đã lâu, liền dẫn tinh nhuệ vượt sông Hoàng Hà, tìm địch quyết chiến.

Bản thân thành chủ tướng xuất kích, Thích Kế Mỹ lại phải ở lại thủ Sóc, Lý Thành Lương cảm thấy rất hài lòng, thề đánh một trận lập nên sự nghiệp, để thiên hạ biết đại danh của mình.

Vì lần xuất kích này, hắn dày công chuẩn bị cả một mùa đông, tiến hành huấn luyện nghiêm khắc thuộc hạ, cuối cùng chọn ra 5000 chàng trai, mỗi người đều thành thạo cung mã, gặp người Mông Cổ đấu một chọi một cũng không rơi xuống hạ phong, kết trận chiến đấu càng có ưu thế lớn. Huống hồ còn trang bị tam nhãn súng, thần khí của kỵ chiến.
Chỉ cần bằng vào 5000 thiết kỵ này, tới ngay cả vương đình Yêm Đáp, hắn cũng dám xông vào.

Đây là lần đầu tiên Lý Thành Lương một mình phụ trách một mặt công tác, cuối cùng có thể tận tình phát huy tài hoa quân sự của mình rồi.
Nhưng trên thảo nguyên mênh mông, không có bất kỳ tiếp viện nào, kỵ binh Mông Cổ nhiều hơn gấp bội có thể đánh tới bất kỳ lúc nào, muốn bảo tồn bản thân, tiêu diệt kẻ địch là chuyện khó khăn nhường nào.

Kỳ thực lúc mới đầu, Lý Thành Lương chẳng hề có mục tiêu rõ ràng, cơ bản chỉ là tìm địch quyết đấu, đột kích chiến, tao ngộ chiến, dũng thì dũng thật, nhưng cực khổ một chút.
Cũng có lẽ hắn là đại danh tướng sinh ra từ chiến tranh, là danh tướng trời ban, cho nên không để hắn bị tiêu diệt trong lần đầu của mình, mà tặng cho hắn một thắng lợi lớn....

Sau khi vượt qua Hoàng Hà, dọc đường bạ đâu đánh đấy, không ngờ lại vào được trung tâm Hà Sóc, gặp phải đại quân Mông Cổ hay tin quân Minh xâm nhập, đang vội vã di chuyển.
Để yểm hộ mấy vạn phụ nữ trẻ em rút lui, quân Mông Cổ đành liều mình nghênh chiến, kết quả bị một loạt đạn của Lý Thành Lương đánh rối loạn sau đó hung hãn xua quân xông vào, đánh quân Môn tơi bời hoa lá, bỏ chạy khắp nơi.

Trận này chém hơn nghìn thủ cấp, cổ vũ lớn sĩ khí quân Minh, cũng đem chút đấu chí tích lũy được qua mùa đông của quân Mông bóp nát, đánh cho quân Mông không có cả sức chống đỡ, tới khi Hoàng Thai Cát và Bố Ngạn Thai Cát tới cứu viện mới gượng lại được.

Người Mông cổ tập kế trọng binh, thề tiêu diệt kỵ binh xâm nhập. Thế nhưng lúc này Lý Thành Lương đã hoàn toàn quen với việc tác chiến thảo nguyên, đồng thời cũng nắm rõ địa hình thảo nguyên như lòng bàn tay, trong những cuộc chiến tiế theo, hắn dùng binh linh hoạt, liên tục tung ra những cú đấm mạnh, đánh cho người Mông Cổ choáng váng, khổ không sao kể siết...

Cao trào của thế công mùa xuân xuất hiện ở giai đoạn cuối cùng. Lý Thành Lương suất lĩnh bộ hạ hành quân thần tốc hơn 300 dặm, tránh thế trận phòng ngự của hai tên Thai Cát, liên tục công phá năm bộ lạc nấp ở Ô Lạp Đặc, sau đó âm thầm dọc theo Ân Sơn Đông Lộc đánh thẳng vào đại doanh Hoàng Thai Cát.

Mặc dù sau khi biết hậu phương bị tập kích, người Mông Cổ phái quá nửa nhân mã quay về cứu viện, nhưng vẫn có hơn 1 vạn 5 ngàn kỵ binh ở lại, để chặt đường về của Lý Thành Lương.

Trận này thực sự mới là quyết máu lửa, Lý Thành Lương suất lĩnh chưa tới 5000 kỵ binh, chạy gần 1000 dặm, đấu với chủ lực khỏe mạnh của Hoàng Thai Cát và Bố Ngạn Thai Cát.

- Cao Củng đã quyết thay Hải Thụy, thậm chí có người thay thế rồi.
Dư Dần phân tích:
- Làm thế có hai cái lợi, một là xoa dịu dư luận, hai là Hải Diêm Vương đi, Thái Đồ Tể lại tới, vận mệnh cha con họ Từ càng bi thảm hơn, ruộng đo vẫn đo... Kỳ thực còn có điều thứ ba, năm xưa Hải Thụy từng chửi mắng Cao Củng, với tính ông ta, sao có thể không không khúc mắc gì, cho nên thay người chẳng có gì lạ.

