Sau Khi Nhận Lầm Vai Ác Thành Ca Ca

Chương 79

Mấy ngày trước Hoắc Song cố tình để lộ sơ hở trước mặt lão Hoàng đế, để lão tóm hai kẻ xui xẻo này đi lăng trì. Hiện tại, ở bên phía lão Hoàng đế, y đang diễn vở kịch “nghi ngờ mình bị phát hiện, lo lắng không yên”. Phải một giờ sau mới cắt đuôi được những người theo dõi, đến chỗ thường truyền mật tín.

Không ngờ người tiếp nhận hôm nay lại là Triển Nhung.

Hoắc Song thường qua lại với phủ Định Vương, người trung gian chịu trách nhiệm truyền tin thường là Triển Nhung.

Mặc dù hai người không ưa gì nhau, cũng không thích gặp mặt đối phương, nhưng vì mối quan hệ giữa các chủ tử, họ đành phải cố gắng hợp tác một cách thận trọng.

Tuy nhiên, sau khi thành công cài người vào điện Dưỡng Tâm, Triển Nhung hiếm khi tự mình đến nữa.

Hoắc Song cũng hiếm khi tự mình truyền tin, nhưng hôm nay Chung Yến Sanh trông rất trịnh trọng, còn có tới hai lá thư nên y đích thân đi.

Hai người mắt to trừng mắt nhỏ với nhau một lúc, Triển Nhung khoanh tay, giọng mỉa mai: “Chủ tử bảo ta vào cung xem tình hình của tiểu Điện hạ. Ngươi trừng ta làm gì, không muốn thì đừng tự mình đến đây.”

Hoắc Song giữ nguyên vẻ mặt, móc ra hai bức thư: “Bức thư thứ nhất giao cho Định Vương, bức thư thứ hai gửi cho Lâu đại phu.”

Sau khi trở về, Chung Yến Sanh và Tiêu Lộng gần như ngày nào cũng viết thư từ qua lại. Triển Nhung đã quá quen với việc này nên chỉ hờ hững “Ừ” một tiếng rồi nhận lấy thư, nhìn về phía điện Minh Huy: “Mấy ngày nay tâm trạng của tiểu Điện hạ thế nào rồi? Tiểu Điện hạ có hài lòng với đầu bếp do Điện hạ sắp xếp không?”

Mấy ngày nay Chung Yến Sanh rất vui vẻ.

Ngày nào cũng chạy đến điện Dưỡng Tâm hóng chuyện, lão Hoàng đế còn không có thời gian lo cho bản bản thân, đâu thèm để ý đến cậu.

Thêm việc thức ăn không còn khó ăn như trước, cơm no áo ấm, sắc mặt cũng hồng hào hơn nhiều.

Dù Hoắc Song không thích tính cách của Triển Nhung, nhưng không đến nỗi câu này cũng không trả lời được: “Cũng được.”

“Chậc, cái gì mà cũng được, ngươi không biết nói chuyện à.”

Hoắc Song giờ đã không còn dễ bị Triển Nhung chọc giận nữa, mặt lạnh lùng, nghiêm túc nhắc nhở: “Bức thư thứ nhất là giao cho Định Vương, bức thư thứ hai là gửi Lâu đại phu, đừng có nhầm…”

Đã nói bao nhiêu lần rồi chứ, Triển Nhung nhét cả hai bức thư vào ngực: “Có một câu mà nói mãi, ta đi đây.”

Ra khỏi cung, trở về phủ Định Vương, Triển Nhung lấy hai bức thư xếp chồng lên nhau ra, mới phát hiện trên bìa thư đều trống không.

Để phòng ngừa có người nhìn lén, không ghi gì trên đó cũng là bình thường.

Nhưng cái nào là cho chủ tử, cái nào là cho Lâu đại phu?

Cái tên Hoắc Song đó thật là khó hiểu, chẳng nói rõ ràng gì cả.

Triển Nhung do dự một lúc, cũng không dám tự ý mở thư ra xem. Vì để tránh giao nhầm thư, khi nhảy vào sân của Tiêu Lộng, hắn ta đành đưa cả hai bức thư cùng lúc: “Chủ tử, có thư của tiểu công tử.”

Thư gửi cho Lâu đại phu, chủ tử đọc cũng không sao.

Có gì mà không thể xem chứ, đều là người nhà cả mà.

Tin tức về Đức Vương trong cung lan nhanh như gió, Tiêu Lộng đã xem qua, hiện tại đang khoác chiếc áo choàng màu xanh lam lười biếng dựa vào cột hành lang, một tay cầm roi ngựa tùy ý quơ quơ.

Nghe thấy Triển Nhung báo cáo, hắn mới ngẩng lên, vẻ mặt trở nên nghiêm túc: “Đưa đây.”

