1
Nhiều năm sau đó, khi đã dẫn đầu quân phản binh tiến thẳng đến kinh đô, ta vẫn nhớ về cái đêm tối đen kịt cha ôm ta dặn dò chuyện hậu sự ấy.
Nhà ta rất nghèo.
Dù chúng ta ở vùng đất Giang Nam trù phú và đông đúc, trong nhà có đến tám mẫu nương dâu, kể cả khi bà nội và mẹ ta nổi tiếng gần xa với tay nghề nữ công dệt lụa hoa thì nhà ta cũng vẫn chẳng thể khấm khá hơn.
Ngoài ra, ngày mười lăm mỗi tháng còn phải nộp thuế đều đặn. Thuế đinh, thuế ruộng, lao dịch* ép cha ta đến còng cả người; lụa thêu tinh xảo, gấm dâu**, tất cả đều phải dâng lên cho các đại nhân trong triều.
*Nguyên raw là ba từ dưới đây:
算赋: Là loại thuế dựa trên số lượng người trong hộ gia đình, thường áp dụng cho các hộ dân cư. Loại thuế này có thể hiểu là thuế thân, đánh vào cá nhân hoặc hộ gia đình.
丁役: Là nghĩa vụ lao động bắt buộc (lao dịch), chủ yếu dành cho người đàn ông trong các hộ dân cư. Những người này phải thực hiện lao động công ích cho nhà nước, như xây dựng công trình công cộng hoặc phục vụ trong quân đội.
田租: Là thuế đất đai, đánh vào diện tích đất canh tác mà người dân sở hữu hoặc sử dụng. Đây là một loại thuế nông nghiệp dựa trên diện tích đất trồng trọt của mỗi hộ gia đình.
** Đoạn này nguyên raw là 精米丝绣 桑锦, tui có đi tra thử thì là:
“精米” nghĩa là hạt gạo tinh xảo, biểu thị cho sự tỉ mỉ, tinh tế trong quá trình sản xuất.
“丝绣” là thêu lụa, chỉ nghệ thuật thêu trên vải lụa bằng tơ tằm.
“精米丝绣” có thể hiểu là những sản phẩm thêu tay trên lụa với kỹ thuật tinh xảo, đạt đến mức độ chi tiết cao. Đây là loại thêu rất công phu và thường được dùng trong các trang phục hoặc đồ trang trí cao cấp.
桑锦:
“桑” nghĩa là cây dâu, nguồn thức ăn chính của tằm để tạo ra tơ lụa.
“锦” là gấm, một loại vải sang trọng có hoa văn đẹp, thường dày và chắc chắn.
“桑锦” là loại gấm làm từ tơ tằm ăn lá dâu, mang đặc tính mềm mại, bóng bẩy và độ bền cao. Loại gấm này thường được dùng để may trang phục truyền thống hoặc làm các vật phẩm nghệ thuật.
Năm ta mười bốn tuổi, trên huyện nói phải kiểm tra lại hộ khẩu, chia lại nương dâu.
Vì muốn được nhận thêm hai mẫu đất nên cha ta đã báo sai tuổi của đệ đệ, rất nhiều người trong thôn cũng làm theo như vậy. Nhưng nào ai ngờ tới đang lúc chiến sự căng thẳng triều đình lại chiêu binh, bỗng nhiên tên đệ đệ ta lại có trong danh sách.
Thằng bé mới có chín tuổi.
Đừng nói đến cưỡi ngựa ra trận, ngay cả áo và mũ giáp cũng chẳng thể tự mặc lên được. Bàn tay nhỏ bé đó cố gắng cầm lấy cây thương, chật vật mãi. Đôi chân ngắn như cây củ cải đảo bên trái rồi lại đảo qua bên phải sau đó mất thăng bằng rồi ngã bẹp xuống dưới đất, nửa ngày không bò dậy nổi.
Mẹ ta lo đến phát sốt, cha ngồi gần cái lò sưởi bên đầu giường phì phèo tẩu thuốc, còn bà nội ta thì khóc suýt ngất đi.
Gió Nam cương liệt, nhẹ nhàng ôm lấy ta, nuôi lớn ta, dạy dỗ ta, xót thương phụ mẫu sinh ra ta cực nhọc.