Nghe Dư Dần phân tích, Thẩm Mặc im lặng rất lâu mới lạnh lùng nói:
- Ta không đồng ý.
Để cơn giận lắng xuống, y mới nói tiếp:
- Hải Thụy là người ta chọn, không thể để ông ta muốn đổi là đổi, nếu không có tiền lệ này, sẽ mang tới hậu họa khôn cùng.

- Vâng.
Dư Dần liền không nói tới Cao Củng nữa, quay sang Hải Thụy:
- Nghe nói Hải đại nhân có câu danh ngôn là "kẻ giàu không phải người, là người thì không giàu", vừa mới tới Tô Châu đã ban bố pháp lệnh yêu cầu quan viên tiết kiệm, đại hộ cũng phải tiết kiệm, còn đóng cửa đổ trường thanh lâu. Hơn nữa cũng rất bất mãn với việc đổi trồng lúa sang bông dâu, có ý thay đổi... Nếu để hắn làm loạn kinh tế Tô Tùng thế nào cũng thụt lùi, đó là trái tim kinh tế toàn quốc.

- Sao ta không biết hắn là dao hai lưỡi chứ?
Thẩm Mặc cười méo xẹo:
- Đừng quên mục đích của chúng ta là gì.

- Chúng ta muốn ép đại hộ ra khỏi đất đai.
Là tâm phúc Thẩm Mặc tín nhiệm nhất, Dư Dần đương nhiên là biết...

Trong mắt Thẩm Mặc, Cao Củng và Trương Cư Chính thông qua kiềm chế thôn tính, giải quyết nguy cơ vương triều, là trị ngọn không trị gốc, hơn nữa phương pháp đả kích trực tiếp của bọn họ, sẽ khiến họ đứng về phía đối lập với cường hào địa chủ. Mà cường hào địa chủ là cơ sở thống trị đế quốc nghìn năm qua, dù hoàng đế có muốn xử bọn chúng cũng sẽ bị bọn chúng xử lại.

Nên phải thay đổi quan niệm của mọi người, khiến giai cấp địa chủ mau chóng rút khỏi đất đai, chuyển hóa thành giai cấp công thương thuần túy.

Vậy phải làm sao? Chính như Hải Thụy đang làm, khiến bọn chúng trả lại ruộng đất chiếm đoạt, đồng thời nạp thuế theo số mẫu đất, khiếm thôn tính đất đai không còn kiếm lợi được nữa.

Chuyện này nhìn khắp Đại Minh chỉ có Hải Cương Phong là làm được, vì thanh danh của hắn quá tốt, được công nhận là công chính vô tư, còn đám phú hào đại hộ lợi ích bị tổn hao kia, chỉ có thể bôi xấu hắn ở phương thức công tác, như thù người giàu, thô bạo v..v..v..

Mà những điều này sức sát thương với một quan viên mà nói rất hữu hạn, tất nhiên cần có người kiên trì chống lưng cho hắn.

Cho nên Thẩm Mặc cực kỳ kiên định đứng về phía hắn, viết cho Cao Củng một lá thư dài dốc hết ruột gan, nói rõ sư nghĩ của mình. Y còn viết một phong tấu sớ, lấy thân phận thượng cấp cũ, biện hộ cho Hải Thụy, tán thưởng hắn một phen:" Giữ chính nghĩa thiên hạ, sửa cái sai thế gian, tuy nguy hiểm chông gai, vẫn không quay đầu lại"

Ý tứ là một quan viên như vậy mà triều đình cũng không dưng sao? Đương nhiên Hải Thụy cũng có khiếm khuyết, sau này phải chú ý phương pháp công tác.

Đây gần như là lần đầu tiên Thẩm các lão công khai bài tỏ thái độ với sự kiện gây tranh luận, đám ngôn quan tức thì im thin thít, ngay cả báo chí đông nam chửi Hải Thụy thành kẻ ngu xuẩn, cũng giảm bớt thế công, bắt đầu dùng phương pháp tách bạch để bình luận vị tuần phủ đại nhân này.

Biết rõ thái độ của Thẩm Mặc, Cao Củng chỉ đành tiếp tục ủng hộ Hải Thụy, tức thì hướng gió nghịch chuyển, bóng mây bao phủ trên đầu Hải Thụy bị xua tan hết.

Thẩm Mặc hiểu rất rõ sự vô sỉ của hào tộc đông nam, bọn chúng công khai không hạ được Hải Cương Phong, sẽ dùng thủ đoạn ngầm. Vì thế lệnh Dư Dần lập tức tới Tùng Giang, ngầm bảo hộ Hải Thụy tránh thanh thần kiếm gãy trong âm mưu quỷ kế.