Con mèo lớn dưới hành lang vẫy đuôi, đôi mắt thú màu xanh xám dõi theo quỹ đạo của chiếc roi đang đung đưa qua lại, phát ra những tiếng gầm gừ trầm thấp, rồi đột nhiên lao tới đuổi theo chiếc roi, chơi đùa hăng say.

Triển Nhung dâng thư lên, đứng bên cạnh nhìn Đạp Tuyết nhảy tới nhảy lui, dùng móng vuốt lớn bắt lấy roi ngựa, trong lòng thầm ghen tị.

Bao giờ Đạp Tuyết mới chịu chơi đá bóng với hắn ta đây.

Tiêu Lộng dựa vào cột, một tay mở thư, vừa nhìn thấy nét chữ quen thuộc thì khóe miệng không tự chủ được cong lên, đọc từng chữ một.

Rồi nụ cười dần biến mất.

Khuôn mặt không một biểu cảm.

Cuối cùng lông mày hắn hơi nhướng lên, vẻ mặt trông rất kỳ lạ, như là muốn cười lại như đang rất tức giận.

Triển Nhung hoảng hốt: “?”

Bình thường chủ tử đọc thư của tiểu Điện hạ đều rất vui vẻ, dù trước đó có giận thế nào thì ngay giây sau cũng sẽ nở nụ cười, nhưng đây là chuyện gì thế?

À đúng rồi, có một bức thư là gửi cho Lâu Thanh Đường.

Triển Nhung đoán rằng có lẽ tiểu Điện hạ bị bệnh, muốn lén qua mặt chủ tử để tìm Lâu đại phu mới khiến chủ tử giận đến vậy, bèn cẩn thận bổ sung: “Chủ tử, có một bức thư là tiểu công tử muốn gửi cho Lâu đại phu.”

Tiêu Lộng đọc đến đoạn cuối của bức thư, giận đến nỗi suýt vò nát tờ giấy, ngửi thấy mùi hương nhàn nhạt trên đó mới dừng lại một chút, rồi vuốt phẳng tờ giấy lại, làm phẳng những nếp nhăn: “Ồ.”

Nghi ngờ hắn mắc bệnh kín, không đủ sức, dương mà không cương đúng không?

Tiêu Lộng cảm thấy vừa giận vừa buồn cười.

Chung Yến Sanh, chờ đấy mà xem.

Lần sau hắn nhất định phải bắt đứa nhỏ đó tự miệng đọc bức thư này cho hắn nghe.

Ngoài cửa sổ bỗng dưng đổ mưa lất phất.

Cơn mưa vào mùa này nhỏ nhưng dày đặc, lạnh buốt. Nếu đi một vòng trong mưa thì cái lạnh có thể thấm vào tận xương.

Chung Yến Sanh bất ngờ hắt hơi, xoa xoa mũi, cảm thấy có lẽ do gió lạnh thổi vào, bèn chạy đến đóng kín cửa sổ lại. Qua khe cửa, cậu thấy Hoắc Song đang đội mưa quay về, bèn bảo Phùng Cát mang một bát canh gừng tới, đồng thời hỏi: “Đã gửi hết thư đi chưa?”

Dù Triển Nhung có không đàng hoàng thế nào, cũng không đến mức làm sai đâu nhỉ.

Hoắc Song hơi cảm thấy bất an trong lòng, nhưng sau đó vẫn gật đầu: “Bẩm Điện hạ, thư đã được đưa ra khỏi cung.”

Hoắc Song làm việc rất đáng tin, Chung Yến Sanh yên tâm, nhàn nhã ngồi chống cằm nghe tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ.

Mùa thu năm nay thật đúng là mùa của những chuyện tốt đẹp.

Đức Vương có ý định đầu độc Bệ hạ, bị bắt giam vào ngục. Sự việc xảy ra trước mặt nhiều Thái y, người đông miệng lắm, thêm vào nhiều người có ý định hóng hớt, lão Hoàng đế có muốn giấu cũng không giấu được.

Chuyện xảy ra vào buổi sáng, đến tối đã lan truyền khắp nơi, làm tất cả triều thần đều kinh hãi.

Sao có người dám làm chuyện như vậy trên địa bàn của Hoàng đế, còn ngay trước mặt bảy tám Thái y nữa chứ?

Nhưng khi nghĩ đến kẻ làm chuyện này là Đức Vương Điện hạ lúc nào cũng mắt cao hơn đầu, kiêu căng ngạo mạn, thì lại thấy… đây đúng là việc mà Đức Vương có thể làm ra.

Nhưng điều này thật quá hoang đường, sao gã dám làm chứ?

