Triệu Nguyên Tá mừng lắm, hớn hở rời lều Da Luật Hưu Ca về lều của mình. Cả đêm hôm đó hắn kích động không ngủ được, ngồi xuống học động tác của cha mình, lúc thì nói "miễn lễ", lúc bảo "bình thân", không thì đứng bật dây hô "tan triều". Cứ như là làm hoàng đế tới nơi rồi vậy, không hề biết có đôi mắt âm độc trong bóng tối nhìn trò hề của mình.
Chiều ngày hôm sau bọn họ tới ngoài thành Lương Hương, có điều ở đây bọn họ bị hạn chế khu vực hoạt động, chỉ có thể ở nơi chỉ định của quân Liêu, cấm đi lung tung.
Tới sáng sớm ngày hôm sau, trời vẫn còn tờ mờ sáng, bọn họ được trọng binh quân Liêu hộ tống lên đồi đất cao. Đứng ở đây có thể thấy bốn xung quanh thành Lương Hương đều là quân Liêu, đội ngũ chỉnh tề. Những chiếc máy bắn đá cỡ lớn đã được đặt trời mô đất cao, còn xe bắn nỏ, xe công thành, xe thang, xe chắn tên nhiều không biết bao nhiêu mà kể.
Mặc dù nhìn đâu cũng thấy quân Liêu nhưng trừ tiếng ngựa hí thì gần như không nghe thấy tiếng nói chuyện, một sự lặng khiến người ta sợ hãi.
Ngược lại trên tường thành Lương Hương, tuy cũng chi chít quân Tống, nhưng mà lộn xộn thấy rõ, chẳng nhìn ra doanh nào với doanh nào, chẳng thấy vũ khí thủ thành. Lại nhìn cổng thành đã tan nát, sợ không chịu nổi một húc của xe công thành. Tường thành thì thấp, có nơi đã sụp đổ. Chết người nhất là không có sông hộ thành.
Dương Duyên Phổ thở dài:” Bảo sao quân Liêu dám mạnh miệng tuyên bố hạ thành trong một ngày, xem ra không phải nói khoác.”
Triệu Nguyên Tá nghe vậy thì càng mừng, mặt vẫn phải làm ra vẻ sầu bi.
Đúng lúc ấy bọn họ nghe thấy tiếng trống như sấm rồi dưới chân rung chuyển, thì ra là những chiếc máy bắn đá đang quăng ra những tảng đá lớn. Tảng trúng vào tường thành, sụp đổ quá nửa, tảng ném vào quân Tống, tiếng la hét liên hồi, quân trên tường thành đang tháo chạy.
Oanh kích liên tục hơn nửa canh giờ, tường thành tan hoang, thảm vô cùng, quân trên đó chết không biết bao mà kể ... À phải nói là chạy. Dù thế nào quân sĩ trên tường thành đã thưa thớt lắm rồi.
Tiếng trống thay đổi, máy bắn đá dừng lại, từng hàng xe bắn nỏ đẩy ra, nhắm vào tường thành. Tiếp đó là những tiếng "phựt phựt" nối liền liên tiếp, nỏ bắn vun vút, cắm loạn xạ lên tường thành. Không phải để giết địch, mà là cho binh sĩ leo tường thành.
Tiếng trống lại thay đổi, quân Liêu bắt đầu hành động. Bọn họ đẩy những chiếc xe chắn tên tiến lên, binh sĩ nấp ở phía sau, hô lên từng tiếng vang dội uy hiếp tinh thần tiến tới dưới tường thành Lương Hương.
Trên tường thành quân Tống bắn cung tới tấp, vô trật tự hỗn loạn. Dương Duyên Phổ lắc đầu:” Địch còn chưa tới đã bắn, thế này khác gì tặng tên cho người ta kia chứ?”
Kha Mặc cũng chán nản:” Thế này thì chưa cần tới nửa ngày đã có thể phá thành rồi.”
Xe chắn tên tới dưới tường thành, cùng lúc đó thang mây cũng tới nơi, cung tiễn thủ nấp sau xe chắn tên luân phiên bắn lên tường thành yểm hộ để bắc thang.
Quân Liêu cũng liên tục ngã xuống, nhưng không thể cản họ.
Khi toàn bộ đã tới dưới chân thành, trống trận trở nên dồn dập, binh bĩ sau xe xông ra đồng thanh hô "giết" rung chuyển màng nhĩ, ào ạt leo lên tường thành.
Tên từ hai phía thoáng cái tăng lên gấp bội, đúng với hình dung tên như mưa. Binh sĩ trúng tên ngã xuống, gỗ đá trên tường thành cũng ném xuống tới tấp, không ngừng có binh sĩ ngã từ trên thang xuống chết thảm.