Được nội các ủng hộ, sau tết năm Long Khánh thứ tư, Hải Thụy thẳng tay triển khai hành động đo đạc ruộng đất... Đương nhiên đó là chuyện sau này.

Thời gian như thoi đưa, chớp mắt đã tới tháng hai năm Long Khánh thứ tư, thời tiết ấm dần, cỏ chuyển màu xanh, én bay về phía bắc, mọi người bỏ đi áo mùa đông dầy cộm. Thẩm Mặc không chú ý tới triều cục nữa, vì qua mùa đông, thế công phục Sóc đã triển khai.

Trong mấy tháng mùa đông, thế cục Hà Sóc phát sinh biên hóa cực lớn, đầu tiên là Nặc Nhan tuyên bố quy y Lạt Ma giáo, sau đó ba tên đệ đệ bị bắt của hắn cũng nối gọt, dẫn bộ của mình quy thuận Đại Minh. Trong 9 bộ, đã có 4 bộ quy phục, một cái bị đánh tan từ ban đầu, bốn bộ còn lại không dám vượt Hoàng Hà một bước, tránh nạn ở bình nguyên phía bắc.

Thẩm Mặc một mặt lệnh đám Đặc Nhan và Bái Tang giữ liên hệ với bộ lạc huynh đệ, truyền đạt ý chiêu nạp của Đại Minh, đồng thời không giảm bớt hành động quân sự, thời cơ vừa tới, Lý Thành Lương chờ đợi đã lâu, liền dẫn tinh nhuệ vượt sông Hoàng Hà, tìm địch quyết chiến.

Bản thân thành chủ tướng xuất kích, Thích Kế Mỹ lại phải ở lại thủ Sóc, Lý Thành Lương cảm thấy rất hài lòng, thề đánh một trận lập nên sự nghiệp, để thiên hạ biết đại danh của mình.

Vì lần xuất kích này, hắn dày công chuẩn bị cả một mùa đông, tiến hành huấn luyện nghiêm khắc thuộc hạ, cuối cùng chọn ra 5000 chàng trai, mỗi người đều thành thạo cung mã, gặp người Mông Cổ đấu một chọi một cũng không rơi xuống hạ phong, kết trận chiến đấu càng có ưu thế lớn. Huống hồ còn trang bị tam nhãn súng, thần khí của kỵ chiến.
Chỉ cần bằng vào 5000 thiết kỵ này, tới ngay cả vương đình Yêm Đáp, hắn cũng dám xông vào.

Đây là lần đầu tiên Lý Thành Lương một mình phụ trách một mặt công tác, cuối cùng có thể tận tình phát huy tài hoa quân sự của mình rồi.
Nhưng trên thảo nguyên mênh mông, không có bất kỳ tiếp viện nào, kỵ binh Mông Cổ nhiều hơn gấp bội có thể đánh tới bất kỳ lúc nào, muốn bảo tồn bản thân, tiêu diệt kẻ địch là chuyện khó khăn nhường nào.

Kỳ thực lúc mới đầu, Lý Thành Lương chẳng hề có mục tiêu rõ ràng, cơ bản chỉ là tìm địch quyết đấu, đột kích chiến, tao ngộ chiến, dũng thì dũng thật, nhưng cực khổ một chút.
Cũng có lẽ hắn là đại danh tướng sinh ra từ chiến tranh, là danh tướng trời ban, cho nên không để hắn bị tiêu diệt trong lần đầu của mình, mà tặng cho hắn một thắng lợi lớn....

Sau khi vượt qua Hoàng Hà, dọc đường bạ đâu đánh đấy, không ngờ lại vào được trung tâm Hà Sóc, gặp phải đại quân Mông Cổ hay tin quân Minh xâm nhập, đang vội vã di chuyển.
Để yểm hộ mấy vạn phụ nữ trẻ em rút lui, quân Mông Cổ đành liều mình nghênh chiến, kết quả bị một loạt đạn của Lý Thành Lương đánh rối loạn sau đó hung hãn xua quân xông vào, đánh quân Môn tơi bời hoa lá, bỏ chạy khắp nơi.

Trận này chém hơn nghìn thủ cấp, cổ vũ lớn sĩ khí quân Minh, cũng đem chút đấu chí tích lũy được qua mùa đông của quân Mông bóp nát, đánh cho quân Mông không có cả sức chống đỡ, tới khi Hoàng Thai Cát và Bố Ngạn Thai Cát tới cứu viện mới gượng lại được.

Người Mông cổ tập kế trọng binh, thề tiêu diệt kỵ binh xâm nhập. Thế nhưng lúc này Lý Thành Lương đã hoàn toàn quen với việc tác chiến thảo nguyên, đồng thời cũng nắm rõ địa hình thảo nguyên như lòng bàn tay, trong những cuộc chiến tiế theo, hắn dùng binh linh hoạt, liên tục tung ra những cú đấm mạnh, đánh cho người Mông Cổ choáng váng, khổ không sao kể siết...

