Chiêu Hạ còn muốn nói gì đó nữa.
Nhưng lại bị Điền Nghĩa nghi hoặc cắt ngang: “Hai vị muốn sống trong thôn làng sao?”
Cố Tuế An gật đầu: “Không chỉ vậy, tốt nhất là nhà cửa đó gần có ruộng đất, chúng ta có thể mua luôn cả ruộng đất.”
“Cái này…” Điền Nghĩa do dự một chút: “Nói thật với hai vị, trong làng phần lớn các ngôi nhà đều là tự tìm người dựng lên, cũng rất hiếm khi có ai bán nhà trong làng. Toàn là nhà đất, chẳng đáng bao nhiêu tiền, đâu có như trong thành đều là nhà gạch xanh ngói đỏ. Có lẽ trong làng chỉ có mảnh đất là có chút giá trị, nếu phu nhân muốn mua đất thì chỗ tôi đây đúng là có.”
Chiêu Hạ cũng từng nói với nàng về tình hình này, hỏi ra chẳng qua là ôm chút tâm lý may mắn mà thôi, biết đâu có sẵn thì tốt, mà nếu không có thì cũng thôi. Có thể mua đất trước rồi sau đó thuê người dựng nhà, nàng và Chiêu Hạ bàn bạc rằng thời gian này có thể thuê nhà ở tạm trước.
Điền Nghĩa chợt nhớ ra điều gì đó, ngập ngừng một lúc rồi hỏi: “Hai vị dự tính chi bao nhiêu tiền ạ?”
Khuôn mặt vô cảm của Chiêu Hạ hiện lên một nụ cười nhạt: “Tiểu huynh đệ cứ nói thẳng, nếu hợp lý thì chúng ta sẽ tìm cách xoay bạc.”
Điền Nghĩa gật đầu, rồi mỉm cười thẳng thắn nói: “Là thế này, ở trấn Lê Hoa gần thành Lê An có một trang trại. Trang trại đó vốn thuộc về một thương nhân buôn bán thuốc từ nơi khác. Người đó mua về là để trồng dược liệu, nhưng đáng tiếc sau này làm ăn thất bại nên muốn bán lại. Trong trang trại có mười mẫu ruộng khô, nhà ở là kiểu một dãy, chỉ là giá cả hơi đắt. Tuy không nằm trong thành nhưng cũng cần khá nhiều bạc. Dù vậy, so với các trang trại khác thì giá của nó lại rẻ hơn nhiều.”
Ruộng khô.
“Ở gần trang trại đó có con sông nào không?” Cố Tuế An suy nghĩ một lát rồi hỏi.
Điền Nghĩa cười gượng: “Phu nhân vừa nhìn đã chỉ ngay chỗ bất tiện của trang trại này rồi. Phía trước quả thật có một con sông, chỉ là địa thế của trang trại khá cao, muốn dẫn nước để biến ruộng khô thành ruộng nước thì mỗi năm đều phải tốn không ít nhân lực. Hơn nữa, việc trồng loại dược liệu này lại là một nghề cần kỹ thuật, đâu phải ai cũng làm được. Lâu dần, trang trại ấy cứ bị bỏ không mà chẳng ai chịu mua.”
Có sông là được, chỉ cần làm guồng dẫn nước thì cho dù ruộng khô ở chỗ cao cũng có thể biến thành ruộng nước. Nhưng cụ thể thì phải tận mắt xem mới biết rõ. Cố Tuế An tiếp tục hỏi: “Ngươi nói trang trại này rẻ hơn những trang trại khác, vậy cần bao nhiêu bạc?”
Điền Nghĩa không hề do dự mà thẳng thắn nói: “Hiện nay ở trấn Lê Hoa, giá một mẫu ruộng khô là mười lượng. Trang trại này có mười mẫu, tức là một trăm lượng. Thêm vào đó trong trang trại có một ngôi nhà một dãy, chủ nhân còn xây tường bao quanh toàn bộ trang trại. Tính gộp lại thì chủ nhân muốn năm trăm lượng. So với các trang trại khác thì quả thật rẻ hơn nhiều, bởi vì ở Lê An thì trang trại rẻ nhất cũng phải bảy tám trăm lượng.”
