Sơn Thần - Phi Ảnh

Chương 1

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Chương 1: Lời dẫn

Edit & beta: Cún

“Năm Giáp Thìn, đao binh động,

Giặc lùn, La Sát náo Quan Đông.

Hắc Thủy loạn, Bạch Sơn sập,

Khinh Trung Quốc ta không anh hùng.”

Bài vè này kể về một trận đại chiến xảy ra trên đất Quan Đông của Trung Quốc hơn một trăm năm trước. Năm Giáp Thìn, tức là năm Quang Tự thứ 30 của triều đại nhà Thanh, cũng chính là năm 1904 theo Công nguyên. Trận chiến này là giữa nước Nga và nước Nhật. Có thể nói đây là một chuyện hiếm có trong lịch sử chiến tranh thế giới, bởi lẽ hai quốc gia này đã đánh nhau ngay trên đất Trung Quốc để tranh giành lợi ích.

Nước Nga, từ cuối thời Minh đã liên tục xâm lược về phía đông, gây ra bao cảnh giết chóc và tàn phá ở vùng Mãn Mông của Trung Quốc, hành động tàn ác như quỷ dữ. Trong tiếng Mông Cổ, phát âm của từ “Nga La Tư” (Russia – nước Nga) nghe rất giống với từ “La Sát” trong tiếng Hán, vì vậy người Trung Quốc gọi những kẻ xâm lược Nga là “quỷ La Sát”.

Đến cuối triều nhà Thanh, khi quốc lực Trung Quốc suy yếu, chính phủ Sa hoàng Nga muốn nhân cơ hội này độc chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc. Nhưng lúc này, Nhật Bản không chịu ngồi yên. Nhật Bản vốn là một nước nhỏ, thực lực yếu, nhưng lại không chịu an phận. Từ lâu, Nhật Bản đã quấy nhiễu Trung Quốc, nên bị người Trung Quốc gọi là “Oa khấu” (giặc lùn). Sau phong trào Duy Tân Minh Trị, Nhật Bản ngày càng lớn mạnh, thôn tính bán đảo Triều Tiên và tiếp tục dòm ngó vùng núi Trường Bạch và sông Hắc Long ở Đông Bắc, Trung Quốc. Vì vậy, xung đột với Nga là điều không thể tránh khỏi.

Khi “quỷ La Sát” và “quỷ Nhật Bản” khai chiến, các cường quốc phương Tây liền ngồi lại, chuẩn bị bàn ghế và cắt dưa hấu để ngồi hóng chuyện. Ban đầu, các nước đều cho rằng một đế quốc lâu đời và giàu mạnh như Nga chắc chắn sẽ giành chiến thắng. Nhưng không ngờ, một cường quốc mới nổi như Nhật Bản, lại khiến Nga bị đánh bại một cách thảm hại.

Trên biển, quân Nhật chiếm được cảng Lữ Thuận, lâu nay bị quân Nga chiếm giữ. Trên đất liền, quân Nhật liên tục giành chiến thắng, phá vỡ phòng tuyến của quân Nga tại bờ sông Áp Lục và tiến vào vùng Đông Bắc, Trung Quốc.

Chúng ta hãy ngừng nói chuyện vô nghĩa và quay lại chủ đề chính.

Chuyện kể rằng, vào một ngày nọ, một toán lính Nga khoảng hơn hai mươi người, sau khi bị quân Nhật truy đuổi, đã hoảng loạn chạy trốn vào vùng núi Trường Bạch rộng lớn. Theo lệnh của tướng chỉ huy Nga, tất cả những đội quân tan tác ở phòng tuyến sông Áp Lục phải tự tập hợp lại tại trấn Song Điền, Cát Lâm sau ba ngày. Nhưng thật không may, toán lính này bị quân Nhật chặn đường.

Sau một trận chiến ác liệt kéo dài suốt đêm, họ mới thoát được vòng vây, nhưng đã hoàn toàn mất liên lạc với đại quân. Khi ấy, mọi con đường đều bị phong tỏa, còn quân Nhật thì vẫn ráo riết truy đuổi phía sau. Đứng đầu nhóm lính Nga khi đó là Trung úy Asharyov. Không còn cách nào khác, hắn đành dẫn theo số tàn binh ít ỏi này, tìm cách vượt qua núi Trường Bạch để đến được trấn Song Điền.