Cao trào của thế công mùa xuân xuất hiện ở giai đoạn cuối cùng. Lý Thành Lương suất lĩnh bộ hạ hành quân thần tốc hơn 300 dặm, tránh thế trận phòng ngự của hai tên Thai Cát, liên tục công phá năm bộ lạc nấp ở Ô Lạp Đặc, sau đó âm thầm dọc theo Ân Sơn Đông Lộc đánh thẳng vào đại doanh Hoàng Thai Cát.

Mặc dù sau khi biết hậu phương bị tập kích, người Mông Cổ phái quá nửa nhân mã quay về cứu viện, nhưng vẫn có hơn 1 vạn 5 ngàn kỵ binh ở lại, để chặt đường về của Lý Thành Lương.

Trận này thực sự mới là quyết máu lửa, Lý Thành Lương suất lĩnh chưa tới 5000 kỵ binh, chạy gần 1000 dặm, đấu với chủ lực khỏe mạnh của Hoàng Thai Cát và Bố Ngạn Thai Cát.

Các tăng nhân dùng tri thức và nhân từ trừ bỏ sự đề phòng của người Mông, được bọn họ hoanh nghênh và yêu quý. Không ít nam nữ già trẻ thành tín đồ của bọn họ, mỗi sáng đều theo bọn họ tụng kinh, mỗi lần nghe lạt ma giảng kinh xong, trên mặt các tín đồ tràn ngập nụ cười thỏa mãn, điều này người thờ phụng Tát Mãn vĩnh viễn không có được.
Hơn nữa Tát Mãn giáo cũng không cấm tín đồ theo giáo phái khác, vì thế ngày càng có nhiều người quy y, thành tín đồ Cách Lỗ Phái.

Mặc dù người trẻ tuổi như Triết Hách và Biệt Hách vẫn không tin vào những lạt mã ngoại lai, nhưng cha mẹ trưởng bối của họ đều thành tín đồ, tựa hồ ngày lạt ma thay thế tát mãn, chỉ là chuyện sớm muộn....

Bên ngoài lại truyền tới tiếng tụng kinh cổ quái, Biệt Hách mỗi khi nghe những âm thanh này, lại nhớ tới dự ngôn của Bác Cát.. Khi ma quỷ dùng chú ngữ khống chế được nhân tâm, sẽ dâng họ cho ma vương.

Từ tình cảm mà nói, hắn ngả về tát mãn, dù sao từ nhỏ tai nghe mắt thấy khiến hắn tin vào thiên thần. Nhìn tình hình của bộ lạc, dự ngôn kia dần dần thành sự thực rồi, Biệt Hách hết sức lo lắng, nếu như tộc nhân thành tế phẩm của ma quỷ, mà mình không làm gì, chẳng phải thành đồng lõa của ma quỷ?

Vì thế trong một đêm hạ tuần tháng ba, hắn đấu tranh bên đống lửa, có nên nhận lời Tát Mãn Bát Cát, liều mình giúp họ không?

Trong đêm đó cũng có một người đang phải gian nan lựa chọn, đó là Chung Kim. Nói thế cũng không đúng, vì từ rất lâu viên minh châu của thảo nguyên đã rơi vào mâu thuẫn, chỉ là gần đây càng trở nên nghiêm trọng mà thôi.

Nguyên nhân là Tiêu Cần, sư phụ nàng, giáo chủ Bạch Liên giáo bí mật tới bộ lạc.

Khi Tiêu Cần lặng lẽ xuất hiện trong lều của nàng, Chung Kim giật mình, sợ hãi cúi đầu xuống:
- Sư phụ...

Tiêu Cần mặc trắng bệch, không chút màu máu nào, hắn nhìn Chung Kim rất lâu rồi hỏi:
- Nhiệm vụ của ngươi hoàn thành thế nào rồi...

Nói thực Chung Kim từ nhỏ sợ nam nhân gầy quắt này, dù từ nhỏ bái hắn làm thầy, nhưng tình cảm hai bên không sâu. Hơn nữa Chung Kim càng lớn càng hiểu rõ con người của hắn, càng sợ hãi việc hắn làm...
Hắn là ma quỷ, xảo trá như sói, hung ác như hổ.

Cho nên nếu không cần thiết nàng tránh hắn thật xa, nhưng thành Tế Nông bị phá, tộc nhân bị ép vào tuyệt cảnh, nàng đành tới Bản Thăng tìm hắn cầu cứu. Tiêu Cần nói được, nhưng phải giúp ta một việc...

Chung Kim hỏi nàng phải làm gì?

Tiêu Cần nói, Bạch Liên giáo đang lên kế hoạch ám sát, cần nàng giúp đỡ.

Chung Kim hỏi giết ai?

