Sáng hôm sau, Triệu Từ Hành suýt nữa ngã nhào xuống đất. Cô tỉnh dậy trong tư thế như vậy, tạo nên một tiếng động không nhỏ. Cô vội vàng nằm im bên mép giường, không dám cử động.
Bên ngoài ánh sáng mờ nhạt, cô đoán chắc khoảng bảy giờ. Một lát sau, cô từ từ quay đầu nhìn sang. Ngải Đăng nằm nghiêng, mặt hướng về phía cô, trông như không hề thay đổi tư thế từ đêm qua. Anh nhắm mắt, đôi môi mím chặt, hàng mi dài và hơi thở đều đặn, trông như đang ngủ rất ngon. Triệu Từ Hành sợ làm anh thức giấc, rón rén xuống giường từng chút một. Cô cúi xuống xỏ giày, ngẩng lên nhìn, anh vẫn chưa tỉnh, thậm chí tư thế cũng không đổi. Cô liền nhẹ nhàng nhấc chăn lên, từ từ kéo chiếc áo khoác của mình ra. Anh vẫn không tỉnh dậy. Cô thở phào nhẹ nhõm, ôm áo khoác rời khỏi phòng bệnh.
Triệu Từ Hành khép cửa lại, nhìn quanh hành lang, không thấy ai, chỉ có cơn gió lùa khiến cô giật mình. Cô vội mặc áo khoác, quấn chặt lại, rồi nhanh chóng đi ra ngoài. Cô cần về trường trước, chiều sẽ quay lại. Chỉ là cô thực sự không muốn đạp xe nữa. Không ngờ, khi bước tới cổng bệnh viện, cô gặp ngay Yelena vừa bước xuống từ một chiếc xe kéo kiểu Tây.
Yelena trông vẫn rực rỡ như lần đầu Triệu Từ Hành gặp cô. Yelena quay đầu, thấy Triệu Từ Hành, ánh mắt thoáng ngạc nhiên, rồi lập tức vẫy tay chào cô với vẻ đầy thân thiện và tiến lại gần.
“Chào buổi sáng, Yelena.” Triệu Từ Hành cũng bước tới. Cô để ý thấy Yelena cầm hai chiếc túi giấy da nhỏ, chắc chắn là mang bữa sáng cho Ngải Đăng.
“Chào buổi sáng, Triệu tiểu thư…” Yelena cười, nhưng ánh mắt đầy vẻ trêu chọc. “Cô ngủ lại bệnh viện à?”
Triệu Từ Hành không tiện thừa nhận, cũng không muốn nói dối. Cô còn chưa nghĩ ra nên trả lời thế nào, Yelena đã nhanh nhảu nháy mắt nói: “Dù có hay không xảy ra chuyện gì, tôi nghĩ hai người chắc chắn đều không ngủ ngon giấc.”
Điều này đúng là thật, Triệu Từ Hành nghĩ.
“Ồ… cô đang xấu hổ kìa.” Yelena cao hơn Triệu Từ Hành một chút, cúi xuống nhìn chằm chằm vào mặt cô, vẻ thích thú.
Triệu Từ Hành cười che đi sự ngượng ngùng. “Anh ấy còn đang ngủ. Tôi phải đi rồi, tôi phải đạp xe về trường, còn nhiều việc cần làm.”
Yelena gật đầu: “Tất nhiên. Nhưng… làm sao cô biết được?”
“Tôi nghe người ta nói thôi.” Triệu Từ Hành đáp, nở một nụ cười nhẹ thoáng buồn. “Tôi thật sự tiếc. Lúc đó chắc cô đã rất sợ hãi.”
“Đúng vậy, nếu có chuyện gì xảy ra với anh ấy, tôi không biết mình sẽ sống thế nào.”
Triệu Từ Hành nghe câu này, trong lòng hơi bần thần, nhưng không biểu lộ rõ ràng. Yelena chỉ đang nói sự thật. Hơn nữa, tiếng Anh của cô ấy ngày càng trôi chảy.
Yelena nói thêm ngay sau đó: “Xin đừng hiểu lầm, Triệu tiểu thư. Chỉ là… anh ấy rất quan trọng với tôi.”