Ta quỳ trên mặt đất, nói: "Con đi."
Từ ấy ta rời bỏ hồng trang, tháo trâm cài xuống, leo lên con ngựa chiến, từ một Chu Tiểu Ngọc biến thành Chu Tiểu Nguyên.
Chớp mắt đã hai năm trôi qua.
Ta được phân vào đội ngũ của Trần phó tướng, theo ông rong ruổi hơn nửa nước Sở, đến một thành nhỏ tên Nam An, cùng nhau tắm m á u truy kích quân Nhu Nhiên.
Trần phó tướng là một đại nam nhân cứng rắn như thép, một người dù có phải c ạ o xương chữa bệnh cũng chưa bao giờ thay đổi sắc mặt.
Ta đã từng tận mắt thấy ông trúng đến ba mươi hai mũi tên mà vẫn uy vũ giương cao đao truy sát tàn quân địch đến cùng đường. Mái tóc ông rũ xuống mặt, m á u văng đầy người như thể ác quỷ bò lên từ địa ngục, dọa cho lũ giặc sợ đến nói năng lộn xộn.
Theo lời ông, đó là: “Con m ẹ nó, ông đây chỉ cần còn thở là còn đứng dậy gi giặc!”
Nhưng giờ đây xương cứng đã bị nghiền thành th ị t nát, máu nóng đã chảy cạn dòng. Thi thể của ông đè nặng lên người ta.
Ta gắng sức đẩy ra, m á u dính nhầy nhụa, mùi tanh xộc thẳng vào mặt khiến ta suýt n ô n mửa. Ta lảo đảo quỳ trong đống xác đồng đội, lục phủ ngũ tạng như muốn lộn ngược lên, chỉ khẽ động đậy thôi cũng đau buốt vô cùng.
Ký ức ta bắt đầu dừng lại từ khoảnh khắc nghe tiếng cười đau đớn đầy tuyệt vọng của Trần phó tướng khi nhìn thấy thánh chỉ ấy.
Khi đó ông đã chịu nhiều vết đao ch ém, đang ch ém gi trực diện với quân Nhu Nhiên, bị tướng lĩnh quân địch ch ặ t đứt một cánh tay, để lộ ra vết cắt sâu gồ ghề, hai người lính nhỏ thề sống ch cõng ông đến nơi đây.
Sau tảng đá xám bị gió bào mòn, chúng ta thất bại như chó nhà có tang, là chúng ta lạc loài không nơi nương tựa...
Rõ ràng chúng ta sắp thắng rồi, rõ ràng là có thể thắng.
Chúng ta đã đánh vào tới đại bản doanh của Đại hãn Nhu Nhiên. Chỉ cần viện binh đến thì người chiến thắng sẽ là chúng ta, là người Hán, là Đại Sở của chúng ta!
Ta trở mình lục lọi gói đồ để tìm thuốc cầm máu cho Phó tướng. Ông nằm sau tảng đá cười lớn, vừa cười vừa khóc, mắt chảy ra cả m á u, khắp cơ thể cũng toàn là m á u:
“Ta là một Tướng quân, ta có thể hy sinh tất cả cho thành trì sau lưng ta... Nhưng sao Bệ hạ lại muốn hòa đàm, sao phải hòa đàm…”
“Vị Bệ hạ tốt đẹp kia của chúng ta chẳng phải vẫn luôn như vậy sao?”
Người đổ thêm gáo nước lạnh ấy chính là Tạ Hòe An, phượng hoàng có đôi cánh vàng trong quân doanh.
Trên mặt hắn bị xăm chữ “tội”, lời lẽ sắc bén cay nghiệt, võ công lẫn khẩu khí đều phi phàm, ngay cả Trần phó tướng cũng phải dè chừng hắn.
Trong quân doanh ai cũng e sợ hắn.
Từng có một tân binh dám cợt nhả chế giễu hình xăm trên mặt hắn, hôm sau liền bị hắn bắt ăn phân ngựa.
Nhưng hắn cũng là người duy nhất trong quân doanh biết ta là nữ nhi.
Hè năm ngoái nóng như lửa đốt, như thể Hậu Nghệ chưa bao giờ bắn hạ chín mặt trời* khác vậy.