Núi Trường Bạch nằm giữa biên giới Trung Quốc và Triều Tiên, kéo dài hàng trăm dặm, với núi non hiểm trở và rừng rậm rạp. Nơi đây nổi tiếng với những thác nước hùng vĩ, hồ nước núi cao rộng lớn, rừng nguyên sinh bạt ngàn, cảnh quan núi lửa kỳ thú, cùng hệ động thực vật quý hiếm. Ngọn núi này được mệnh danh là “ngọn núi số 1 ở Quan Đông” và cũng được người dân địa phương gọi là “núi thần”.

Vừa đặt chân vào rừng sâu, toán lính Nga đã bị lạc đường. Lúc này đã là giữa mùa đông, tuyết phủ trắng xóa, nước đóng băng thành đá. Cả nhóm người quần áo rách rưới, không có thức ăn, rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng giữa trời băng đất tuyết, kêu trời không thấu, gọi đất chẳng hay. Asharyov liền tập hợp mọi người, đốt một đống lửa sưởi ấm và bàn bạc xem phải làm thế nào.

Quay lại đường cũ để xuống núi là không thể, vì quân Nhật vẫn đang mai phục bên ngoài. Nhưng nếu tiếp tục ở lại trên núi Trường Bạch quá lâu, họ cũng không thể tiếp tục sống sót, vì thời điểm này cây cối tiêu điều, chim muông vắng bóng, chẳng có gì để ăn. Chỉ cần ở đây thêm vài ngày nữa, họ sẽ chết vì lạnh hoặc đói.

Sau một hồi bàn bạc mà vẫn chưa tìm ra cách nào khả thi, bỗng nhiên từ bụi rậm phía xa vọng lại một tiếng hét thảm thiết.

“Là Yuri Kin!” Asharyov nhận ra giọng của một người lính vừa đi ra ngoài giải quyết nhu cầu. Anh vội vàng dẫn người chạy tới xem. Khi đến nơi, họ thấy Yuri Kin đã bị một chiếc bẫy thú kẹp chặt lấy chân. Anh ta vừa la hét cầu cứu, vừa ra sức dùng tay cố gỡ bẫy ra.

Phải mất một lúc lâu, mọi người mới có thể giải thoát được Yuri Kin. Nhưng chân của anh ta đã bị bẫy kẹp nát đến tận xương, chỉ còn dính lại với cơ thể bằng một ít gân và thịt.

Asharyov nhíu mày, nhìn chằm chằm vào vết thương của Yuri Kin một lúc lâu, rồi thở dài nói: “Yuri Kin, xin lỗi, chúng tôi không thể mang cậu theo được.”

Người lính bị thương tên Yuri Kin nhìn hắn với ánh mắt hoảng sợ, tràn đầy sự van xin. Asharyov quay mặt đi, tránh ánh mắt đó, rồi nói: “Xin lỗi… Nếu đưa cậu theo, tất cả chúng ta sẽ không thể rời khỏi ngọn núi bị quỷ dữ nguyền rủa này.”

Hắn quay sang một người lính khác đứng bên cạnh và ra lệnh: “Peter, nếu để Yuri Kin ở lại đây, cậu ấy sẽ chỉ chịu thêm đau đớn mà thôi. Hãy tiễn cậu ấy một đoạn đường.”

Người lính tên Peter Nagiev trợn to mắt, giọng run rẩy: “Trung úy…”

Asharyov tức giận quát lên, cắt ngang lời anh ta: “Chấp hành mệnh lệnh! Hay cậu cũng muốn chết ở đây hả?”

Yuri Kin cười thảm một tiếng, nói: “Peter, Trung úy nói đúng… Tôi không thể đi tiếp nữa. Nếu các cậu khiêng tôi đi, chẳng ai có thể thoát khỏi ngọn núi quỷ quái này. Nào, anh bạn, bắn chính xác một chút, đừng để tôi chịu khổ thêm nữa!”

Một tiếng súng vang lên, Yuri Kin ngã xuống mà không kịp rên một tiếng. Asharyov không nhìn lại nữa, hắn bước tới bên chiếc bẫy thú, cẩn thận quan sát.

Đây là một loại bẫy chuyên dùng để săn lợn rừng hoặc gấu, thứ mà người Quan Đông gọi là “hắc hiá tử” (gấu đen). Có vẻ như nó mới được đặt không lâu. Một thợ săn muốn đặt loại bẫy này phải kiên nhẫn ẩn nấp lâu ngày trong rừng, nắm rõ quy luật di chuyển của lợn rừng hoặc gấu, sau đó mới có thể đặt bẫy ở những nơi chúng thường lui tới. Điều này đòi hỏi kinh nghiệm săn bắn phong phú và sự kiên trì, cẩn trọng.