Triệu Từ Hành hiểu ý Yelena, mỉm cười an ủi: “Đừng lo.”
“Chắc chắn anh ấy chưa nói với cô, phải không?”
“Nói gì cơ?”
“Hôm đó anh ấy không mang theo súng. Lúc nào anh ấy cũng mang theo súng, nhưng hôm đó không. Vì hôm đó, anh ấy định đi tìm cô.”
Triệu Từ Hành đứng sững người. Cô không biết mình lúc này muốn khóc hay muốn cười. Từ khi quen Ngải Đăng và Yelena, cảm xúc của cô thay đổi thất thường hơn hẳn trước đây. Cô vốn không phải người dễ rơi nước mắt, cũng không hay để lộ những cảm xúc nhỏ nhặt. “Cảm ơn cô, Yelena. Tôi hiểu rồi.” Cô nói, trong lòng vẫn dâng trào những cảm xúc khó tả.
Cô muốn chạy về phòng bệnh, nói với gã ngốc đó thật nhiều điều, nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu. Cuối cùng, cô chỉ chào tạm biệt Yelena, rồi đi về phía chiếc xe đạp của mình. Có lẽ chiều nay, khi gặp lại anh, cô sẽ mắng một câu: “Ngải Đăng, anh đúng là đồ ngốc.”
*
Một tuần sau. Hội trường lớn Học viện Nghệ thuật Quốc gia Bắc Bình.
Trưa hôm ấy, hội trường không đông người. Triển lãm từ thiện mùa xuân hàng năm của học viện vừa khai mạc ngày hôm qua và sẽ kéo dài vài tuần, đến khi kỳ học mới bắt đầu.
Các tác phẩm trưng bày chia làm hai loại: chỉ triển lãm mà không bán, và vừa triển lãm vừa bán. Triển lãm miễn phí vé vào, nhưng xung quanh hội trường đều đặt thùng quyên góp, khuyến khích khách tham quan ủng hộ tùy khả năng. Toàn bộ số tiền thu được, bao gồm từ bán tác phẩm, sẽ được dùng cho mục đích từ thiện sau khi triển lãm kết thúc.
Lúc này, tại khu vực bên trái hội trường, nơi trưng bày tranh sơn dầu theo phong cách phương Tây, một chàng trai trẻ đội chiếc mũ nỉ xám đậm đang đứng trước một bức tranh.
Bức tranh vẽ một nhà thờ Công giáo và bóng lưng của một người đàn ông. Người đàn ông trong tranh đội chiếc mũ giống hệt mũ của anh, chỉ khác màu mũ trong tranh là đen sẫm.
“Anh nghĩ người đó đang bước vào nhà thờ hay vừa rời khỏi? Họa sĩ dường như cố tình làm mơ hồ điều này.”
Một giọng nói vang lên sau lưng Ngải Đăng, tiến gần hơn, cuối cùng dừng lại bên cạnh anh. Ngải Đăng không nói gì, vẫn chăm chú nhìn bức tranh trước mặt.
Lương Hi Minh không hề để bụng, tiếp tục nói như tự đối thoại: “Bức tranh này, có vẻ là Từ Hành vẽ rất nhanh, tôi đoán chưa đến một tháng. Cô ấy chọn để triển lãm, nhưng không bán, chắc hẳn bức tranh rất quan trọng với cô ấy. Thật ra, tôi không rành về tranh phương Tây, nhưng miễn cưỡng có thể nhận ra đây thuộc trường phái Lãng mạn. Sự thể hiện cảm xúc trong bức tranh rất mãnh liệt, nhưng cũng vô cùng cá nhân.”
Ngải Đăng cụp mắt xuống, tiếp lời: “Lương tiên sinh có chắc là không bán bức tranh này của Từ Hành?”