*Hậu Nghệ: là một nhân vật truyền thuyết cổ đại Trung Hoa, được hình tượng hóa là một xạ thủ vĩ đại. Tương truyền, trước đây 10 mặt trời đồng loạt xuất hiện, chỉ có Hậu Nghệ ra tay bắn hạ bớt mặt trời, dương gian lại trở lại tốt tươi, vì chiến công đó ông trở thành một vị thần, xưng gọi Tiễn Thần (箭神)
Mỗi ngày chúng ta phải rèn luyện chạy dã chiến năm mươi vòng, lại còn luyện giáo, tập bắn tên. Một ngày kết thúc, mỗi người đều có thể vắt ra đến hai thùng mồ hôi.
Nửa đêm hôm ấy, ta theo thói quen mò ra dòng sông ở ngoại ô. Trong ánh sáng lập lòe của đom đóm, ta thỏa sức tắm rửa, bỗng nhiên gặp vài tiểu binh của đội bên. Họ bơi về phía ta: "Nguyên Tử, đến chơi cùng đi!"
Ta cuốn lấy bộ y phục mùa hè, định lui về phía bờ. Nhưng chân ta lại bị rong cỏ quấn lấy, nhất thời không đứng lên được, cũng không trốn được đi đâu, chỉ có thể trơ mắt nhìn họ bơi đến ngày càng gần, ngày càng gần…
Trong lòng ta lạnh toát.
Đúng lúc ấy, một bình hồ lô rượu bay thẳng tới khiến người kia “Á” lên một tiếng, lớn tiếng quát: “Ai, ai dám ném ta?”
Một giọng nói lạnh lùng vang lên: "Ta."
Ta ngước lên nhìn, trong ánh sáng chập chờn, Tạ Hòe An đang nằm tựa trên cây dẻ bên bờ sông, mượn ánh trăng đọc sách, mặt trắng, tóc đen, hàng mi đen dài, vẻ mặt lạnh lùng như băng.
Tên tiểu binh đứng trong nước nổi giận: “Tạ Hòe An, ngươi làm gì vậy, kiếm chuyện hả?”
“Phải thì sao.” Tạ Hòe An nói: "Các ngươi làm ồn, ta không đọc sách được, còn không mau biến?”
Tên tiểu binh tức giận mặt đỏ tía tai, leo lên muốn đánh hắn nhưng bị hai đồng đội kéo đi, vừa kéo vừa nói: “Ngươi không muốn sống nữa à, trong sân tập ai đánh lại hắn chứ, đi đi, ta nghe nói ở làng bên cũng có con sông…”
Sau đó, ta hỏi hắn vì sao lại giúp ta.
Tạ Hòe An mở mắt, đôi mắt như đóng băng ấy bỗng nhiên lại dịu dàng như dòng suối tháng Hai.
Hắn nói: “Ngươi rất giống mẹ ta…”
Mẹ?
Ta lảo đảo một cái, suýt nữa ngã lại xuống sông.
...
Xung quanh toàn là máu.
Một biển máu, máu tươi đỏ rực, ta cố gượng đứng dậy nhưng lại bị vấp ngã vào xác đồng đội.
Trong bụng đói cồn cào, ta vừa bò vừa lê bước, cố nén không để mùi tanh nồng xộc vào mũi, ngập vào phổi, chui sâu vào lục phủ ngũ tạng, ta lật lên từng xác từng xác một, ta muốn tìm Tạ Hòe An.
……
Khi kỵ binh Nhu Nhiên đuổi đến nơi, trong hang động chỉ còn một đội vệ binh, tổng cộng bốn mươi người, chẳng đủ cho một nồi canh của chúng.
Trần phó tướng, người từng bách chiến bách thắng, vừa ngồi dậy thì một mũi tên lao tới xuyên thủng trán ông.
Phập —— phập —— phập ——
Liên tiếp có người gục xuống, là người của chúng ta, chỉ có người của chúng ta. Đồng đội của ta, chiến hữu của ta, những người anh em cùng chung máu thịt…
Tạ Hòe An trúng một mũi tên vào ngực.