Cố Tuế An vốn không rõ giá nhà ở nơi này, cũng chẳng biết bỏ ra năm trăm lượng để mua một trang trại có phải là đắt hay không. Dù sao thì họ cũng không thể chỉ tìm một người môi giới rồi quyết định ngay, nhất định phải so sánh nhiều nơi rồi mới đưa ra lựa chọn.
Tuy vậy, trước hết vẫn nên đi xem thử trang trại này. Cố Tuế An và Chiêu Hạ liếc mắt nhìn nhau, Chiêu Hạ quay sang Điền Nghĩa nói: “Có thể phiền ngươi đưa chúng ta đi xem trang trại đó không?”
Nghe khách hàng nói vậy, Điền Nghĩa có chút xúc động rồi vội vàng gật đầu: “Được chứ.”
Hai người này ăn mặc hết sức bình thường, lúc đầu vừa mở miệng đã hỏi về nhà cửa và đất trong làng, hắn còn tưởng là vì không đủ ngân phiếu để mua nhà trong thành. Giờ lại nói muốn đi xem trang trại, chứng tỏ mức giá đó vẫn nằm trong khả năng chấp nhận của họ. Phải biết rằng ở Lê An, dân thường tiết kiệm tằn tiện cả năm cũng chỉ dành dụm được bốn, năm lượng bạc. Hai người này tuy trông có vẻ giản dị, nhưng có lẽ cũng là thương nhân, chỉ là khá kín đáo mà thôi.
Đi xe ngựa từ thành Lê An đến trấn Lê Hoa mất chưa đến một canh giờ, khoảng cách với thành cũng khá gần.
Khi đến trấn Lê Hoa, xe ngựa đi qua một con phố. Con phố này cũng được lát bằng đá xanh, nhưng những ngôi nhà hai bên đường so với trong thành Lê An thì kém hơn nhiều. Tuy vậy, hơi thở sinh hoạt nơi dân dã lại càng thêm đậm nét.
Đi được khoảng chừng một nén hương thì xe ngựa rẽ lên con đường làng, cuối cùng đến bên một con sông. Nơi này hầu như không có người ở, chung quanh toàn là những thửa ruộng xanh mướt. Con sông rộng chừng hơn mười mét, lòng sông khá thấp, nhìn thì không sâu lắm, nhưng dòng nước lại chảy khá xiết.
Trên sông có một cây cầu đá, Điền Nghĩa mỉm cười giải thích: “Cây cầu đá này cũng là do vị thương làm nhân trồng dược liệu kia xây dựng. Nơi này có phong cảnh đẹp, lúc trước ông ấy cũng chính vì điểm này mà chọn dựng trang trại ở đây. Cả phần đất hai bên bờ sông cũng thuộc về thương nhân đó. Nếu mua trang trại này thì phần đất ấy cũng được tính kèm, chỉ là không nằm trong mười mẫu ruộng kia mà thôi.”
Xe ngựa chạy qua cây cầu đá, Cố Tuế An nhìn cảnh sắc bên ngoài cửa sổ thì cảm thán quả thật rất đẹp. Vừa rồi bên phía họ đi qua là những cánh đồng rộng lớn nối tiếp nhau. Sau khi qua cầu, địa thế rõ ràng cao hơn hẳn. Đi thêm chừng một đoạn ngắn khoảng năm phút thì đã đến trang trại.
Nhìn từ bên ngoài thì thấy trang trại trông rất lớn. Bên trong có ngôi nhà xây bằng gạch xanh, lợp ngói, bốn phía đều được bao quanh bằng tường gạch cao. Có lẽ vì đã quá lâu không có người ở nên bên ngoài tường đầy cỏ dại, chỉ riêng trước cổng thì cỏ ít hơn một chút. Điền Nghĩa xuống xe ngựa, quen thuộc lấy chìa khóa ra mở cổng lớn của trang trại.