- Đại học sĩ, đốc sư cửu biên Thẩm Mặc Thẩm Giang Nam.
Nhắc tới cái tên này, mắt Tiêu Cần ánh lên vẻ độc ác.

Với Chung Kim mà nói, nàng vừa cùng tử chiến cùng quân Minh, tận mắt nhìn vô số tộc nhân chết thảm, nếu có cơ hội giết chết thống soái Đại Minh, nàng sẵn sàng bất kể mọi giá, dù có là sinh mạng bản thân.

Vì thế nàng đồng ý không chút do dự, Tiêu Cần bảo nàng về tộc, chủ động tới hầu hạ phụ thân.
Tiêu Cần nói:
- Với dung mạo của ngươi, chỉ cần ngươi muốn, có thể làm tất cả nam nhân mất lý trí; chỉ cần ngươi gặp được Thẩm Mặc, là có cơ hội mê hoặc y, dù không chiếm được trái tim y, cũng sẽ làm y mê mẩn, sau đó kiếm cơ hội, dùng kịch độc giết y.

Tiêu Cần cho nàng một cái nhẫn, chỉ cần xoay viên ngọc, sẽ có mũi gai độc bắn ra, chỉ cần nó đâm vào cơ thể là thần tiết cũng không cứu nổi.

Vì thế Chung Kim mang chiếc nhẫn đó cùng quyết tâm hi sinh, tới gặp phụ thân, đồng thời gặp được đốc sư Đại Minh.

Nhưng nàng phát hiện đó là thanh niên người Hán mà năm xưa mình gặp trong miếu sơn thần, người hán đó nụ cười ôn hòa, nói chuyện hóm hỉnh, phong độ tiêu sái, dù chỉ gặp một lần, nhưng để lại cho Chung Kim ấn tượng cực tốt, mặt dù chưa tới mức tương tư. Nhưng ảnh hưởng tới việc lựa chọn phu lang của nàng.

Từ năm nàng 14 tuổi, đội ngũ cầu thân tới nhà nàng có thể xếp một vòng quanh thành Tế Nông. Nhưng nàng luôn muốn tìm một phu tế giống người kia, được sống trong ánh mặt trời ấm áp kia, chứ không phải sống với dũng sĩ Mông Cổ thô lỗ.

Trong tình cảnh đó gặp lại Thẩm Mặc, sao chẳng khiến trái tím nàng bấn loạn, kế hoạch chuẩn bị trước vứt lên tận chín tầng trời...

Chung Kim phải lần nữa kiến thiết tâm lý, ý chí mới trở nên kiên định. Mặc dù vì sau gặp được phật âm ở Tác Nam Gia Thố, thiếu chút nữa ý chí tan vỡ, nhưng trong lòng nàng luôn giữ chút tỉnh táo, không bị hoàn toàn đánh tan tâm chí.

Nhưng đại kế ám sát không hề có tiến triển.

Cùng với thời gian trôi đi, quyết tâm của Chung Kim ngày càng dao động, chẳng phải là vì si tình hay bị tẩy não, mà vì cô gái xinh đẹp này có đầu óc tỉnh táo hơn đại đa số nam nhân...

Trước đó nàng sở dĩ đồng ý đi ám sát vì nghĩ phụ thân chết chắc, tộc nhân rơi vào tuyệt cảnh... Nhưng khi gặp lại phụ thân, chẳng những không bị ngược đãi, còn ở trong đình viện ấp ám, ăn mặc hoa lệ, cuộc sống sung sướng thì sát ý đã giảm đi ba phần.

Sau đó lại ngồi nghe phụ thân và Thẩm Mặc nói chuyện, biết rằng tộc nhân của mình không cần phải chết nữa, lại có thể tiếp tục chăn thả gia súc trên thảo nguyên, đương nhiên tiền đề là quy thuận Đại Minh.

Vì tộc nhân, Chum Kim không ám sát Thẩm Mặc.

Kỳ thực nàng đã quan sát, phát hiện phương án bảo an của y cực kỳ hoàn mỹ, mà mục tiêu lại là nhân vật tâm trí cực kỳ kiên định. Nàng không cho rằng có thể khiến đối phương mê đắm, đồng thời có thể hoàn thành nhất kích tất sát dưới tình huống hộ vệ theo sát như hình với bóng.

Vì kiểm chứng phán đoán của mình, nàng từng thử dùng mũi chân chạm vào y, mới phát hiện vừa giơ chân lên đã có hơn mười nòng súng chĩa vào. Nhìn những ánh mắt lạnh như băng đó, nàng tin, mình còn tiếp tục đá tới, bọn họ nhất định sẽ nổ súng.

Về tới bộ lạc, Chung Kim ném cho giáo đồ Bạch Liên giáo đang đợi tin tức một câu:
- Không có cơ hội.
Có điều nàng biết không thể như vậy là xong, vì sư phụ nàng là người không đạt được mục đích thề không thôi.