Asharyov đã đóng quân ở Quan Đông khá lâu, hắn biết rằng vào mùa đông khắc nghiệt thế này, thợ săn Trung Quốc hiếm khi vào rừng. Nếu có vào, họ cũng đi thành nhóm, cưỡi ngựa, thả chim ưng tìm dấu vết con mồi, cách săn chủ yếu là đánh nhanh rút gọn, chứ không phải đặt bẫy, vì phương pháp này tốn khá nhiều thời gian. Hơn nữa, khu vực này gần đây liên tục xảy ra chiến loạn, những thôn trại của người Trung Quốc xung quanh hoặc đã bị cướp phá, đốt sạch, hoặc dân chúng đều đã bỏ làng mà chạy loạn. Vậy thì làm gì còn ai vào rừng săn bắn?

Chẳng lẽ vẫn còn một số dân làng lẻ tẻ trốn vào rừng lánh nạn? Hoặc trên núi Trường Bạch vốn có những thợ săn sống cố định? Nếu đúng là như vậy thì quá tốt rồi! Nếu bắt được một người, ép hắn dẫn đường, cả đội có thể thoát khỏi khu rừng ma quỷ này, đến được trấn Song Điền. Ở đó, có lẽ sẽ có rượu vodka hảo hạng chờ đón bọn họ. Nếu không có vodka thì ít nhất cũng có “Quan Đông Thiêu”, một loại rượu mạnh của Trung Quốc, cũng đủ làm tê dại thần kinh. Và ai biết được, có thể còn có cả phụ nữ Trung Quốc.

Nghĩ đến đây, Asharyov phấn khích hẳn lên. Hắn lập tức triệu tập đám lính, ra lệnh cho họ cẩn thận lục soát xung quanh, nếu phát hiện người Trung Quốc thì tuyệt đối không được làm họ hoảng sợ mà bỏ chạy.

Quả nhiên, suy đoán của Asharyov không sai. Không lâu sau, bọn họ phát hiện một túp lều đơn sơ mà người địa phương gọi là “kuluozi” – một loại lán nhỏ của thợ săn. Ngay lập tức, cả toán lính Nga bao vây lấy nơi đó.

Trong túp lều “kuluozi” có một gia đình thợ săn. Đó là một cặp vợ chồng trạc ba mươi tuổi cùng một cậu con trai khoảng bảy, tám tuổi. Người chồng đội chiếc mũ da hình nón, mặc áo khoác và ủng da hươu, dáng người trung bình, ánh mắt sắc bén như chim ưng. Người vợ mặc áo dài đối khâm với ống tay rộng, làn da trắng, khuôn mặt rộng, gò má cao, đôi mắt nhỏ.

Asharyov nhìn quần áo và diện mạo của họ, cảm thấy họ không giống người Hán hay người Mãn thường thấy, mà có vẻ giống “Ewenki” một dân tộc sống rải rác dọc biên giới Trung – Nga ở dãy Đại Hưng An. Người Trung Quốc gọi họ là “người Ewenk”. Nhưng không rõ vì sao gia đình này lại lưu lạc đến Cát Lâm và ẩn cư trong rừng sâu núi Trường Bạch.

Bị bao vây bởi mấy chục nòng súng đen ngòm, nhưng ba người nhà thợ săn Ewenki vẫn không hề tỏ ra hoảng sợ. Họ đứng thẳng trước cửa túp lều, lặng lẽ quan sát đám kẻ xâm lược trước mặt.

Asharyov hắng giọng, nói bằng tiếng Nga, ra lệnh cho người đàn ông dẫn đường, đưa bọn họ ra khỏi khu rừng. Người đàn ông chỉ lạnh lùng nhìn hắn, không lên tiếng. Asharyov bập bẹ nói lại bằng tiếng Hán, nhưng người đàn ông vẫn không đáp.

Thấy vậy, Asharyov ra hiệu cho mấy tên lính Nga. Lập tức, chúng đẩy gia đình kia ra một bên rồi xông vào lục soát túp lều. Không lâu sau, bên trong vang lên tiếng reo hò phấn khích. Một lát sau, bọn lính lôi ra một đống thực phẩm: thịt nai khô, chân hoẵng, hạt dẻ, nấm tùng nhung, nấm rừng… Những người lính Nga bên ngoài đồng loạt hò reo sung sướng. Họ đã đói đến hai ngày nay, bây giờ thấy đống sơn hào hải vị này, ai nấy như bầy sói đói, mắt sáng rực, lao vào tranh giành.