Chiêu Hạ đánh xe ngựa tiến vào trang trại. Vừa bước vào, chỉ cảm thấy tầm nhìn vô cùng rộng rãi, những thửa ruộng lớn đều bỏ hoang, trên mặt đất đã mọc đầy cỏ dại. Ngay đối diện cổng lớn, cách khoảng hai mươi mét là ngôi nhà. Ngôi nhà quay mặt về hướng nam, lưng tựa hướng bắc. Con đường dẫn đến nhà cũng được lát bằng đá xanh, nhưng giữa các phiến đá lại mọc lên những bụi cỏ dại.
Điền Nghĩa dẫn hai người bước vào trong ngôi nhà. Đây là một tứ hợp viện tiêu chuẩn kiểu “một dãy”, toàn bộ đều là nhà gạch xanh lợp ngói. Cổng lớn nằm ngay chính giữa của khu nhà. Vừa bước qua cửa thì tầm nhìn lập tức rộng mở, bên trong là một khoảng sân khá lớn.
Điều khiến Cố Tuế An cảm thấy vui mừng là chính đường lại là một tòa lầu nhỏ ba tầng. Hai bên lầu có hai gian nhà phụ. Trước lầu, ở phía bên trái trong sân có trồng một cây quế khá lớn. Hai bên trái phải của sân là Đông sương phòng và Tây sương phòng, đều là nhà một tầng. Trước những gian nhà này đều có hành lang nối liền để đi lại.
Điền Nghĩa vừa dẫn đường vừa giới thiệu: “Hai vị đừng nghĩ đây chỉ là một ngôi nhà một dãy, chính đường lại có ba tầng. Từ tầng cao nhất có thể nhìn thấy toàn cảnh trong trang trại. Nhà bếp và nhà xí thì nằm ở hai bên gian nhà phụ cạnh chính đường.”
Nói xong, Điền Nghĩa lại đưa Cố Tuế An và Chiêu Hạ đi xem Đông sương phòng, Tây sương phòng cùng nhà bếp. Cuối cùng dẫn hai người vào chính đường. Tầng một của chính đường là đại sảnh, lên tầng hai có hai gian phòng, tầng ba cũng là hai gian phòng.
Cố Tuế An đứng trong một căn phòng ở tầng ba, căn phòng này có hai cửa sổ: một cửa hướng ra cổng lớn, một cửa nhìn về phía sau là những cánh đồng rộng lớn, tầm nhìn vô cùng thoáng đãng. Căn phòng còn lại cũng có bố cục gần giống như vậy.
Xem xong toàn bộ ngôi nhà, Cố Tuế An lại dẫn theo Chiêu Hạ đi từ cổng trang trại đi ra con sông. Mực nước sông cách bờ đê khoảng ba mét, thêm vào đó con đường dẫn lên trang trại càng đi thì địa thế càng cao, đến chỗ trang trại thì mới bằng phẳng. Vì thế muốn biến đất trong trang trại thành ruộng nước quả thật rất khó. Tuy nhiên, nơi này lại có điều kiện rất thích hợp để làm guồng dẫn nước. Đến lúc này thì trong đầu Cố Tuế An đã có tính toán rõ ràng rồi.
Cố Tuế An và Chiêu Hạ bàn bạc một hồi, xem có thể ép giá xuống còn bốn trăm lượng hay không, trước hết chém mạnh rồi từng bước mà tiến. Dĩ nhiên, vẫn phải đi xem thêm những ngôi nhà và trang trại khác, nhỡ đâu có nơi phù hợp hơn thì sao.
Trong lòng Chiêu Hạ thì cảm thấy chua xót, trang trại này đã rẻ đến mức ấy rồi, số bạc mua trang trại này ở Kinh đô còn không mua nổi một ngôi nhà một dãy, vậy mà cô nương vẫn muốn mặc cả. Tất cả là do tên hoàng đế khốn kiếp kia! Hại cô nương phải rời bỏ quê hương đi biệt xứ!!!
Mà vị “hoàng đế khốn kiếp” Chiêu Hạ lẩm bẩm kia, lại khiến các đại thần ở Kinh đô ngày càng sợ hãi, ngày càng kinh hãi, chỉ cảm thấy Bệ hạ của họ đã phát điên rồi!