Mặc dù đã chuẩn bị sẵn tâm lý, nhưng khi Tiêu Cần xuất hiện trước mặt, Chung Kim vẫn cảm thấy sởn gai ốc, cố lấy tinh thần ứng phó:
- Sao sư phụ lại tới đây?

- Nhiệm vụ của ngươi ra sao rồi.
Tiêu Cần lạnh lùng nhìn nàng.

- Không phải đã sai người truyền tin rồi sao?
Chung Kim theo tiềm thức lùi lại:
- Đồ nhi không có cơ hội, thất bại rồi.

- Chưa bại lộ là chưa thất bại, chỉ cần y còn tin ngươi là sẽ có cơ hội.

- Nhưng...
Chung Kim ấp úng một lúc, cuối cùng hạ quyết tâm ngẩng đầu lên nhìn Tiêu Cần:
- Hiện giờ đồ nhi không thể làm việc này nữa.

Ánh mắt Tiêu Cần càng lạnh hơn.

- Nếu sư phụ đã tới, nhất định thấy thành bảo của người Hán dựng sát bên bộ lạc của đồ nhi, nếu có chút động tĩnh nào là xông vào chém giết ngay.
Chung Kim bi ai nói:
- Mà bộ lạc đã bị giải trừ vũ trang, nếu đồ nhi dám làm càn, bất kể có thành công hay không cũng mang lại họa diệt vong cho bộ lạc.
Nói rồi quỳ xuống, khuôn mặt xinh đẹp mang vẻ thản nhiên nói:
- Xin lỗi sư phụ, đồ nhi biết mình không có khí tiết, không để ý tới đại nghĩa, không phải là anh hùng. Nhưng đồ nhi là nữ nhân, trong lòng nữ nhân, bảo vệ gia đình vĩnh viễn là quan trọng nhất, bộ lạc là nhà của đồ nhi, đồ nhi không thể vì hành vi của mình, mang lại tai họa cho họ.

Chung Kim hạ thấp bản thân, không ngờ nhất thời làm Tiêu Cần cứng họng, trầm ngâm một lúc mới nói:
- Chẳng lẽ sống như tù nhân, đợi người Hán bố thí hay sao? Các ngươi vốn là dân tộc du mục, chăn thả trâu ngựa, giờ lại làm trâu ngựa cho người Hán. Kiêu ngạo của các ngươi đâu rồi, chẳng lẽ muốn sống ti tiện như thế này?

- Chỉ cần còn sống là còn hi vọng.
Chung Kim cười, khi nàng cười mặt như tỏa sáng:
- Đó là lời sư phụ dạy đồ nhi, đồ nhi luôn lấy người làm gương.

Khóe miệng Tiêu Cần co giật, đúng thế mình có tư cách gì nói cô ta? Bản Thăng mà mình thống trị không phải đang sống cuộc sống ti tiện sao? Nữ tử thảo nguyên thẳng tính, vĩnh viễn không học được cách khôn khéo của nữ nhi người Hán, mở miệng ra có thể khiến người ta tức chết.

- Khà khà, ngươi coi sư phụ là loại người nào?
Tiêu Cần đổi sang bộ mặt thân thiết:
- Sao ta có thể để tộc nhân của ngươi nguy hiểm.

- Đa tạ sư phụ thông cảm.

Chung Kim cười như đóa hoa sen nở, không lòe loẹt, nhưng thấm sâu vào lòng người. Làm động vật máu lạnh như Tiêu Cần bất giác giọng hòa hoãn hơn:
- Mau đứng lên đi, ngồi xuống rồi nói.

Chung Kim ngoan ngoãn gật đầu, cứ như cô gái vừa dám nói những lời chua cay kia không phải là nàng vậy.

- Nếu kế hoạch của ta có thể không làm ngươi lẫn tộc nhân bị liên lụy, ngươi có chịu đồng ý giúp sư phụ không?
Tiêu Cần mỉm cười nói:

- Kế hoạch thế nào?
Chung Kim không nhận lời ngay.

- Quỷ ranh.
Tiêu Cần muốn tỏ ra hòa ái, nhưng phát hiện mình cười còn khó coi hơn khóc, đành khôi phục vẻ lạnh lùng:
- Theo ta biết họ Thẩm sắp lên đường vào Sóc, cha ngươi và ba thúc thúc cửa ngươi chuẩn bị mời y tham gia nghi thức tế thánh tổ vào 28 tháng này.

- Đồ nhi không biết.
Chung Kim lắc đầu, nàng không biết Tiêu Cần lấy tin ở đâu ra, nhưng tám phần là sự thực.

- Ngươi sẽ mau chóng biết thôi.
Tiêu Cần thấy đắc ý, rồi chửi mình kém cỏi, nghiêm mặt nói:
- Theo thông lệ, chén rượu tế Thành Cát Tư Hãn sẽ do nữ tử thánh khiết nhất thảo nguyên dâng lên, chuyện này chắc chắn thuộc về ngươi.