Giữa mưa tên dày đặc, sức mạnh của một người đối đầu với dòng thác lũ chỉ là vô nghĩa. Chúng ta thậm chí còn không có tư cách kề cận để chiến đấu. Cứ như vậy từng người, từng người tuyệt vọng ngã xuống.
Một mũi tên nữa lao tới, ta kéo Tạ Hòe An chạy, cả hai ẩn nấp trong góc ch của hang đá.
Trên đầu có tia sáng mỏng manh, trong vũng nước nhỏ dưới đất, ta nhìn thấy Tạ Hòe An. Một Tạ Hòe An mặt tái nhợt, thê lương, máu đang không ngừng chảy.
Không kịp suy nghĩ nhiều, mưa tên liền ngừng lại, kỵ binh Nhu Nhiên tiến vào thu xác. Đối với những ai còn thoi thóp, chúng sẽ đ â m thêm một nhát xuyên tim.
Ta nắm chặt thanh kiếm, không mong sẽ thoát được ra ngoài vì đó chỉ là chuyện thần thoại, mà khi ấy ta chưa đủ sức để tạo nên thần thoại. Khi ấy ta mới mười sáu, trong lòng chỉ nghĩ trước khi ch có thể kéo thêm một hai kẻ xuống ch cùng.
Nhưng Tạ Hòe An lại ôm chặt lấy ta.
Hắn khẽ nói: "Giả ch đi."
Rồi ta bị hắn đè xuống đất, một đám lớn quân Nhu Nhiên tràn vào, nói một tràng những lời mà ta không hiểu. Sau đó cả đám “chiến lợi phẩm” chúng ta bị kéo lê sau ngựa, đưa về hố chôn tập thể.
Sỏi đá cứa vào da thịt, mỗi khoảnh khắc ta đều ước mình thật sự là một kẻ đã ch. Không thể kêu lên, không thể cử động, chỉ có tứ chi tê liệt và thời gian chầm chậm trôi qua.
Nhưng Tạ Hòe An còn đau đớn hơn ta.
Khi kỵ binh Nhu Nhiên thúc ngựa giẫm lên xác của chúng ta, đùa giỡn trên những thân xác ấy, Tạ Hòe An đã che chắn cho ta.
Ta khẽ hé mắt, tận mắt thấy bàn tay trái của hắn bị giẫm nát. Tiếng "rắc" vang lên khô khốc, máu văng tung tóe, hắn gục đầu lên vai ta, từ đầu đến cuối không phát ra một tiếng rên rỉ.
Tàn dương đỏ như màu máu, ta lục tìm bằng đôi tay trần trong hố chôn người ch.
Đến cái xác thứ một trăm hai mươi, cuối cùng ta cũng nhìn thấy hắn, cả người đẫm máu, mặt trắng bệch nhưng bên mũi vẫn còn nhịp thở yếu ớt.
Ta vừa cười vừa khóc, gục đầu vào cổ hắn, nghẹn ngào gọi: “Tạ Hòe An.”
Hoàng hôn buông xuống.
Ta buộc Tạ Hòe An lên lưng mình, người nam nhân cao tám thước giờ đây chỉ còn lại chút hơi tàn. Ta không ngừng ngã, lại không ngừng đứng lên, tay chân lại thấm đẫm máu, sao con người lại có thể chảy ra nhiều máu như thế này.
Phía sau ta là hố chôn người ch đen kịt.
Sáu nghìn người, chúng ta cùng đến đây, cùng truy kích quân Nhu Nhiên với Trần phó tướng, giờ tất cả đều nằm ở đó.
2.
Trên bầu trời là những vì sao tĩnh lặng, gió lạnh thổi ùa đến từ muôn phương. Máu trên tay chân ta vừa thấm đẫm rồi lại đóng vảy, vảy vừa đóng lại rồi máu lại thấm ra. Ta cứ thế cõng Tạ Hòe An, cứ ba bước là lại ngã, năm bước là lại lê lết mà bò đến được làng có người sống.
Ta nghĩ chắc khuỷu tay và đầu gối mình đã thối rữa rồi, có lẽ đã lộ cả xương ra ngoài nên da thịt mới đau đến tê dại thế này.