Trăm quan trong triều đều không thể hiểu nổi, nhưng một hồi lại cảm thấy có thể hiểu được.

Hai năm qua kể từ khi phụng chiếu về Kinh, Đức Vương đã gây ra không ít chuyện rắc rối.

Tiệc riêng với các đại thần, tự tiện xông vào cung, đá bay Ngự sử vạch tội mình giữa lúc lâm triều, thậm chí còn bị đồn tham gia buôn lậu muối, chẳng qua là chưa có chứng cứ. Đạo đức cá nhân của gã cũng có vấn đề, ngay cả vị hôn thê của em mình mà cũng dám đụng, chuyện xảy ra khiến Thái thường Tự Khanh suýt chút nữa tức chết.

Tất cả những việc làm đó chẳng liên quan gì đến từ “Đức” trong tước hiệu của gã.

Với từng ấy việc xấu, vậy mà Bệ hạ vẫn chịu đựng, liên tục theo sau mông dọn dẹp hậu quả cho Đức Vương, rõ ràng là muốn đào tạo gã trở thành người kế vị, khiến các Ngự sử giận đến phát điên. Những tấu chương vạch tội Đức Vương được dâng lên trong hai năm qua đã gần bằng số tấu chương vạch tội Tiêu Lộng.

Nhưng sau khi tìm lại được tiểu Điện hạ được cho là Thập Nhất Hoàng tử kia, thái độ của Bệ đối với Đức Vương đã lạnh nhạt đi rất nhiều. Mấy ngày nay dù Đức Vương có nịnh nọt lấy lòng thế nào cũng không nhận được sự hài lòng của lão.

Từ nhỏ đến lớn vị Đức Vương Điện hạ này đều được nuông chiều quá mức, có lẽ thấy Hoàng đế ngày càng yếu đi lại không còn thiên vị mình nữa nên nảy sinh ác tâm, làm ra loại chuyện này cũng không có gì ngạc nhiên.

Đa số các đại thần đều không thích Đức Vương, thấy gã cuối cùng cũng gặp họa, trong lòng đều vui mừng hơn là kinh ngạc, ai cũng chờ xem kịch vui.

Tuy nhiên, điều khiến mọi người hơi thất vọng là Đức Vương vẫn khá cứng đầu. Dù từ nhỏ được nuông chiều, kiêu ngạo và coi trời bằng vung, nhưng gã cũng chưa ngu đến mức thừa nhận trong thuốc có vấn đề. Bị giam trong ngục lạnh lẽo một đêm, gã vẫn cứng miệng không chịu khai, chỉ cần có chút sức là lại lớn tiếng kêu oan, đòi gặp Bệ hạ để minh oan cho mình.

Dù sao gã cũng không thật sự hạ độc —— Dù Thái y có kiểm tra cặn thuốc, cùng lắm cũng chỉ phát hiện dược tính của thuốc kỵ nhau, có thể gây hại cho sức khỏe của lão Hoàng đế. Nhưng gã không thông dược lý, không biết cũng là bình thường, cứ đẩy dược sư trong phủ ra chịu tội là xong.

Chắc là lão Hoàng đế chỉ nhất thời tức giận thôi.

Nghĩ đến sự khoan dung và yêu thương của lão Hoàng đế với gã trước đây, trong lòng Đức Vương vẫn còn chút hy vọng.

Nhưng hy vọng đó nhanh chóng tan vỡ.

Tối hôm đó, Cẩm Y Vệ đến phủ Đức Vương bắt đi Đức Vương phi, Thế tử của Đức Vương và các mưu sĩ trong phủ. Những người trong phủ chỉ biết rằng Đức Vương đã bị bắt vào ngục giam, cũng không biết rõ tình huống ra sao, lòng người rối loạn, chỉ cần chịu chút cực hình là khai ra hết.

Vì vậy, ngày hôm sau, Đức Vương như ý nguyện được đưa đến gặp lão Hoàng đế.

Khi Đức Vương bị áp giải lên, Chung Yến Sanh cũng đang ở điện Dưỡng Tâm hóng chuyện. Có vẻ như hôm nay lão Hoàng đế bị Đức Vương làm cho tỉnh táo hơn, không đuổi cậu ra ngoài mà ngược lại giữ cậu trong thư phòng.

Khắc hẳn với thái độ thân mật trước kia, lần này cậu không được gọi lên ngồi bên cạnh lão Hoàng đế, mà phải đứng phía dưới.

Đứng một lúc, bắp chân Chung Yến Sanh bắt đầu mỏi, hơi hối hận vì không ngủ thêm trong phòng một chút rồi mới đến.

Ngay lúc này, Đức Vương bị áp giải lên.