Chưa dừng lại ở đó, đám lính bên trong túp lều còn hét lên phấn khích hơn khi tìm thấy hai bầu rượu lớn. Với người Nga sống trong giá rét, rượu còn quan trọng hơn cơm ăn. Họ có thể nhịn đói, nhưng không thể thiếu rượu, mà rượu càng nặng càng khiến họ mê mẩn.

Thức ăn rừng núi lấp đầy dạ dày, rượu Quan Đông thiêu đốt thần kinh, khiến bầy lính Nga hóa thành thú dữ. Chúng kéo vợ của người thợ săn vào trong lều, định hãm hiếp cô.

Những tiếng cười sằng sặc của lũ lính Nga cùng tiếng mắng chửi căm phẫn của người vợ như những nhát dao cắt vào thần kinh người thợ săn. Đôi mắt anh ta đỏ ngầu, nắm tay siết chặt đến mức có thể vắt ra máu.

Asharyov ăn uống no say, ngồi trên một gốc cây, châm điếu thuốc lá Quan Đông cướp được từ nhà thợ săn, trầm tư suy nghĩ cách đưa lính của mình thoát khỏi tình cảnh hiện tại. Hắn giả điếc làm ngơ trước những hành vi đồi bại đang diễn ra trong túp lều “kuluozi”, Như thể những chuyện như vậy đối với binh sĩ Sa hoàng Nga chẳng có gì lấy làm lạ.

Trước đây, khi còn đóng quân tại các vùng biên giới, họ thường xuyên xông vào các thôn trại của người Trung Quốc để cướp bóc phụ nữ làm trò tiêu khiển. Dân làng có kêu oan lên nha môn, quan lại địa phương cũng không dám can thiệp. Mà có kiện lên cấp chỉ huy quân đội Nga thì chẳng khác nào “mặc cả với hổ dữ”. Đến mức các trưởng làng hoặc địa chủ giàu có không còn cách nào khác, phải âm thầm thỏa thuận với quân Nga, định kỳ đưa một số phụ nữ đến doanh trại để “phục vụ”, đổi lấy sự bình yên cho dân làng.

Thế nhưng, từ khi chiến tranh Nga – Nhật bùng nổ, người dân Quan Đông càng khốn đốn hơn. Ngay cả thứ bình yên nhục nhã ấy cũng không còn. Dù là lính Nga hay lính Nhật, một khi kéo đến những thôn trại của người Trung Quốc, thì chỉ có cướp sạch, giết sạch, đốt sạch. Những nơi bị chiến tranh tàn phá chỉ còn lại những cánh đồng hoang vu, không một bóng người.

Đột nhiên, từ trong túp lều “kuluozi” vang lên một tiếng thét thảm thiết, tiếp theo là những tiếng chửi rủa giận dữ bằng tiếng Nga. Rồi một phát súng nổ.

Ngay sau đó, một tên lính Nga tên Yeshninov lảo đảo chạy ra ngoài, tay ôm súng, tay còn lại bịt lấy con mắt trái, máu tuôn xối xả. Trên hốc mắt của hắn cắm một cây kim xương nai thô ráp – loại kim khâu mà người Ewenk thường dùng để khâu áo da thú.

Asharyov giật bắn mình, lập tức lao về phía túp lều. Cùng lúc đó, người thợ săn Ewenki cũng nghe thấy tiếng súng, anh ta gầm lên một tiếng, tung một cú đấm hạ gục tên lính Nga đang canh giữ mình rồi lao thẳng về phía túp lều. Nhưng chưa kịp chạy được bao xa, anh ta đã bị năm, sáu tên lính Nga lao đến chặn lại, đánh ngã xuống đất.

Cậu bé, con của anh ta cũng điên cuồng giãy giụa trong tay tên lính Nga đang giữ mình. Nhưng cậu bé nhỏ bé làm sao có thể thoát được đôi bàn tay thô bạo của gã lính cao lớn?

Asharyov xông vào túp lều, trông thấy cảnh tượng trước mắt mà sững sờ. Người phụ nữ Ewenki đã chết. Áo cô bị xé rách, để lộ khuôn ngực, trên ngực có một vết đạn. Đôi mắt cô mở trừng trừng, tràn đầy căm hận.

