Trước đó trong bách hoá gần như không hề có đồng hồ trẻ em, đây là mẫu sản phẩm mới ra năm nay.
Mà loại đồng hồ này cũng chẳng rẻ chút nào, một chiếc giá tới ba mươi tám đồng, gần bằng tiền lương cả tháng của một người công nhân bình thường.
Thật sự không phải gia đình nào cũng có khả năng chi trả.
Tất nhiên, so với đồng hồ người lớn thì đồng hồ trẻ em thế này đúng là rẻ thật.
Bởi vì đồng hồ người lớn, loại rẻ nhất cũng phải gần một trăm đồng, chưa kể những cái đắt hơn, hai ba trăm, thậm chí ba bốn trăm đồng, hoặc còn cao hơn nữa cũng có.
Vậy nên nói đồng hồ trẻ em giá vài chục đồng là đắt cũng đúng, mà không đắt cũng không sai.
Nhưng nếu không mua nhanh thì không kịp, số lượng có hạn, ai đến trước thì được mua trước, cả lô hàng chỉ có đúng 50 chiếc, bán hết là hết!
Còn kẻ “đầu sỏ” khơi mào cho tất cả chuyện này, đương nhiên là Chu Dã, tay gian thương chính hiệu.
Anh dùng hai đứa con lớn làm “người mẫu miễn phí”, một mạch đẩy hết lô hàng đồng hồ trẻ em mà mình chở về.
Cũng phải nói, chất lượng của lô hàng này đúng là khá tốt, chỉ là…
Ba mươi tám đồng một chiếc thì thật sự hơi đắt.
Dĩ nhiên, mức giá này không phải Chu Dã tự định.
Giá nhập của anh là năm đồng một chiếc, bán buôn cho bách hoá với giá hai mươi đồng.
Còn giá bán lẻ treo trên kệ là ba mươi tám đồng, do bách hoá tự quyết.
Thật ra giá đó cũng gần giống với các đại lý bán lẻ ở miền Nam, trước khi quyết định, quản lý bách hoá có hỏi ý kiến Chu Dã, anh đề nghị bán giá ba mươi lăm đồng…
Hạt Dẻ Rang Đường
Dĩ nhiên, lần này Chu Dã về thủ đô, mang theo không chỉ có đồng hồ trẻ em.
Anh còn chở về nhiều loại hàng hóa lớn hơn cả lần trước: Tivi, máy giặt, tủ lạnh, quạt bàn, radio, máy ghi âm… đủ cả.
Đây toàn là đồ điện tử cao cấp, giá cả thật sự không rẻ chút nào.
Có thể nói là “rẻ” thì chỉ có mấy món như radio với quạt bàn.
Radio bán với giá năm mươi lăm đồng, quạt bàn là tám mươi lăm đồng một cái.
Còn lại toàn đồ “đắt đỏ”!
Thế mà ngay khi vừa được trưng bày, liền có người xếp hàng dài mua sắm.
Ai cũng đem theo tiền và phiếu mua hàng đến mua bằng được.
Vậy nên chỉ vài ngày thôi, Chu Dã đã nhận được khoản thanh toán cuối từ bách hoá.
Cách thức hợp tác là: Chu Dã cung cấp hàng hóa, bách hoá sẽ thanh toán một phần tiền trước, phần còn lại sẽ thanh toán sau khi bán hết.
Không tính đến lợi nhuận từ các giao dịch ở miền Nam, chỉ riêng chuyến hàng lần này, Chu Dã đã kiếm được khoản lãi tương đương hai phần ba của một vạn đồng.
Khả năng “hốt vàng” của anh thật đúng là khiến người ta nể phục.
Và về sau, mỗi lần anh quay lại, gần như đều có thể chở một thuyền hàng về.
Tất cả đều là khoản thu nhập “ngoài lề”, chưa kể đến công việc làm ăn chính ở miền Nam, mà những món đó mới là “thu nhập lớn” thật sự.
Lần này trở về, Chu Dã còn đặc biệt mang về một món quà tặng cho mợ.
Một đôi bông tai vàng nhỏ xinh.
Ban đầu mợ không chịu nhận món quà đắt đỏ này, nhưng Bạch Nguyệt Quý cũng khuyên nên nhận, cuối cùng bà mới miễn cưỡng cầm lấy.
Nhưng bà không đeo, chỉ cất kỹ lại thôi.
Tối đó, bà ngồi bên cậu, cảm thán:
“Cả đời này tôi cũng khổ quen rồi. Từ nhỏ đã bị bố mẹ bán làm người ở cho nhà người ta, bảo quỳ là phải quỳ, không cho ăn là không được ăn, mắt không tinh là ăn roi như chơi. May mà gặp được thời giải phóng mới được làm người tự do. Nửa đời trước còn khổ hơn cả nước khổ hoàng liên, nhưng nửa đời sau, đến cuối đời lại được hưởng cái phúc vốn nên là của Tiểu Vân.”
Đúng vậy, nếu em chồng còn sống, thì tất cả những điều này đáng lẽ là phúc phần em chồng được hưởng.
Nhưng giờ đây, lại là bà được hưởng.
Cậu Cố an ủi:
“Vợ chồng A Dã nhớ hồi ở quê khó khăn, bà qua giúp một tay đấy.”