Ở trong ngục hết một đêm, vị thân vương từng cao cao tại thượng nay không biết phát quan trên đầu đã rơi đâu mất, đầu tóc rối bù, cả người chật vật, sắc mặt tiều tụy. Nhìn thấy Chung Yến Sanh, gã cũng không còn vẻ kiêu ngạo khinh thường như thường ngày, chỉ vội vàng lao đến trước án thư của lão Hoàng đế, mở miệng kêu oan: “Phụ hoàng! Phụ hoàng minh xét, nhi thần thật sự không biết, nếu thuốc có độc thì sao nhi thần dám lấy thân mạo hiểm…”

Lão Hoàng đế được Điền Hỉ đỡ dậy, chậm rãi đi đến bên Đức Vương.

Cơn mưa phùn kéo dài từ hôm qua đến giờ vẫn chưa dứt, sàn nhà lạnh lẽo thấm vào tận xương đầu gối của kẻ đang quỳ trên sàn. Bầu trời u ám, Đức Vương không nhìn rõ mặt lão, chỉ cảm thấy đầu gối lạnh buốt, lời nói vô thức ngừng lại, ngập ngừng gọi: “Phụ hoàng?”

Một tiếng “Chát” vang lên, Đức Vương cảm thấy mặt mình đau nhói, bị tát đến đầu lệch qua một bên.

Tiếng tát kia rất vang dội, Chung Yến Sanh sợ hết hồn, không khỏi lùi lại một bước, đôi mắt xinh đẹp ngạc nhiên mở to, mím chặt môi không dám lên tiếng.

Đức Vương bị tát cho choáng váng, trong đầu ong ong một hồi, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng, lúc này mới hiểu ra tình hình.

Dù gã có cắn chặt răng không khai, thì những mưu sĩ trong phủ cũng sẽ mở miệng. Đám người đó chỉ là những kẻ cơ hội đến vì lợi ích, có mấy ai thật sự trung thành với gã?

Để bảo vệ bản thân, e rằng không ít người sẽ bán đứng gã.

Phụ hoàng đã biết gã làm gì với thuốc.

Trong đầu Đức Vương vang lên tiếng ù ù, hai chân bỗng dưng mềm nhũn, giọng nói mất hẳn sự tự tin: “Phụ hoàng…”

Lão Hoàng đế chắp tay sau lưng, lạnh lùng hỏi: “Ai là người đưa thuốc cho ngươi?”

Ngoại trừ Tiêu Lộng khó nắm bắt, đối với từng người lão Hoàng đế đều hiểu rõ như lòng bàn tay, biết chính xác xung quanh họ có thêm những người nào. Hai tháng trước, khi bên cạnh Đức Vương đột nhiên xuất hiện một mưu sĩ, lão đương nhiên cũng biết.

Đức Vương ấp úng đáp: “Nhi thần… nhi thần cũng không biết, kẻ đó tự xưng là Tù Lan tiên sinh, chưa bao giờ lộ mặt.”

Chung Yến Sanh chớp chớp mắt, thầm ghi nhớ cái tên này, đợi lát nữa sẽ báo lại cho Tiêu Lộng.

Cẩm Y Vệ áp giải Đức Vương cúi đầu bẩm báo: “Bẩm Bệ hạ, trong số những người bị bắt hôm qua không có người này.”

Lão Hoàng đế nhìn Đức Vương, ánh mắt dần lộ rõ sự chán ghét không thể che giấu: “Vô dụng.”

Bị lợi dụng cũng chẳng biết người lợi dụng mình là ai.

Đức Vương kinh hoàng không thôi, trong chút hy vọng yếu ớt xen lẫn lo lắng, khóc lóc biện hộ: “Nhi thần chỉ bị đám mưu sĩ kia giật dây, thật sự không có ý định hạ độc phụ hoàng. Phương thuốc, phương thuốc này là Tù Lan tiên sinh đưa cho nhi thần, nhi thần chỉ nhất thời mù quáng… Phụ hoàng minh xét, xin minh xét!”

Điền Hỉ đứng bên cạnh đỡ lão Hoàng đế, nghe Đức Vương mở miệng biện hộ thì lắc đầu không nói.

Không mở miệng biện hộ thì còn ổn, vừa mở miệng thì mọi chuyện đã chắc như đinh đóng cột, không còn cơ hội nữa.

Dù Đức Vương có khóc lóc, kêu gào thế nào, lão Hoàng đế cũng chỉ thờ ơ nhìn gã, khuôn mặt gầy gò không còn vẻ nhân từ như trước, thay vào đó là sự tàn nhẫn, hoàn toàn không còn tình phụ tử sâu đậm.