Nhìn tình hình, Asharyov hiểu ngay mọi chuyện. Người phụ nữ này thà chết chứ không chịu khuất phục. Cô đã dùng cây kim xương nai đâm mù mắt kẻ c**ng bức mình. Tên lính Nga đó tức giận, liền giơ súng bắn chết cô ngay tại chỗ.

Asharyov mặt mày u ám, bước ra khỏi túp lều “kuluozi”. Bên ngoài, lính cứu thương đang băng bó cầm máu cho Yeshninov, kẻ vừa bị đâm mù mắt trái. Không có thuốc giảm đau, cơn đau dữ dội khiến hắn không ngừng nguyền rủa ầm ĩ.

Ở một góc khác, vài tên lính Nga đang điên cuồng đánh đập người thợ săn Ewenki. Chúng dùng báng súng giáng xuống, dùng ủng da đá tới tấp, khiến người đàn ông quằn quại dưới đất.

Asharyov cau mày, ra lệnh cho bọn lính dừng tay. Hắn hiểu rằng muốn thoát khỏi dãy núi này, cả bọn vẫn cần người thợ săn dẫn đường. Giết anh ta lúc này chẳng khác nào tự tìm đường chết.

Hắn rút khẩu súng lục ra, dí thẳng vào trán cậu bé Ewenki.

Từ đầu đến cuối, cậu bé vẫn im lặng. Khi thấy mẹ bị kéo vào trong lều, khi thấy cha bị vây đánh, khi Asharyov dí súng vào trán mình, cậu bé không khóc, cũng không la hét. Chỉ có đôi mắt tràn đầy căm phẫn và đôi môi cắn chặt đến bật máu.

Asharyov nhìn người thợ săn nằm dưới đất, lạnh lùng nói: “Mày, dẫn bọn tao ra khỏi núi và đưa bọn tao đến Song Điền. Tao sẽ tha cho mày và thằng nhóc này. Nếu không…” Hắn dùng họng súng đẩy mạnh vào trán cậu bé. “Tao sẽ bóp cò ngay lập tức!”

Người thợ săn Ewenki nhìn chằm chằm Asharyov thật lâu, rồi gật đầu.

Cả nhóm xuất phát. Người thợ săn đi đầu, dẫn họ theo hướng tây bắc của dãy núi Trường Bạch. Asharyov giữ đứa bé bên cạnh, đoán rằng người thợ săn sẽ không dám bỏ trốn khi con trai mình vẫn nằm trong tay địch.

Thời tiết trên núi Trường Bạch thay đổi thất thường, thuộc kiểu khí hậu vùng núi đặc trưng. Lúc rời đi là giữa trưa, thời tiết khá tốt, không có gió, mặt trời chiếu xuống dịu nhẹ, thậm chí còn thấy ấm áp. Nhưng khi họ mất hơn hai tiếng đồng hồ để ra khỏi khu rừng già rậm rạp, đặt chân lên một bãi cỏ núi cao, thì bầu trời đã bị mây đỏ phủ kín.

Trời tối sầm lại, gió mạnh bắt đầu cuốn theo những hạt tuyết và cát băng li ti, tạo thành cơn bão tuyết trắng xóa, thứ mà người dân vùng Quan Đông gọi là “gió tuyết”. Ở miền này, mùa đông không sợ tuyết rơi, cũng không sợ giá rét, mà chỉ sợ nhất là bão tuyết. Đặc biệt là gió tuyết, khi nổi lên sẽ che kín cả bầu trời, khiến vạn vật chìm trong một màu trắng xoá, tầm nhìn gần như bằng không.

Nhiệt độ cũng giảm đột ngột, cái rét len lỏi vào từng lớp áo, dày đến đâu cũng không thể chống đỡ. Trên bãi cỏ núi cao này, bốn phía không có chỗ ẩn nấp, ngay cả đào một cái hang tuyết để trú cũng không thể. Nếu không nhanh chóng tìm nơi tránh gió, chẳng bao lâu sau, đám lính Nga này sẽ bị cơn gió chết chóc cuốn thẳng xuống địa ngục.

Asharyov hiểu rõ mức độ nguy hiểm, vội vàng gọi người thợ săn Ewenki lại để bàn bạc. Người thợ săn chỉ tay về phía một vách núi đen phía xa, nói rằng nơi đó có thể tránh gió tuyết. Hơn nữa, nếu băng qua vách núi đó, sẽ tìm được đường xuống núi dẫn thẳng đến trấn Song Điền.