Chung Kim im lặng, nàng không biết giáo chủ sư phụ lại có mưu ma chước quỷ gì.

- Ta chỉ có một yêu cầu, khi ngươi đi lên tế đài, trực tiếp quỳ xuống ở đó, không đợi tới trước mặt chủ tế ở đài ngũ sắc mới quỳ, ngay cả quốc sư Đại Kim ta đây, cũng không thấy cảnh tế tự, người Hán chắc chắn càng không nghi ngờ, ngươi đã yên tâm chưa?

Chung Kim thầm nghĩ:" Ta càng lo hơn thì có" liền hỏi thẳng:
- Đồ nhi muốn biết, sẽ xảy ra chuyện gì.

- Cát bụi sẽ trở về với cái bụt, từ nay thế giới thanh tịnh. Tế tướng Minh triều, một tế phẩm hoàn mỹ, Thành Cát Tư Hãn sẽ vinh dự vì các ngươi.

-Sao có thể làm được?
Chung Kim hỏi tới:
- Nếu cùng mưu, vậy dùng phương pháp gì phải nói cho đồ nhi chứ?

- Nói cho ngươi cũng được.
Tiêu Cần là kẻ thù vặt, ngay cả tiểu cô nương cũng không tha:
- Có điều chẳng may ngươi ngủ mơ tiết lộ thì không hay, nên không biết thì hơn.

- Thôi vậy...
Chung Kim cong cánh môi mọng ướt lên:
- Nếu người Hán truy cứu thì sao?

- Bạch Liên giáo lập tức sẽ tuyên bố chịu trách nhiệm.
Tiêu Cần hào khí ngút trời nói:
- Với Bạch Liên giáo mà nói, giết chết tể tướng Đại Minh là công tích ngàn đợi, tuyệt đối sẽ không phủ nhận.

- Vậy để đồ nhi suy nghĩ.
Chung Kim không thể không thừa nhận, yêu cầu của giáo chủ sư phụ rất khó cự tuyệt. Người ngoại tộc còn tích cực như thế, nàng là người Mông Cổ sao có thể không đồng ý.

- Vi sư nhắc ngươi một chút.
Tiêu Cần lạnh lùng nói:
- Ngươi sắp thành hôn với Đại Thành Thai Cát, không thể chỉ nghĩ cho nhà mẹ đẻ, thành Hô Hòa Hạo Đặc mới là ngôi nhà tương lai của ngươi.

Chung Kim nhướng mày lên, muốn nói gì nhưng thôi, khẽ gật đầu:
- Đồ nhi hiểu.

- Ừ, cho ngươi một ngày suy nghĩ, mai ta lại tới.

Đợi bóng dáng Tiêu Cần biến mất, Chung Kim như quả bong bóng xì hơi, ngồi ngây ra bên đống lửa... Sư phụ nàng vô sỉ hung tàn, nếu như nàng dám không đồng ý, hắn sẽ có thủ đoạn ép nàng phải chấp nhận.

Cả đêm trằn trọc mất ngủ, khi trời sáng Chung Kim đi ra khỏi lều thì chạm mặt Biệt Hách.

- Đại ca.
Chung Kim cười thỉnh an.

- Muội muội ngủ ngon chứ?
Biệt Hách cưng chiều cười với muội muội.

- Không ngon, đại ca cũng thế, mắt thâm xì kìa.

- Ồ, ha ha ha...
Biệt Hách chột dạ cười lảng đi:
- Muội đi đâu đấy?

- Đi thỉnh an a ba, a ma. Đại ca không đi sao?
Chung Kim bày ra bộ mặt:" Huynh biết còn hỏi?"

- Ta không đi.
Biệt Hách lắc đầu:
- Hôm nay bận rồi, muội đi đi.
Nói xong vội vã đi trước, tới chỗ ở của Tát Mãn Bác Cát.

Chung Kim biết đại ca trung thành tát mãn, chống đối đạt ma, nhưng đại ca xưa nay trầm ổn, nàng không lo lắm.

Chung Kim tới hãn trưởng, hỏi thị nữ biết a ba a ma đều đã dậy, liền vén rèm cửa đi vào.

Thấy nữ nhi, đôi phu thê vốn mặt mày âu sầu đều tươi cười, A Nhu gọi nữ nhi tới ngồi bên cạnh, vuốt mái tóc đen của con đầy quyến luyến.

Chung Kim cảm thấy không khí khác thường, hỏi:
- Có chuyện gì vậy ạ?

Hai phu thê nhìn nhau, vốn không muốn nói với nữ nhi sớm như thế, nhưng Chung Kim xưa nay rất hiểu chuyện, nên nói trước thì hơn, vì thế Nặc Nhan nói:
- Hôm qua thu được thư của ngoại công con, nói tháng sau sẽ phái người mang sính lễ tới, đón con về.

Chung Kim cúi đầu xuống không nói.