Mợ nhắc đến chuyện xưa, giọng có phần nghẹn ngào:
“Nhắc lại làm gì, chuyện nên làm thôi mà. Hồi xưa em rể đối xử với mình tốt thế nào? Tiểu Vân cũng quý tôi, còn A Dã, nó từng bán thân vì gia đình, khó khăn lắm mới thoát ra được, giờ cưới được vợ tốt, lại làm bố rồi, tôi qua giúp một tay chẳng phải chuyện nên làm sao? Mà nói thật, từ lúc tôi đến, hai đứa có cái gì tốt cũng không giấu tôi, thứ gì ngon cũng cho tôi ăn, cho tôi dùng,
Nói đi chăm cháu, nhưng thật ra là đi hưởng phúc.”
Cậu Cố cười cười:
“Thì là đi hưởng phúc chứ gì nữa. Rượu sâm đắt đỏ như thế mà bà còn có phần, một ngụm sống thêm ba năm, bà uống mấy ngụm rồi, chắc sống thêm mấy chục năm đấy!”
Mợ bật cười, mắng yêu:
“Ông già c.h.ế.t tiệt, còn trêu chọc tôi nữa!”
Cậu Cố lại an ủi:
“Giờ vợ chồng nó khấm khá rồi, muốn báo hiếu thì cứ nhận đi. Bọn nó vui là được, bà đừng từ chối.”
Mợ cười nói:
“Sau này khi mấy đứa nhỏ lớn lên lấy vợ, tôi sẽ gom góp ít vàng, Làm cho mỗi cô cháu dâu một cái nhẫn, gọi là có quà cưới.”
Cậu Cố cười nói: “Vậy thì bà phải giữ gìn sức khỏe, cố sống đến lúc đó đấy.”
“Nhất định tôi sống thọ hơn ông.” Mợ hừ nhẹ một tiếng.
Hai ông bà già đấu võ mồm một lúc, thấy cũng đã khuya, mới chịu đi ngủ.
Chu Dã lần này trở về không chỉ là để mang hàng về, mà còn mang theo tin tức về tình hình hồi phục của Cố Quảng Thu.
Hiện tại anh ấy vẫn chưa thể nói được thành câu dài, nhưng đã có thể phát ra âm thanh, có thể bật ra từng từ đơn như “nước”, “uống”, “ăn”, “nhanh”, “chậm”… những từ ngắn và cơ bản như thế.
Giống hệt như một đứa trẻ một tuổi đang tập nói bập bẹ vậy.
Điều này vốn dĩ đã nằm trong dự đoán của bác sĩ, chỉ cần kiên trì luyện tập từ từ sẽ hồi phục, không được hét to, không được nôn nóng, tránh làm tổn thương lại dây thanh và cổ họng.
Cố Quảng Thu cũng rất nỗ lực. Hễ có thời gian rảnh là anh lại tập phát âm từng chút một.
Lần đầu tiên tập nói trước mặt Lý Thái Sơn, cậu ta còn sững sờ, chỉ tay vào Cố Quảng Thu hồi lâu không nói nên lời, mãi mới thốt ra được một câu:
“Không phải anh bị câm rồi à?”
Kết quả bị Chu Dã vả cho một trận.
Biết được tình hình của Cố Quảng Thu, Cậu Cố, mợ và cả Trương Xảo Muội đều rất vui mừng.
Chu Dã còn mang cả tiền lương và tiền thưởng của Cố Quảng Thu về giao lại cho Trương Xảo Muội, rất nhiều, tổng cộng một tháng là 280 đồng.
Số tiền này nhiều như vậy đương nhiên là nhờ lợi nhuận cao từ việc buôn bán ở miền Nam.
Hai chiếc xe tải luân phiên chở hàng, lại thuê thêm mấy cậu lính xuất ngũ trẻ tuổi, làm việc từ sáng đến tối, không phải chuyện chơi đâu!
Trương Xảo Muội cũng có biếu tiền tiêu vặt cho bố mẹ chồng, mỗi người 5 đồng, không tính vào chi phí sinh hoạt, chỉ đơn giản là tiền tiêu riêng cho hai ông bà, muốn tiêu gì thì tiêu.
Dù Cậu Cố và mợ không thiếu tiền, vì cứ mỗi lần Chu Dã về, đều cho mỗi người hai tờ “đại đoàn kết” để làm tiền tiêu vặt, muốn mua gì thì mua, muốn ăn gì thì ăn, không cần phải dè sẻn.
Nhưng con dâu thứ đã có lòng hiếu thảo thì họ cũng không từ chối.
Cậu Cố giữ lại khoảng một hai đồng bên mình là đủ, phần còn lại mợ giữ.
Tuy nhiên, bà tuyệt đối không lấy tiền đó để trợ cấp cho Cố Quảng Hạ đang nuôi lợn ở quê.
Bởi vì bây giờ xã hội đã khá hơn nhiều so với thời của họ rồi.
Hồi đó họ còn có thể tự mình nuôi lớn con cái, thì xã hội hiện tại, chỉ cần không lười đến mức không thể tả, thì không đến nỗi không có cơm ăn.
Cần gì đến họ — hai ông bà già — phải quay ngược lại đi trợ cấp?
Tiền mà con trai con dâu, cháu trai cháu dâu hiếu kính, họ phải giữ kỹ.
Vì sau này cần dùng đến rất nhiều, lũ cháu chắt còn phải cưới vợ gả chồng cơ mà!