Asharyov nheo mắt nhìn theo. Trong lớp sương tuyết mịt mù, vách núi ấy khi ẩn khi hiện, rất khó xác định rõ ràng. Hắn ước lượng khoảng cách, nếu không có gì bất trắc, trong vòng một tiếng đồng hồ là có thể đến nơi.

Gió tuyết đã bắt đầu cuộn lên dữ dội, không thể chần chừ nữa. Asharyov lập tức hét lớn, thúc giục đám lính: “Đi mau! Cố lên, đến đó trú gió!”

Gió ngày càng mạnh, trời cũng mỗi lúc một tối hơn. Khi đám lính Nga đến được điểm dừng chân, tất cả đã kiệt sức, tay chân tê cứng, không còn nghe theo ý muốn.

Nơi này quả thực ít gió hơn, tuyết cũng không dày đặc. Trước mắt họ là một vùng đá núi lửa xám đen, những khối đá lởm chởm, chìm trong màn khói dày đặc, tỏa ra mùi hăng hắc khó chịu. Asharyov ngước mắt nhìn, vách núi đen mà họ trông thấy từ xa nằm ở cuối vùng đá này, cách khoảng năm, sáu trăm mét. Vách cao chừng ba bốn mươi trượng, đỉnh vươn ra khỏi lớp khói mù, sừng sững hiên ngang. Trên đó phủ đầy tinh thể hắc diệu thạch, trơn nhẵn và dốc đứng đến mức khỉ vượn cũng khó mà trèo lên được.

Đám lính Nga đứng ngoài bãi đá, nhìn khung cảnh quái dị chẳng khác nào địa ngục, không khỏi run sợ.

Asharyov tức giận tột độ. Hắn rút súng, chĩa thẳng vào người thợ săn Ewenki, quát lớn: “Đồ lợn Trung Quốc khốn kiếp! Ngươi dám dẫn bọn tao vào chỗ chết này à? Tao bắn chết mày trước, rồi đến thằng con của mày, bắt hai đứa xuống địa ngục cùng chúng tao!”

Người thợ săn Ewenki lắc đầu, bình tĩnh đáp: “Đừng lo, khói này không độc chết người. Chúng ta chỉ cần vượt qua màn khói, đến chân vách núi kia, sẽ tìm thấy lối vào trong núi. Qua được đó, chúng ta sẽ ra khỏi thần sơn.”

Nói xong, ông ta không đợi Asharyov trả lời mà thản nhiên bước vào màn khói mù.

Asharyov liếc nhìn bầu trời mỗi lúc một tối sầm. Giờ có lẽ đã gần chập tối, mà phía sau lưng, gió tuyết đang cuộn lên điên cuồng, che kín cả tầm nhìn. Hắn nghiến răng, quay sang đám lính quát: “Khói này có lưu huỳnh, mọi người xé vải ướt che mũi miệng, chúng ta tiến vào! …Yeshninov!”

Hắn gọi tên gã lính bị mũi kim xương hươu đâm mù một mắt: “Canh chừng thằng nhóc cẩn thận, đừng để nó chạy mất!”

Cả bọn theo Asharyov tiến vào màn khói. Khói đặc khiến ai cũng cay xè mắt, không thể mở to. Người đi đường liên tục bị đá nhọn vấp ngã, có kẻ vô tình chạm phải những bộ xương trắng không rõ là người hay thú, giật mình la thất thanh, càng khiến cả nhóm thêm hoảng loạn.

Khó khăn lắm, bọn chúng mới mò đến được chân vách núi, nhưng không thấy bóng dáng người thợ săn Ewenki đâu cả!

Asharyov lập tức giơ súng, dí vào trán thằng bé Ewenki, gào lên: “Đồ lợn Trung Quốc, ra ngay! Tao đếm đến ba, không ra tao bắn chết con mày!”

Một giọng nói vang lên trong màn sương dày đặc: “Ở đây. Ta đã tìm thấy lối vào.”

Asharyov dẫn đám lính lần theo hướng âm thanh, thấy người thợ săn Ewenki đang đứng trước một tảng đá obsidian khổng lồ, chỉ tay vào đó: “Ở ngay đây.”

Asharyov quan sát hồi lâu mà không thấy bất kỳ lối vào nào. Hắn nghi hoặc nhìn người thợ săn, chỉ thấy ông ta vòng sang một bên tảng đá, đẩy một phiến đá đen dài sang một bên, để lộ một khe nứt hẹp.