Khi gần như không thể chịu đựng được nữa, may thay có một bà lão đi đường đã đỡ chúng ta lên xe bò rồi chở đi một đoạn. Ta cố gắng mở mắt ra, nhìn thấy một bà lão nông dân mặc đồ rách rưới nhưng nụ cười hiền hậu.
Có mấy lần bà ấy đưa tay về phía gói vải quấn ở thắt lưng rồi lại rụt về. Cuối cùng như đã quyết tâm điều gì đó, với một tư thế vô cùng thành kính, bà ấy mở lớp gói vải ra, cẩn thận lấy ra một quả trứng gà rồi nhỏ lòng trứng vào kẽ môi của ta và Tạ Hòe An.
Ôi trứng gà, trứng gà.
Ngươi là nguồn sống, khiến trái tim đang teo tóp vì đói khát lại có thêm sức sống mới.
Khắc sâu gương mặt bà lão vào tâm trí, trước khi ngất đi, ta nghĩ, cảm tạ bà, ơn cứu mạng này, dù kết cỏ ngậm vành thì cả đời này con cũng phải báo đáp...
Nhưng rồi ta không còn cơ hội báo đáp bà ấy nữa.
Hai tháng sau, ta trở thành học trò của một hiệu thuốc ở Nam An. Trời chưa sáng đã phải lên núi hái thuốc để đổi lấy việc Tạ Hòe An được chữa trị miễn phí.
Vách núi không dễ leo, khi ta lê cái thân đẫm máu xuống núi thì đã gần giờ Dậu. Đúng lúc đó ta gặp được một đám tang, người nằm trong quan tài chính là ân nhân của ta.
Nam An sắp bị cắt ra chia cho người Nhu Nhiên, dân trong thành ngoài thành sẽ như gia súc bị dời khỏi quê hương.
Quan triều đình đến giám sát nói rằng, Thánh thượng nhân đức đã chuẩn bị sẵn một vùng đất màu mỡ trong nội thành cho bà con. Người nào đến đó sẽ được chia đất chia nhà, còn được miễn thuế hai năm.
Nhưng dù là tổ vàng tổ bạc, sao bằng được ổ rơm của chính mình?
Chẳng ai muốn đi. Chẳng ai nghĩ đến chuyện rời đi.
Vì sự thanh bình giả tạo của kinh thành Hoài Dương, thà nhượng mười ba thành ở biên ải cho dị tộc để đổi lấy nửa giang sơn yên ổn, chứ không muốn chiến đấu đẫm máu, giữ vững khí phách của người làm tướng sao?
Xương cốt của hai tướng sáu bộ mười bảy thứ sử trên điện Kim Loan sao lại mềm yếu đến thế?
Bà lão ân nhân của ta chỉ là một trong hàng vạn người không muốn rời khỏi quê hương.
Quan binh đến càn quét đã ném đồ đạc của bà ấy ra ngoài, chăn màn quần áo vương vãi khắp nơi, bà ấy ngồi trên đó khóc lóc thảm thiết: "Ta không đi, ta không đi…"
Tiểu binh lính tức giận nói: "Không đi? Không đi đợi đến khi thiết kỵ Nhu Nhiên đến, bắt các ngươi làm nô lệ phải không? Mụ già ngoan cố này!"
Bà lão phẫn nộ đáp: "Ta không đi! Ta cũng không làm nô lệ!"
Trong lúc giằng co xô đẩy, đầu bà lão đập vào xà nhà, tạo thành vết thương to bằng cái bát.
Máu chảy xuống đất, chảy vào trong nhà, bà lão lẩm bẩm một câu: "Có ch cũng phải ch ở ngay cửa nhà mình", rồi cứ thế nhắm mắt.
Người khiêng linh cữu là cháu trai bà ấy, một thiếu niên mười bốn tuổi với nước da ngăm đen.
Cậu ấy lau mồ hôi trên trán, nói với ta: "Cha mẹ ta đều ch dưới tay Nhu Nhiên, ta sẽ không đi đâu cả. Dù chỉ còn một nắm xương ta cũng phải được chôn ở mảnh đất của mình..."
Ta quỳ xuống đất dập đầu ba cái thật mạnh. Dòng lệ nơi khóe mắt lặng lẽ trào ra.