Đức Vương khóc lóc xong, dần dần hiểu ra điều gì đó dưới ánh mắt lạnh lùng của Hoàng đế, đôi môi run rẩy: “Ngài… ngài định vứt bỏ ta sao?”

Lão Hoàng đế quay mặt đi, ho khan vài tiếng, phất tay: “Dẫn đi.”

Cả người Đức Vương lạnh toát, biết rằng nếu lần này bị kéo đi thì sẽ không còn cơ hội nào nữa. Gã liều mạng giãy giụa, máu dồn lên não, nói năng lộn xộn: “Bệ hạ! Bệ hạ! Ta biết hết, những năm qua ngài đối xử tốt với ta chỉ là giả dối!”

Cẩm Y Vệ thầm hoảng hốt, cố kéo gã đi nhưng không ngờ lúc này Đức Vương lại có sức mạnh kinh người, hai người cũng không thể kéo gã xuống ngay được.

Đức Vương bám chặt lấy bậc cửa, hét lớn, đột nhiên nhìn về phía Chung Yến Sanh, giọng cao vút, khuôn mặt hiện rõ vẻ điên loạn: “Ngài nghĩ ta không biết ngài coi nó là ai sao? Mấy năm nay ngài đối xử tốt với ta bao nhiêu, ta càng sợ hãi bấy nhiêu. Mỗi khi nghĩ đến kết cục của đại ca, ta lại sợ hãi! Cho nên ta làm nhiều thứ như vậy, là để tự bảo vệ mình!”

“Ngài đã ép chết con trai trưởng của mình, giờ lại muốn giết một đứa con khác sao! Ngài không sợ sau khi ngài qua đời, sẽ không còn ai đưa tiễn ngài sao…”

Tiếng hét của gã dần biến thành tiếng gào thét, hai Cẩm Y Vệ sợ chết điếng, dùng lực kéo mạnh. Hai cổ tay của Đức Vương kêu lên rắc một tiếng, mềm nhũn rũ xuống, không còn sức kháng cự, như thể bị kéo đến trật khớp rồi.

Chung Yến Sanh bị ánh mắt của Đức Vương nhìn chằm chằm đến rợn tóc gáy, nghe thấy gã còn đang điên cuồng la hét: “Ngươi cũng vậy! Ngươi và ta, và hắn, tất cả đều sẽ giống nhau!”

Tiếng hét xa dần, Chung Yến Sanh không ngờ đến xem kịch lại chứng kiến một cảnh tượng như vậy. Tim vẫn còn đập thình thịch, ngay sau đó cậu cảm nhận được ánh mắt lạnh lẽo của lão Hoàng đế chuyển sang mình.

Chung Yến Sanh bị ánh mắt ấy làm cho lạnh cả sống lưng, vẻ mặt trông như bị dọa sợ đến ngây người, hoảng hốt hỏi: “Bệ hạ, Đức Vương Điện hạ có phải là… điên rồi không?”

Lão Hoàng đế đứng ngược sáng, khuôn mặt chìm trong bóng tối mờ mịt, khiến Chung Yến Sanh liên tưởng đến những con quỷ trong các câu chuyện truyền kỳ, mồ hôi lạnh không khỏi toát ra sau lưng.

Liệu lão Hoàng đế có bị Đức Vương chọc giận rồi ra tay với mình luôn không?

Một lúc sau, lão Hoàng đế như đã xác nhận vẻ sợ hãi trên khuôn mặt Chung Yến Sanh không phải là giả.

Khuôn mặt của Chung Yến Sanh rất dễ lừa người khác, đường nét mềm mại vẫn còn mang chút ngây ngô của tuổi thiếu niên. Đôi mắt trong sáng, lúc nhìn người khác như nai con chạy trong rừng, liếc một cái là có thể nhìn thấu, cứ như một hồ nước xuân trong veo vậy.

Như một tờ giấy trắng có thể tùy ý vẽ vời lên.

Sau biến cố trong cung năm đó, hầu hết những sự tích liên quan đến Thái tử tiền nhiệm đã gần như bị xóa sạch. Với tính cách của Hoài An Hầu, ông sẽ không kể những chuyện đó cho Chung Yến Sanh. Sau khi phát hiện ra Chung Yến Sanh, cậu lại được đưa vào cung, Trang phi cũng đã qua đời, cậu không có cơ hội tiếp xúc với những chuyện xưa cũ đó.

“… Lui ra đi.” Lão Hoàng đế lại ho dữ dội, giọng nói ẩn chứa sự cảnh cáo: “Chớ hỏi nhiều.”

Chung Yến Sanh giả vờ mờ mịt gật đầu, cung kính lui ra ngoài.

Điền Hỉ nhẹ nhàng xoa lưng lão Hoàng đế, không tùy ý bày tỏ quan điểm của mình: “Bệ hạ, ngài uống chút trà, thuận khí.”