Người thợ săn nghiêng người, chậm rãi lách vào trong.

Thấy ông ta đã biến mất vào bóng tối, Asharyov lập tức ra hiệu cho mấy tên lính theo sát. Hắn cũng bảo Yeshninov áp giải thằng bé đi ngay sau mình, rồi mới cố chen người vào.

Khe nứt này rất hẹp, lại bị tảng đá che lấp, nếu không tìm kỹ sẽ khó mà phát hiện. Asharyov vốn to con, phải chật vật lắm mới chui qua được. May mắn là sau khi bò lên phía trước vài mét, không gian dần rộng ra, đến khi đi được chừng mười mét thì đã có thể di chuyển bình thường. Đường hầm tối đen như mực, lại dốc xuống. Họ vừa đi vừa bò suốt gần nửa canh giờ thì bất chợt ánh sáng bừng lên trước mắt. Thì ra họ đã xuyên qua vách núi. Cảnh tượng trước mắt khiến tất cả sững sờ. Không còn đá lởm chởm, không còn khói độc, không còn gió rít, cũng chẳng có tuyết trắng. Thay vào đó là cây cỏ xanh mướt, rừng cây cao vút, hoa dại rực rỡ, suối chảy róc rách.

Ở vùng núi Trường Bạch đang giữa tháng Chạp lạnh giá, bên ngoài là trời đông giá rét, cây cối tiêu điều, vậy mà nơi đây lại ấm áp như mùa xuân, phong cảnh chẳng khác nào tiên cảnh. Lúc này, trời cũng đã gần tối hẳn. Cả bọn vừa mệt vừa đói, Asharyov liền ra lệnh dựng trại. Lương thực mang theo chẳng còn nhiều, chỉ còn ít thịt hươu khô và một cái đùi hoẵng lấy từ nhà thợ săn, không đủ chia cho hơn hai chục con người.

Nhưng may thay, trong khe núi này có rất nhiều nấm dại và trái cây hoang. Asharyov lệnh cho lính hái về, rửa sạch bằng nước suối, bỏ vào nồi sắt cướp được từ nhà thợ săn, cùng với đùi hoẵng nấu thành một nồi canh lớn.

Chẳng bao lâu sau, mùi thịt hoẵng béo ngậy hòa với hương thơm của nấm rừng lan tỏa, khiến ai nấy đều nuốt nước bọt thèm thuồng. Đám lính Nga ào lên, tranh nhau húp canh ăn thịt. Yeshninov múc một phần vào hộp cơm dã chiến, đưa cho Asharyov.

Asharyov uống hai ngụm, rồi hất cằm về phía hai cha con người thợ săn Ewenki đang bị trói cạnh đống lửa, ra hiệu bảo mang thức ăn cho họ.

Mắt trái của Yeshninov bị chọc mù, dù đã được cầm máu và băng bó nhưng cơn đau vẫn dữ dội như khoan thẳng vào óc. Trong lòng hắn hận thấu xương gia đình người thợ săn, miệng lầm bầm chửi rủa, không chịu đi.

Asharyov quát: “Đồ ngu! Chúng ta còn phải dựa vào hai tên Trung Quốc này để ra khỏi ngọn núi quỷ quái này, không thể để chúng chết đói được. Chờ đến khi ra ngoài rồi, muốn lột da, róc thịt chúng thế nào thì tùy ngươi!”

Yeshninov bất đắc dĩ, vừa chửi vừa mang hộp cơm đến, dúi vào miệng người thợ săn, định đút hắn ăn. Nhưng người thợ săn nhắm mắt lắc đầu.

Hắn lại đưa hộp cơm cho thằng bé. Thằng nhỏ trừng trừng nhìn hắn hồi lâu, đột nhiên phun một bãi nước bọt thẳng vào mặt hắn. Yeshninov vội né, nhưng bát canh thịt nấm trên tay lại đổ hết ra người hắn. Hắn giận điên, đá mạnh vào người thằng bé, chửi: “Thằng lợn con! Mày ăn hay không thì tùy! Chờ đến nơi rồi, ông mày sẽ cắt từng miếng thịt mày ra mà nướng ăn!”

Khi quay về bên nồi canh, hắn phát hiện thịt và canh trong nồi đã bị vét sạch, ngay cả một chút cặn cũng chẳng còn. Yeshninov tức điên, mắng chửi om sòm, nhưng đám lính chỉ cười ầm lên chế nhạo. Hắn không có cách nào khác, đành nhai tạm mấy miếng thịt hươu khô lạnh cứng, rồi nằm xuống bên đống lửa nghỉ ngơi.