Lương Hi Minh chỉ tay vào tờ giấy nhỏ dán bên dưới bức tranh. Trên đó, ngoài tên họa sĩ Triệu Từ Hành và tên bức tranh “Him,” còn ghi rõ dòng chữ “Không tham gia bán đấu giá.” Sau đó, anh mỉm cười nói: “Tiếng Anh của tôi không tốt lắm. Hôm qua nghe mấy sinh viên bàn luận mới chợt nhận ra, ‘Him’ là một cách chơi chữ, vừa ám chỉ Thượng đế, vừa ám chỉ người đàn ông trong tranh… mà chính là Ngải tiên sinh đây.”
Ngải Đăng quay đầu nhìn, bắt gặp ánh mắt của Lương Hi Minh đang nhìn mình. Cả hai chưa kịp nói gì thì giọng của Triệu Từ Hành vang lên từ phía sau, “Anh đến đây làm gì? Ồ, Hi Minh cũng ở đây à.”
Lương Hi Minh nghe nửa câu đầu thì thấy lạ, giống hệt giọng điệu dịu dàng của Vương Túc Cầm khi nói chuyện với mình. Nhưng nửa câu sau lại là giọng điệu quen thuộc của Từ Hành dành cho anh. Anh cũng chẳng ngạc nhiên lắm, bức tranh trước mặt đã nói lên tất cả. Lại thêm cách Ngải Đăng gọi Từ Hành ban nãy, anh thở dài một hơi trong lòng. Dù đã dặn dò kỹ lưỡng, Từ Hành vẫn nhất quyết làm theo ý mình.
Vừa nhìn thấy Triệu Từ Hành, nét mặt của Ngải Đăng trở nên dịu dàng. Anh đã ra viện cách đây mấy ngày, hôm đó Từ Hành cũng có mặt. Những ngày qua cô bận đến mức chẳng thấy đâu, vì thế hôm nay sau khi thay băng ở bệnh viện Hiệp Hòa, anh quyết định đến trường cô tìm. Đến trường, anh định vào thẳng xưởng vẽ, nếu không ở đó thì chắc ở ký túc xá giảng viên. Nhưng dọc đường, anh bị các biển chỉ dẫn dẫn đến hội trường, tò mò muốn xem tranh cô vẽ. Trừ bức tranh cô vẽ về Yelena, anh chưa từng xem bức nào khác. Anh không ngờ cô lại vẽ anh.
Khuôn mặt Triệu Từ Hành lập tức đỏ bừng. Cô cũng không rõ là vì gặp Ngải Đăng hay vì anh đã thấy bức tranh của mình. Hoặc cả hai.
“Ăn trưa chưa?” Cô bước đến gần, Ngải Đăng hỏi.
Ngay cả Lương Hi Minh cũng nghe ra sự dịu dàng đặc biệt trong câu hỏi đơn giản này.
“Rồi. Còn anh?” Triệu Từ Hành hỏi lại, rồi quay sang hỏi Lương Hi Minh, “Hi Minh ăn chưa?”
Ngải Đăng gật đầu, Lương Hi Minh đáp: “Anh cũng ăn rồi.”
Cả ba đều cảm thấy có chút ngượng ngùng, không hẹn mà cùng chuyển ánh mắt sang bức tranh.
Ngải Đăng lại hỏi thẳng họa sĩ: “Thật sự không bán? Em cứ ra giá đi.”
Triệu Từ Hành lườm Ngải Đăng, “Không bán. Anh không được…” Cô ngừng lại, nhớ ra đây không phải chỗ chỉ có hai người, nói vậy không hay.
Lương Hi Minh tốt bụng hòa giải: “Từ Hành còn bức khác bán. Hơn nữa, nếu Ngải tiên sinh muốn làm từ thiện, chúng tôi cũng có thùng quyên góp.”
Ngải Đăng liền bước qua xem bức tranh khác, nhưng ánh mắt anh vẫn lưu luyến “Him” lâu hơn vì bức tranh ấy quá đặc biệt. Triệu Từ Hành và Lương Hi Minh cũng bước theo.
Triển lãm từ thiện đầu năm nay, Triệu Từ Hành chỉ trưng bày hai bức: “Him” và “Người phụ nữ dưới ánh mặt trời.” Đây là tác phẩm cuối cùng cô vẽ trước khi rời Pháp, mất nhiều thời gian và công sức. Cô mang không nhiều tranh về nước, phần lớn với cô đều không đáng giá. Nhưng cô quyết định mang và trưng bày bức này không phải vì nó xuất sắc.