Lão Hoàng đế được ông đỡ ngồi xuống, giọng khàn khàn: “Điền Hỉ, ngươi nghĩ nên xử lý Đức Vương thế nào?”

Điền Hỉ hiểu rõ, hiện tại quan trọng hơn Đức Vương là tìm ra người đã chỉ đạo gã bỏ thuốc, người được gọi là “Tù Lan tiên sinh” đó.

Người biết lão Hoàng đế đang dùng thuốc Ô Hương không nhiều, đặc biệt là người hiểu rõ loại thuốc này rốt cuộc là thứ gì chỉ có một mình Điền Hỉ. Nhưng Tù Lan tiên sinh đó dường như lại hiểu rõ tình hình, sai khiến Đức Vương mang đến một bát thuốc như vậy.

Ban đầu Điền Hỉ còn nghi ngờ Chung Yến Sanh, nhưng trực giác cho ông biết tiểu Điện hạ này sẽ không làm ra chuyện đó.

Lúc đó một người khác cũng có mặt trong phòng… là Cảnh Vương, nhưng Cảnh Vương không nhìn thấy Bệ hạ dùng thuốc gì. Thuốc Ô Hương quý hiếm, lại bị Thái tổ cấm dùng, dù có đặt trước mặt thì đa số người cũng không nhận ra.

Rốt cuộc là ai đây?

Trong đầu ông lướt qua nhiều suy nghĩ, nhưng chỉ trong chốc lát, Điền Hỉ biết rằng, Đức Vương quả thực không hạ độc, nhưng cũng không hoàn toàn vô tội, ông cẩn trọng cúi đầu nói: “Đức Vương xúc phạm Bệ hạ, quả thật là tội lớn.”

Nghe Điền Hỉ nói vậy, lão Hoàng đế đột nhiên phát ra tiếng cười kỳ lạ: “Điền Hỉ, ngươi là món đồ cũ duy nhất còn ở lại bên cạnh trẫm. Trẫm còn nhớ, năm xưa ngươi đến bên trẫm cũng là tính tình như vậy, bây giờ già rồi, vẫn không thay đổi.”

Từ “món đồ cũ” nghe kỳ lạ vô cùng, khiến lưng Điền Hỉ nhất thời thấm đẫm mồ hôi lạnh, ngoài miệng thì vẫn tỏ vẻ khiêm tốn: “Từ nhỏ nô tài đã ngu dốt, đều là nhờ Bệ hạ không chê trách.”

“Ngươi già rồi mà vẫn giữ tính tình như vậy.” Lão Hoàng đế trông như không có ý định làm khó ông, thở dài: “Trẫm già rồi, nhưng dường như lại trở nên nhân từ hơn.”

Trước đây Điền Hỉ còn có thể hiểu được ý của Hoàng đế, nhưng lúc này lại không thể đoán được, ông thử hỏi: “Ngài là muốn?”

Lão Hoàng đế chịu đựng đau đớn từ bệnh tật và cơn nghiện thuốc một lúc lâu, rồi mới thốt ra hai câu: “Giam Đức Vương vào ngục. Điều tra kỹ.”

Chung Yến Sanh vừa trở về điện Minh Huy thì lập tức gửi tin về Tù Lan tiên sinh ra ngoài.

Người tên là Tù Lan tiên sinh này, dù không phải người của An Vương cũng phải thăm dò lai lịch.

Nếu không phải người của An Vương, cũng phải khiến kẻ đó thành người của An Vương.

An Vương là người được lão Hoàng đế chọn làm người kế vị, không thể để lại.

Lão Hoàng đế chắc chắn cũng đang điều tra về vị mưu sĩ này. Lão có thể chịu đựng được việc thuộc hạ của mình toan tính lẫn nhau, nhưng không thể chịu được ai toan tính lên đầu lão, khiêu khích uy quyền của lão.

Dù sao thì đối với một Đế Vương tuổi xế chiều, cả người đầy bệnh tật, nhận ra mình ngày càng bất lực, không còn kiểm soát được những người dưới tay thì chắc chắn sẽ cảm thấy giận dữ. Bởi vì càng đến lúc này, lão càng sợ bị người khác lấn át, mất đi quyền lực.

Lão đã không còn là thanh niên trai tráng, mà đã bước vào tuổi già rồi.

Nhưng Chung Yến Sanh chỉ nghĩ như vậy, không viết những suy nghĩ này vào thư, chỉ đơn giản mô tả cho Tiêu Lộng cảnh tượng Đức Vương phát điên trước mặt lão Hoàng đế.