Thấy con buồn bã, A Nhu rất đau khổ, ôm lấy vai con, nói:
- A ma biết, a ba từng nhận lời để con tự tìm nam nhân. Nhưng hùng chủ như ngoại công con, sẽ không nghe nguyện vọng của một tiểu nữ đâu, người giống như hoàng đế người Hán, nói một là một.

- Đều tại a ba vô dụng, nếu Ngạc Nhĩ Đa Tư không chia rẽ chiến bại, làm sao thúc phụ đối đãi với ta như thế?

- A ba đừng nói thế.
Chung Kim không chú ý tới bản thân, an ủi phụ thân:
- Khi nguy nan cha thể hiện rất tốt, cha là đầu lĩnh xứng đáng nhất.

- Ta thật vô dụng, còn cần nữ nhi phải an ủi nữa.
Nặc Nhan xua tay:
- Không nói a ba nữa, Chung Kim, a ba không dám trở mặt với ngoại công con. Nhưng nếu con không muốn gả cho Đại Thành Thai Cát, a ba viết thư cho Thẩm các lão, xin các lão lấy danh nghĩa triều đình, ban hôn cho con.
Đem mâu thuẫn giữa hai bộ lạc chuyển thành mâu thuẫn giữa Yêm Đáp và Đại Minh, ai dám nói ông ta vô dụng?

- Ban cho ai?
Chung Kim hiểu ra vì sao trước kia phụ thân đột nhiên muốn gả cho Thẩm các lão, thì ra a ba sớm dự liệu tới mình trở về sẽ bị bức hôn.

Đối với tên Bả Hán Na Cát chỉ biết nói mồm, lại còn bị chiều hư, vừa nghĩ tới thành thê tử của hắn, phải hầu hạ hắn, phải nghe lời hắn, Chung Kim thấy buồn nôn, chỉ sợ mình không kiềm chế được, sẽ cho hắn một mũi tên.

- Con muốn gả cho ai?
Nặc Nhan hỏi lại.

Chung Kim hoang mang lắc đầu, nàng không có người trong lòng.

- Nếu chưa nghĩ kỹ cũng có cách trì hoãn.
Nặc Nhan dịu dàng nói:
- Sắp tới lễ tế xuân rồi, cha và mấy thúc thúc của con thương lượng, dù thế cục không thái bình, nhưng càng nên thành kính bái tế.
Rồi nhìn con cái, kiêu ngạo nói:
- Nếu con làm thánh nữ, không ai dám nói a ba lấy quyền làm việc riêng, như vậy có thể kéo dài một tháng, con có thể tận dụng thời gian này chọn phu tế.

- Làm khó a ba rồi, con nghe a ba hết.

- Được.
Nạp Nhan yêu chiều nhìn con:
- Đừng nói nữa, sữa trong bát lạnh rồi kìa.

- Vâng.
Chung Kim ngoan ngoãn cầm bát sữa lên nhấp một ngụm nhỏ, nhìn phu thân:
- A ba, con hỏi một câu được không?

- Con nói gì thế, có gì không hỏi được?

- Người Hán xâm chiếm nhà cửa của chúng ta, giết bao tộc nhân, chúng ta có nên báo thù không?
Chung Kim tựa như lẩm bẩm.

- Nhưng đa số thời gian là chúng ta cướp bóc chém giết người Hán.
Nặc Nhan chậm rãi nói:
- A Hưng đạt ma nói, thù hận là một cái bánh xe, nó khiến chém giết không ngừng... A ba vừa tới tuổi cầm được đao, bị a ba của a ba yêu cầu nhớ kỹ thù hận này. A ba của a ba nói, a ba của người cũng nói thế, người nói: Này con, hãy nhớ, thù này không phải chỉ là quá khứ, mà là hiện tại, là cả tương lai...

Đoạn gia sử này Chung Kim không lạ gì, tổ phủ Cổn Tất Lý Khắc khi còn trẻ, thủ lĩnh của Ngõa Lạt Bộ. Thái sư Mông Cổ Diệc Bất Lạt, nhân lúc gia gia của tổ phủ là Đạt Duyên Hãn vĩ đại tây chinh, thừa cơ phản bội, giết chết trưởng tử của Đạt Duyên Hãn là Ô Lỗ Tư.

Phản loạn quá bất ngờ, tất cả không kịp chuẩn bị, phụ thân của tổ phụ là Ba Nhĩ Tư đành thứa lúc bóng bỏ chạy, đi tìm phụ thân.

Khi đó Cổn Tất Lý và Yêm Đáp còn quá nhỏ, chỉ có thể ở lại chỗ cô cô, Diệc Bất Lạt điên cuồng muốn giết sạch người của gia tộc hoàng kim, phái người lùng sực tư tôn Đạt Duyên Hãn khắp nơi, vị cô cô kia hết cách, giao hai đứa bé cho hai người hầu bỏ trốn ngay trong đêm.
Bình Luận (0)
Comment