Cô kể: “Em gặp cô ấy ở một quán cà phê khu 5, tên là Miranda. Mẹ cô ấy là người Trung Quốc, bố là người Pháp. Cô ấy nói tiếng Quảng Đông rất giỏi, nhưng em không biết, nên cả hai nói chuyện bằng tiếng Pháp. Em thấy cô ấy rất đẹp, dù có người nói cô ấy bình thường. Em muốn vẽ cô ấy không chỉ vì vẻ đẹp độc đáo mà còn vì nỗi buồn em không hiểu nổi. Sau này em mới biết người yêu cô vừa rời xa cô, cô cũng mất đi đứa con của họ. Cô ấy buồn nhưng không tuyệt vọng. Ánh nắng ở Paris khi ấy rất đẹp, cô ấy đứng trước cửa quán cười với em. Đó là hình ảnh đẹp nhất em từng thấy trong thời gian dài. À, cô ấy cũng học vẽ, là đàn chị của em… vì cuộc sống khó khăn nên làm việc ở quán cà phê. Người Tây gọi họ là…”
“Artiste affamé.” Ngải Đăng tiếp lời, “Starving artist, nghệ sĩ nghèo.”
Lương Hi Minh lần đầu nghe Triệu Từ Hành kể về nguồn cảm hứng cho bức tranh này, nhưng anh cũng biết phần lớn cô đang nói cho Ngải tiên sinh nghe. Anh không chen vào, chỉ yên lặng lắng nghe hai người trò chuyện.
“Đúng vậy,” Triệu Từ Hành nhìn Ngải Đăng mỉm cười, trong ánh mắt vừa có sự phấn khởi vừa phảng phất chút u buồn. “Nhưng em vẽ không tốt. Bố em không thích bố cục của tranh, ông ấy cũng không kịp nhìn thấy tác phẩm hoàn thiện. Còn Hi Minh, anh đã xem rồi, anh cũng nói là thiếu gì đó, phải không?”
Lương Hi Minh thành thật gật đầu. Dù anh không chỉ rõ là thiếu gì, nhưng đúng là bức tranh thiếu một điều gì đó. Đặc biệt khi so với “Him,” những điểm yếu lại càng rõ ràng, phần nhiều không nằm ở kỹ thuật.
Ngải Đăng hỏi: “Miranda nghĩ gì về bức tranh?”
Triệu Từ Hành hơi tiếc nuối lắc đầu: “Em vẽ xong rất muốn mời cô ấy xem, nhưng lúc đó cô ấy vừa đi London. Em lại vội về nước, nên không gặp cô ấy lần cuối. Anh thấy sao? Nói thật đi, đừng dỗ em.”
Ngải Đăng nói: “Anh rất thích…”
Triệu Từ Hành hờn trách: “Đã bảo là đừng dỗ em rồi mà…”
“Anh chưa nói hết.” Ngải Đăng nhìn bức tranh, giọng nói và biểu cảm đều rất nghiêm túc. “Anh rất thích, nhưng đúng là tranh của em có chút khiếm khuyết.”
Triệu Từ Hành nghe xong, phản ứng đầu tiên là hơi khó chịu. Khó trách người ta nói lời thật thường khó nghe. Nhưng cô cũng hiểu đó là sự thật. Cô gặng hỏi: “Vậy tại sao anh lại thích?”
“Nỗi buồn của Miranda, chính là điểm thu hút em, em lại không thể hiện được.” Ngải Đăng trả lời. “Giống như khi lần đầu em vẽ Yelena, em không vẽ được nỗi đau của cô ấy. Dĩ nhiên đó không phải lỗi của em.”
Lương Hi Minh thở dài. Anh tưởng mình chỉ thở dài trong lòng, không ngờ tiếng thở dài lại khiến cả Triệu Từ Hành và Ngải Đăng quay sang nhìn. Anh vội xua tay, ý bảo họ đừng để tâm. Trong lòng anh cảm thán, Ngải tiên sinh còn cứng nhắc hơn cả mình. Đàn ông mà nói thật quá, dễ bị phụ nữ giận.