Dường như Tiêu Lộng rất tự trách vì đã làm cậu hư hỏng. Lần trước, khi cậu nói muốn làm con rối để đâm lão Hoàng đế, Tiêu Lộng đã bế cậu ngồi ngay ngắn trên bàn, nghiêm túc giáo dục cả nửa ngày, tóm lại là: “Đâm con rối thì cứ để ta làm, em ngồi cạnh nhìn là được.”

Nhưng hư hỏng thì có làm sao?

Cậu không muốn lúc nào cũng được Tiêu Lộng bế qua vũng bùn, trở thành gánh nặng của hắn, cậu muốn nắm tay hắn cùng bước qua.

Ca ca hy vọng cậu luôn sạch sẽ, không bị vấy bẩn bởi những chuyện thế tục.

Chung Yến Sanh luôn ngoan ngoãn trước mặt hắn.

Dù cậu không nói, Tiêu Lộng cũng sẽ nghĩ đến mà làm.

Chẳng bao lâu, bức thư của Chung Yến Sanh đã đến phủ Vương gia.

Tiêu Lộng đọc xong, cẩn thận làm phẳng những nếp nhăn trên thư, đặt lại vào hộp, không ngẩng đầu mà ra lệnh: “Bác Vương, có thể lan truyền tin tức rồi.”

Tù Lan tiên sinh chưa từng lộ diện, nhưng việc bày ra vài manh mối giả để đổ tội cho An Vương thì vẫn có thể thực hiện.

Bác Vương lặng lẽ cúi người một cái, lui ra ngoài truyền lệnh.

Khi Tiêu Lộng lần theo manh mối của Trang phi để điều tra về Chung Yến Sanh, dù trước đó luôn bị lão Hoàng đế áp chế, xóa bỏ manh mối, nhưng lần này Tiêu Lộng lại nắm giữ thế chủ động, từng cái móc câu được thả ra cho Cẩm Y Vệ.

Các quan viên điều tra trong hai ngày, thu thập được một chút manh mối, rồi trình lên án thư của lão Hoàng đế.

An Vương.

Cùng lúc đó, các Ngự sử của Đô Sát Viện cũng náo loạn, hàng chục Ngự sử tụ tập bên ngoài điện Dưỡng Tâm, quỳ gối cầu kiến Thánh thượng, lời lẽ hùng hồn, yêu cầu Bệ hạ xử lý Đức Vương và An Vương. Một nhóm người cứ nói lải nhải, đuổi cũng không đi, đánh cũng không chạy, rút dao ra thì họ còn dám xông tới, mỗi người đều có khí phách của văn nhân, không sợ chết.

Giống như keo dính chuột, dính chặt không buông.

Trên án thư của lão Hoàng đế chất đầy lời khai của Đức Vương, bên cạnh là tin tức của Cẩm Y Vệ về An Vương. Bên ngoài, một nhóm Ngự sử đang kêu trời kêu đất, ồn ào không thôi nỗi. Bàn tay gầy gò của lão Hoàng đế nắm chặt tấu chương nổi rõ gân xanh, đôi mắt mờ đục hằng lên những tia máu, hơi thở càng ngày càng gấp gáp.

Điền Hỉ thấy tình hình không ổn, định gọi Cẩm Y Vệ đến lôi đám Ngự sử đó ra ngoài.

Chợt nghe lão Hoàng đế đột nhiên ho mạnh một tiếng, ho ra một ngụm máu rồi ngã xuống đất.

Những ngày qua, các Thái y đều trực ở điện Dưỡng Tâm, đã cho lão Hoàng đế uống thuốc đắng mấy ngày mà cũng không thấy hiệu quả, vẫn đang suy nghĩ cách chữa trị. Nghe tin lão Hoàng đế ngất xỉu, họ sợ chết khiếp, kêu khóc om sòm lao vào thư phòng. Trong chốc lát, toàn bộ điện Dưỡng Tâm trở nên hỗn loạn, ngay cả đầu của Điền Hỉ cũng bắt đầu đau.

Chung Yến Sanh đi dạo vài vòng bên ngoài, vui vẻ nghe đám Ngự sử mắng chửi nửa ngày, rồi lại chạy đến cửa điện Dưỡng Tâm hóng chuyện, chưa được bao lâu thì thấy mười mấy Thái y bị đuổi ra ngoài.

Chung Yến Sanh còn định vào góp vui xem lão Hoàng đế thế nào, nhưng cũng bị chặn lại.

Điện Dưỡng Tâm lập tức được dọn dẹp sạch sẽ.