Bà lão không hiểu, bà ấy sống cả đời ở đây, sinh ra và lớn lên tại đây, tại sao chỉ một câu nói nhẹ nhàng là có thể để mảnh đất này cho Nhu Nhiên, bắt bà di cư đi phương xa rồi trở thành cô hồn dã quỷ không còn quê hương chứ?
Ta cũng không hiểu.
Khi Trần phó tướng dẫn quân vào đóng ở Nam An, cảnh dân chúng đứng hai bên đường chào đón vẫn còn rõ mồn một. Tại sao chỉ qua hai tháng, chúng ta lại từ niềm hy vọng của Nam An mà biến thành nỗi đau của Nam An, còn là nỗi đau vì chim cắt cướp tổ chim khách.
Ngày hôm sau, dân Nam An và quan binh càn quét đã xảy ra xung đột quy mô lớn.
Nông dân cầm giáo cầm gậy không lùi nửa bước, quan binh múa đao múa kiếm, oai phong lẫm liệt. Rất nhanh, mười ba người cầm đầu gây rối đã bị bắt, bị trói vào sau ngựa kéo lê đi. Trong đó có cả cháu trai của bà lão ân nhân.
Cơn giận dữ như nước sông dâng trào trong ta.
Phẫn nộ cuộn lên như cơn cuồng phong ở biên ải tháng tám, ta đá một nửa cây thương gãy lên từ mặt đất, ném nó bay "vù vù vù" trong gió, xuyên thủng tim và phổi của tên lính đang đánh đập dân chúng.
Tên đội trưởng tức giận gầm lên: “Là tên phản tặc nào, muốn tạo phản phải không? Còn dám gi lính giữa phố, theo luật nước Sở thì tội này phải c h ặ t ngang lưng!"
Ta nhặt một thanh kiếm rơi từ dưới đất lên, cười nói: "Là ta đây. Lính của Đại Sở, ăn thuế dân, dùng tiền dân, không nghĩ đến việc bảo vệ dân mà ngược lại còn chà đạp nhục mạ họ, gi những tên lính như vậy thì đã sao?"
Gió thổi ào ào, cứ mười bước là ta gi một người, nghìn dặm không lưu dấu.
Dân Nam An theo sát phía sau ta.
Chúng ta tiến bước, họ lùi bước.
Cuối cùng, tên đội trưởng quỳ trước mặt ta, từ khoé mắt chảy ra dòng lệ rồi ôm mặt đau đớn nói: "Ta cũng không muốn thế, ta cũng không muốn thế đâu. Ta không muốn đánh trận như thế này rồi gi người của mình. Nhưng đây là ý chỉ của Thánh thượng, ta không còn cách nào khác..."
Kiếm lướt qua mặt hắn rồi cắm thẳng vào tường.
Ta quay đầu nói: "Ba chữ 'không còn cách' này ta đã nghe quá nhiều lần rồi. Ta đến đây để cứu người, không phải để gi người. Ngươi còn một con đường, con đường đó chính là đường đường chính chính đứng dậy."
Phải bốn tháng sau Tạ Hòe An mới có thể xuống giường.
Khi đó trấn Nam An đã không còn nhiều lính nữa. Có rất nhiều dân trong thành không đi, những người ở lại được biên chế vào đội ngũ của ta, ba người một tổ tuần tra khắp thành.
Tay trái của Tạ Hòe An đã bị tàn phế.
Nó khô quắt, trống rỗng. Ta phải nhờ Vương sư phụ ở tiệm rèn đúc một bàn tay sắt, khi lắp cho hắn, ta đột nhiên nói một câu không đầu không đuôi: "Ta muốn bảo vệ Nam An."
Hắn nói: "Ngươi ngốc quá."
Ta lắc đầu, nói: “Đâu còn cách nào khác, ai bảo ta đã ăn trứng gà của họ? Ngươi cũng đã ăn, ngươi cũng phải bảo vệ họ. Chúng ta không thể giao thành này và hai vạn hộ dân trong thành cho Nhu Nhiên được."
Kỵ binh Nhu Nhiên ập đến vào một buổi trưa tháng sau.
Họ hát những bài ca dị tộc trên lưng ngựa, một bầu không khí hân hoan vui vẻ.