Nửa đêm, Yeshninov cảm thấy cơ thể rét run, giật mình tỉnh dậy. Hắn cố gắng mở mắt ra, thấy ngọn lửa bên cạnh đã sắp tàn, những đốm lửa nhỏ chập chờn, dường như đang vật lộn giành lấy sự sống.

Hắn lật người, nhìn thoáng sang bên cạnh, chợt kinh hãi tột độ. Người nằm bên cạnh hắn, Lyubushin, đã chết cứng! Gương mặt gã tái mét, đôi mắt mở trừng trừng nhìn hắn, còn trên cổ gã, một lưỡi lê sắc bén xuyên ngang! Yeshninov kinh hoàng ngồi bật dậy, đưa mắt nhìn quanh, dưới ánh lửa leo lét, bảy tám xác chết nằm la liệt trên đất. Xa hơn một chút, mấy đồng đội còn sống đang điên cuồng tàn sát lẫn nhau!

Hắn nhìn thấy Kirikov vung dao chém bay đầu Feodorov! Hắn nhìn thấy Ivanovich nổ súng thổi tung sọ Akhrobetskin! Hắn nhìn thấy người thợ săn Ewenki đưa hai tay bị trói vào đống lửa, nghiến răng chịu đau mà thiêu đứt dây trói, sau đó nhặt lấy một thanh mã tấu, cắt dây cho thằng bé rồi kéo nó chạy thục mạng về phía cửa khe núi! Hắn nhìn thấy trung úy Asharyov giương súng, liên tục nhả đạn về phía hai cha con người thợ săn đang bỏ trốn! Hắn nhìn thấy Nagiyev vòng ra sau lưng trung úy, hung hãn đâm xuyên lưỡi lê qua người hắn! Nhưng Asharyov lại chẳng hề nhận ra, chỉ quay đầu lại.

“Đoàng!” Một phát súng nổ vang, Nagiyev bị bắn vỡ sọ, óc văng tung tóe! Thung lũng tiên cảnh giờ đây dường như đã biến thành địa ngục trần gian.

Không xa phía trước, Shevchenko, kẻ vừa mới dùng mã tấu chém đứt cánh tay trái của Kalinin như bổ củi bỗng quay đầu nhìn hắn. Gương mặt Shevchenko xanh lè, loang lổ những mảng vằn vện như rêu mốc. Một bên mắt đã rơi ra khỏi hốc, chỉ còn một sợi gân dính lại lủng lẳng. Hắn gào lên như quỷ dữ, vung đao lao về phía Yeshninov! Yeshninov run rẩy đến mức không thể nhấc nổi chân lên, cơ thể như bị đóng băng tại chỗ. Hắn chỉ có thể trợn trừng nhìn ánh thép của thanh mã tấu vung tới trước mặt mình.

“Bốp!” Đầu Shevchenko đột nhiên vỡ thành hai nửa! Sau lưng hắn, Kalinin chỉ còn một cánh tay đang nắm chặt một cây rìu đẫm máu, nở một nụ cười quái dị.

Chúa ơi, đây rốt cuộc là cơn ác mộng quái quỷ gì?! Yeshninov cảm thấy đầu óc quay cuồng, rồi ngã vật xuống, bất tỉnh.

☆ Chú thích:

1. 撮罗子 [cuō luō zī] / Кулуози (Kuluozi): Kuluozi là một loại lều truyền thống của người Ewenk, cũng như các dân tộc du mục khác ở Siberia, như người Nenets và Khanty. Kuluozi có cấu trúc tương tự như túp lều tipi của thổ dân Bắc Mỹ, với khung gỗ dựng hình nón và được phủ bằng da tuần lộc hoặc vải bạt. Đây là nơi cư trú di động, phù hợp với lối sống du mục chăn nuôi tuần lộc của người Ewenk.

Nguồn ảnh: 内蒙古博物院 – Inner Mongolia Museum – Bảo tàng Nội Mông

2. Gió tuyết – bạch mao phong (白毛风) là một hiện tượng thời tiết đặc biệt xảy ra vào mùa đông ở vùng Đông Bắc Trung Quốc. Đây là một loại gió lạnh đột ngột kèm theo tuyết, có thể khiến nhiệt độ giảm mạnh trong thời gian ngắn.

Bình Luận (0)
Comment