Xung quanh cuối cùng cũng yên tĩnh trở lại, lão Hoàng đế mở to đôi mắt đầy những tia máu, giọng nói khò khè: “Ô Hương…”

Điền Hỉ nhăn nhó: “Bệ hạ, dược tính của Ô Hương rất mạnh. Trước đây mỗi nửa tháng ngài mới dùng một viên, là để tránh nghiện. Giờ mới chưa đến mười ngày mà ngài đã dùng hai viên rồi, sợ là cơ thể sẽ không chịu nổi…”

Ông cũng không biết vì lần trước thuốc bị tráo nên lão Hoàng đế không thật sự dùng Ô Hương. Tính đến hôm nay, đã gần một tháng lão chưa dùng thuốc, cả cơn nghiện và bệnh tật đều đang dằn vặt lão, đã sắp đến giới hạn, không chịu được nữa rồi.

Giờ đây khuôn mặt lão là màu xanh đen đáng sợ, ánh mắt sáng quắc: “Ô Hương.”

Lúc này Điền Hỉ không dám khuyên thêm nữa, vội lấy thuốc Ô Hương từ ngăn bí mật ra, tay run rẩy lỡ tay đổ ra hai viên, chưa kịp bỏ lại thì lão Hoàng đế đã cướp lấy hai viên đó, không cần nước ấm, nuốt ực xuống.

Điền Hỉ không kịp ngăn cản, nhanh chóng đưa nước ấm đến, hầu lão Hoàng đế uống nước.

Chỉ một lát sau, nhịp thở gấp gáp của lão Hoàng đế dần đều lại, khuôn mặt đầy mồ hôi lạnh cũng dần giãn ra, mặt mày mang vẻ chết chóc bỗng nhiên hiện lên sắc đỏ kỳ lạ, ánh mắt mờ đi.

Cơn đau trong nhiều ngày cuối cùng được xoa dịu. Trong phòng ngủ yên tĩnh một lúc lâu, lão Hoàng đế lấy lại sức, nhắm hai mắt hỏi: “Bọn họ vẫn còn quỳ?”

Là hỏi đám Ngự sử đó.

“Vâng.” Điền Hỉ nhỏ giọng đáp: “Không biết tin tức về An Vương sao lại lộ ra ngoài, họ đều nói rằng ý đồ phản nghịch của Đức Vương đã rõ ràng, An Vương hãm hại máu mủ ruột thịt, yêu cầu ngài xử lý cả Đức Vương lẫn An Vương Điện hạ.”

Lão Hoàng đế mở mắt ra, ánh mắt lạnh lùng như chứa hai ngọn lửa âm u, cười lạnh một tiếng: “Lúc trẫm mới lên ngôi, họ ép trẫm, bất bình cho Khang Văn. Thái tử mưu phản, họ cũng ép Trẫm trả lại sự trong sạch cho Thái tử. Bây giờ họ lại ép trẫm, giết cũng không hết, chém cũng không xong.”

Điền Hỉ nghe mà lạnh sống lưng, không dám nói lời nào.

“Truyền chiếu lệnh của trẫm.” Giọng lão Hoàng đế khàn đặc: “Giáng Đức Vương xuống làm thường dân, đày đi Phượng Dương giam cầm.”

Điền Hỉ sửng sốt, có hơi bất ngờ.

Lão Hoàng đế nhìn ông một cái: “Sao, thấy trẫm đã thay đổi rồi?”

Điền Hỉ nở nụ cười khoa trương: “Bệ hạ nhân từ.”

So với hồi trẻ, đúng là đã mềm lòng hơn nhiều.

“Ngày đó Đức Vương mắng trẫm, nói rằng tình thương của trẫm chỉ là giả dối, chuyện đó làm trẫm rất đau lòng.”

Lão Hoàng đế thở dài: “Trẫm thật sự không có tình thương sao? Tình thương của trẫm đối với nó và Hi Nhi đều là thật lòng.”

Điền Hỉ vừa cảm thấy đôi chút thương cảm, thì lại nghe lão Hoàng đế nói: “Nếu là trước đây, giết thì giết thôi. Nhưng trẫm đã già rồi, không thể để mình chết mà không có người kế vị.”

Điền Hỉ cố nặn ra một nụ cười: “Bệ hạ thật biết đùa.”

Lão Hoàng đế cũng cười một cách kỳ lạ, ánh mắt vẫn lạnh băng, không hề có chút nhân từ mà vặn vẹo quái đản: “Huống chi, cũng không cần họ.”

Đứa trẻ yếu đuối đó, thanh khiết như cha của nó, lại như bóng ma Khang Văn dai dẳng suốt mấy chục năm không tan.

Há chẳng phải là người thích hợp nhất để làm vật bồi táng?



Tác giả: Hoắc Song là người rất chính trực, làm sao có thể sai sót được. Không ngờ người thông minh là một người khác!

Lão Hoàng đế dần offline.
Bình Luận (0)
Comment