Trinh sát của ta báo rằng Nhu Nhiên vừa tiếp quản trấn Môn Các phía trước. Chúng đã c h ặ t những người già và trẻ em còn ở lại trong trấn thành nhiều mảnh, gót ngựa sắt giẫm đạp lên những cánh đồng màu mỡ, lúa mì đều bị nghiền thành bột.
Nói xong trinh sát lau nước mắt, chửi một câu "m ẹ k i ế p chúng nó".
Đừng khóc nữa, huynh đệ của ta.
Những gì chúng giẫm nát không phải là lúa mì của chúng ta, mà là phẩm giá cuối cùng của nước Đại Sở. Giờ đây chúng ta phải giữ vững cột sống này, đánh đuổi lũ khốn kiếp đó về thảo nguyên chăn cừu của chúng.
Nhu Nhiên chắc chắn sẽ không đợi được rượu ngon và nô lệ của chúng. Những gì đang đợi chúng chỉ là những mũi tên trên thành đã được nuôi dưỡng sức mạnh, hàng trăm hàng nghìn mũi tên, lạnh lẽo, tỏa ra ánh sáng rợn người.
Muôn tên bắn ra đã đẩy lùi đợt kỵ binh Nhu Nhiên đầu tiên. Nhưng rất nhanh, đã có đợt thứ hai, thứ ba...
Tướng ngoài không theo lệnh vua, hậu quả lớn nhất chính là ngươi sẽ không có viện binh.
Không có viện binh nên Trần phó tướng đã ch trong hang đá vô danh, ch một cách nhục nhã. Không có viện binh nên Nam An là hòn đảo cô lập hoàn toàn, thứ đợi chúng ta là những đêm không dám ngủ và những cuộc tấn công không ngừng nghỉ ngày đêm.
Một nhóm người trên tường thành lên lên xuống xuống. Cháu trai của bà lão ân nhân đã trúng mười bảy nhát dao trong một lần đánh địch, cậu ấy nằm trên cáng rồi nhìn về phía ta: "Ta vẫn còn làm được việc... Dù thế nào, ta vẫn muốn làm được việc gì đó..."
Ta xoa đầu cậu ấy, giọng điệu có thể nói là dịu dàng: "Đi gặp lang y trước đã. Chúng ta sẽ thắng."
Tối hôm đó ta và Tạ Hòe An trực đêm. Chúng ta xa xỉ một bữa, bày một bát rượu trên đầu tường thành. Hắn lặng lẽ nhìn ta một hồi lâu mới hỏi: "Ngươi có căm hận thời đại này không? Nó đầy tội ác, hoang đường, tàn nhẫn, khiến một người thiếu nữ như ngươi phải bị ép mặc lên áo giáp..."
"Tham quân nói sai một câu rồi." Ta ngắt lời.
"Câu nào?"
Ta uống cạn chén rượu trên bàn: "Ta không bị ép buộc."
"Cái gì?" Hắn lại hỏi.
Ta nói: "Ta không phải bị ép buộc mặc áo giáp. Có lẽ lúc đầu là vậy nhưng bây giờ tuyệt đối không phải."
"Làm quỷ loạn thế thì đừng kêu than. Ta không hận thời đại này, ngươi cũng đừng hận. Hãy cùng ta kết thúc thời chiến loạn này đi Tạ Hòe An."
Bên ngoài thành lại có một toán nhỏ kỵ binh Nhu Nhiên đến quấy rối.
Ta bảo Tạ Hòe An giúp ta hâm nóng rượu, ta rút thanh kiếm lạnh rồi bay người xuống lầu. Dưới thành là những tiếng chém gi loảng xoảng, máu bắn như mưa. Chuông ngọc vang ba tiếng, khi ta cầm kiếm trở về thì rượu đã được hâm nóng.
Ta hỏi hắn: "Lúc nãy trước khi xuống thành, ngươi nói với ta điều gì, hình như ta không nghe rõ."
Đôi môi Tạ Hòe An run rẩy: "Lúc nãy ta nói, bảo ngươi cẩn thận..."
Ta mỉm cười: "Ngươi đang nghĩ gì vậy, chỉ cần ta còn cầm kiếm, làm sao ta có thể thua được?"