Ngải Đăng tiếp tục nhìn bức tranh và nói: “Anh thích là vì em đã vẽ theo hình dung lý tưởng của em về một người phụ nữ.”
Có một điều Ngải Đăng không nói ra, nhưng Lương Hi Minh lại nói: “Triệu tiên sinh chắc cũng nghĩ vậy. Ông ấy chắc chắn không mong em hiểu được nỗi đau đó. Nếu em hiểu, thì hẳn em đã trải qua điều tương tự.”
Triệu Từ Hành trầm mặc một lúc, có chút buồn bã nói: “Không trách được bố em luôn bảo em chỉ nên làm giáo viên dạy vẽ, đừng làm nghệ sĩ. Nhưng điều đó đâu phải là chắc chắn…”
“E là chắc chắn rồi,” Lương Hi Minh đáp. “Giống như hầu hết các nhà thơ vĩ đại, cuộc đời họ đều quá nhiều bất hạnh.”
Nghe đến đây, cả ba người lại im lặng một lúc lâu.
Cuối cùng, Lương Hi Minh phá vỡ sự im lặng trước: “Thế nào? Ngải tiên sinh mua hay không mua?”
Ngải Đăng mỉm cười khẽ: “Đương nhiên là mua rồi.”
Triệu Từ Hành lại đổi ý: “Không bán nữa, không bán nữa. Tranh vẽ dở quá, em giữ lại để tự nhắc nhở bản thân, cũng là để nhớ về Miranda. Nếu một ngày nào đó có thể gặp lại cô ấy, em muốn tặng cô ấy.”
Lương Hi Minh không chịu: “Từ Hành đừng tùy hứng như vậy, đã nói là bán đấu giá mà, sao có thể nói đổi là đổi. Số tiền này là để giúp đỡ những người cần giúp đỡ mà.”
“Cô ấy nói không bán thì không bán,” Ngải Đăng đáp, định đưa tay xoa đầu Triệu Từ Hành, nhưng nghĩ đây là trường học, dù trong hội trường ít người nhưng vẫn có người, nên anh dừng lại. “Tôi vẫn sẽ trả giá theo mức định sẵn của bức tranh, lát nữa phiền Lương tiên sinh gỡ bức tranh xuống giúp.”
Lương Hi Minh suy nghĩ một chút rồi nói: “Cũng được, coi như Ngải tiên sinh mua bức tranh này để tặng lại cho Từ Hành.” Anh nói xong bật cười: “Mua tranh của họa sĩ để tặng lại cho chính họa sĩ. Ngải tiên sinh thật lãng mạn. Điều này đúng là phù hợp với tinh thần của một bức tranh lãng mạn.” Nhưng nụ cười của anh có phần cay đắng.
Triệu Từ Hành cúi đầu, trong lòng thầm mắng Ngải Đăng một câu: “Đồ đáng ghét.”
Số tiền cuối cùng Ngải Đăng quyên góp vào thùng còn nhiều hơn cả giá bức tranh. Lương Hi Minh nhìn thấy, vừa vui vừa xót, trong lòng tự nhủ mình cũng coi như đã công tư phân minh. Anh dặn sinh viên phụ trách triển lãm gỡ bức “Người phụ nữ dưới ánh mặt trời,” rồi đuổi theo hai người kia đang bước ra ngoài. Hai người họ đang trò chuyện.
“Hôm nay thay băng rồi à?”
“Ừ.”
“Còn đau không?”
“Sớm không sao rồi.”
“Nhưng anh cũng đừng chủ quan.”
“Biết rồi.”
“Khi nào đi Thụy Tuyết?”
“Bây giờ đi, em có thời gian không?”
Triệu Từ Hành còn chưa kịp trả lời, Lương Hi Minh đã chen vào: “Có, có chứ. Tôi cũng đi.”
Triệu Từ Hành và Ngải Đăng cùng quay sang nhìn Lương Hi Minh.
Anh cười ngượng ngùng: “Lần này nói gì cũng phải cho tôi đi theo, tôi cũng muốn may một bộ đồ mới để ăn Tết.”