Ở cổng thành, xe công thành đã tới, súc gỗ lớn đầu bọc thép liên tục húc vào cổng thành tan nát sẵn, nhưng phía sau đã bị chướng ngại vật chặn lại, húc không được.
Chiến đấu nhất thời vào trạng thái giằng co.
Dần dần quân Liêu ở phương hướng khác cũng truyền tới tiếng hô hét, bọn họ đang triển khai tấn công toàn diện.
Gần tới trưa sức đề kháng của quân Tống suy giảm thấy rõ, vì từ thương tăng lên, sĩ khí sẽ suy giảm, còn quân Liêu vẫn hừng hực khi thế. Rốt cuộc bọn họ cũng phá được cổng thành xông vào chém giết.
Trên tường thành, quân Liêu đang dần chiếm thế áp đảo, tiếng la hét truyền ra toàn là tiếng Khiết Đan.
Khói đen bốc lên nhiều nơi trong thành, quân Liêu đang phóng hỏa.
Lúc này là giữa trưa, thành bị phá rồi.
Năm người nhìn nhau, sắc mặt khó coi.
Tiếng la hét nhỏ dần, mọi người biết sắp kết thúc rồi. Quả nhiên từng đội quân Tống bị áp giải thất thểu đi ra, thừng lớn trói người nọ nối người kia. Hiển nhiên khi quân Liêu vào được thành là họ mất ý chí đầu hàng luôn rồi.
Tù binh đi ra từ chiều tới chập tối mới kết thúc.
Đám Dương Duyên Phổ đứng chết lặng trên ngọn đồi đất, Triệu Nguyên Tá khóc lóc thảm thiết, chỉ là chẳng có nổi giọt nước mắt nào.
Chập tối, họ rời đồi đất về doanh trại.
Trên đường về Triệu Nguyên Tá luôn mồm nói với quan viên nước Liêu, yêu cầu phải đảm bảo an toàn cho phụ hoàng hắn, mọi điều kiện đều có thể thương lượng.
Cuộc chiến kết thúc không lâu, Da Luật Hưu Ca còn mặc nguyên khôi giáp dính máu cùng với vết cháy xém tới lều bọn họ, còn dẫn theo một người, không ngờ là Vương Kế Ân, thái giám thiếp thân của Triệu Quang Nghĩa.
Vương Kế Ân thần sắc ảm đạm, gặp lại đám đại thần nước Tống cũng chẳng hề vui vẻ, bởi hắn biết, những người này chẳng thể giúp mình, nước Liêu quá hùng mạnh. Cả quan gia từ sau khi bị bao vây không thoát ra được cũng sa sút như biến thành người khác, nô tài như hắn làm sao khá hơn.
Triệu Nguyên Tá tóm ngay lấy tay hắn, hỏi gấp:” Vương công công, phụ hoàng ta đâu? Người, người không sao chứ?”
Vương Kế Ân gượng gạo nói:” Không sao, quan gia rất an toàn ... Quân Liêu phá thành nhưng không tiến công nha môn, hiện giờ quanh quan gia còn khoàng 1000 cấm quân. Còn lại đã chiến tử hoặc đầu hàng. Quân Liêu nói sẽ không làm hại quan gia, cũng không không bắt quan gia làm tù binh, chỉ hi vọng đàm phán với quan gia, đồng thời nói trong triều đình phái năm quan viên đàm phán đang ở ngoài thành. Quan gia đã viết một đạo thánh chỉ, bảo nô tài đưa cho mấy vị đại nhân, nhất định đồng ý với điều khoản cắt đất bồi thường. Chỉ cần quan gia về được sẽ trọng thưởng cho năm người.”
Nói xong lấy thánh chỉ ra.
Triệu Nguyên Tá vừa khóc vừa lĩnh chỉ, xem xong đưa Hướng Củng:” Nhi thần cẩn tuân thánh dụ, nhất định bằng mọi giá đưa phụ hoàng về.”
Hướng Củng xem xong cũng khóc như mưa đưa cho người khác, thánh chỉ viết rất cấp thiết, nói phải đáp ứng điều kiện của nước Liêu, ai kháng chỉ, tru di cửu tộc. Đạo thánh chỉ này làm người ta nản lòng tới cực điểm, cả người phe Triệu Nguyên Tá là Kha Mặc và Thạch Hi Tái cũng thấy bẽ bàng, hoàng đế không còn tôn nghiệm, thần tử đâu ra tôn nghiêm nữa.