(*Thuyền đến đầu cầu là một vế trong câu thành ngữ "Thuyền đến đầu cầu tự nhiên thẳng" của Trung Quốc, ý nghĩa là đến lúc then chốt sẽ có cách giải quyết; việc đến đâu hay đến đó; khi sự việc diễn tiến tới bước cuối, tự nhiên sẽ có lối ra.)
Bà tử kia chạy một mạch, chạy đến mức thở không ra hơi, đợi đến khi tìm được một lang y đang ngồi khám ở y quán thì Tạ Du Nhiên đã sinh trong xe ngựa, trong xe ngựa truyền đến liên hồi tiếng khóc la, tình cảnh vô cùng hỗn loạn.
Mà bên ngoài xe ngựa thì có rất nhiều người hiếu kỳ vây xem, mồm năm miệng mười bàn tán: "Nhìn dáng vẻ này thì có vẻ là phu nhân quan lại! Cũng không cần phải ra ngoài để mưu sinh, sao sắp sinh rồi còn chạy ra ngoài làm gì?"
"Chẳng phải thế sao? Sinh con ngay giữa phố chợ ồn ào như thế này, sau này còn mặt mũi nào gặp người nữa?"
Những lời bàn tán rì rào không dứt cứ dội thẳng vào trong xe ngựa, làm Tạ Du Nhiên nghe mà vừa thẹn vừa giận, không ngừng cất giọng quát, giục phu xe mau mau thúc ngựa rời đi.
Từ thị hoàn toàn không để ý được mấy chuyện này!
Bà hai tay đầy máu ôm lấy nữ nhi mà Tạ Du Nhiên vừa sinh ra, khóc đến run giọng nói: "Lang y mau xem, sao hài tử lại không khóc?"
Lang y vừa nhìn đã thấy làn da của nữ anh tím đen, bất động liền lập tức thầm kêu xong đời rồi.
Người đỡ đẻ làm không đúng cách, nước ối đã tràn vào mũi miệng của trẻ, không kịp hút đẩy ra, khiến nó ngạt thở mất rồi!
Từ xưa sinh nở vốn như đi qua Quỷ Môn Quan, nếu có bà đỡ lão luyện ở đó, gặp tình huống như vậy ắt sẽ nghĩ cách xử trí kịp thời để tống nước ối trong mũi miệng của hài tử ra.
Đáng tiếc, Tô thị cả đời sống trong nhung lụa, lại thêm năm tháng đã lâu nên quên mất tình cảnh khi ấy; dẫu từng sinh nở cũng không biết xử trí loại tình huống này. Thấy hài tử không khóc, bà chỉ ra sức vỗ mông nó, làm chậm lỡ mất thời khắc vàng để cứu chữa.
Lang y sau một hồi cứu chữa không có kết quả, chỉ có thể tiếc nuối báo một tiếng, anh nhi này đã không cứu được nữa rồi!
Hôm đó khi Tô thị đưa Tạ Du Nhiên về nhà, Chu gia liền lập tức nổ tung nồi.
Chu Tùy An còn đang ở nha môn, không có ở nhà. Triệu thị nghe tin tức phụ sinh nở trên xe ngựa mà hài tử lại không giữ được, quả thực như sét đánh giữa trời quang!
Bà ta khóc lóc thảm thiết, quả quyết rằng là do anh linh thai nhi của Hồ thị từng bị sẩy trước đây quấy phá. Bà bảo Tạ thị ở nhà ăn chay để an ủi vong linh, nhưng Tạ thị lại không chịu nghe.
Bây giờ xem ra, Tạ thị này đã gặp báo ứng rồi!
Lời này thực sự cũng quá mức chói tai!
Phải biết nữ nhi Tạ Du Nhiên vừa mất đi hài tử, vừa rồi trên xe ngựa đã gào khóc đến chết đi sống lại rồi!
Tô thị coi như đã tận mắt thấy rõ cái xấu của bà bà Triệu thị này, nhất thời giận đến mức toàn thân run rẩy, lên tiếng trách mắng Triệu thị ăn nói độc địa.
Phen này Triệu thị lại nắm được lý, bà ta trừng mắt nói: "Ngươi làm mẫu thân thì tốt lắm sao? Hỏi khắp thiên hạ xem, có nhà nào nữ nhi sắp lâm bồn, mà làm mẫu thân lại không cho con an thai, còn dắt nàng đi khắp nơi thăm viếng, dự đủ loại trà yến lớn nhỏ? Mấy ngày nay ta khổ tâm khuyên nàng ở nhà, nói rằng bà đỡ với lang trung đều đã mời đâu vào đấy rồi. Thế nhưng nàng có nghe không! Ngươi làm mẫu thân mà không biết dạy dỗ nữ nhi, hại máu mủ Chu gia ta phải chịu vạ! Dẫu cho nàng có sinh nở bình an thì đã sao, cũng chỉ là một nữ anh nhi, còn Hồ thị năm xưa bị sảy thai lại là một nam anh nhi đã thành hình đấy!"
Nói đến đây, Triệu thị dứt khoát ngồi phịch xuống đất, không còn để ý đến dáng vẻ của thê quyến quan lại, khóc lóc đến nỗi nước mắt nước mũi tèm lem: "Số ta khổ quá! Sao lại gặp sao sát tinh nhà ngươi vậy! Hại cốt nhục Chu gia ta lần lượt chết yểu, cả ngày đều không được yên ổn, mụ mê tín nhà người còn dám nói ta sai đi! Có dám theo ta ra công đường kiện cáo, xem rốt cuộc là ngươi hay ta mới là kẻ ác độc không?"
Nhất thời, Triệu thị càng nói càng tủi thân, ấm ức, giọng cũng mỗi lúc một to, đến cả nữ nhi khuyên can cũng không chịu nghe.
Một trận ồn ào này ồn đến mức hàng xóm láng giềng xung quanh đều ra ngoài cửa xem náo nhiệt.
Thậm chí có kẻ từ phố chợ ồn ào trở về, vừa thấy chuyện là lập tức thao thao bất tuyệt kể với đám hàng xóm đứng xem về việc tức phụ nhà họ Chu khi nãy sinh nở ngay giữa phố.
Tô thị là người sĩ diện, lại thêm bản thân cũng có chỗ đuối lý, nhất thời không đỡ nổi những lời mạt sát độc địa của Triệu thị, càng không yên tâm khi nghĩ nữ nhi còn ở cữ lại bị vị bà bà này dày vò.
Cuối cùng, Tô thị tức không chịu nổi, dứt khoát dẫn Tạ Du Nhiên khóc đến suýt ngất đi về Tạ gia.
Đợi Tạ Thắng trở về, nghe xong chuyện này cũng ong ong cả đầu.
Ông tức giận chỉ vào Tô thị mắng: "Lời Triệu thị nói có chỗ nào sai? Ngươi còn là người làm mẫu thân! Sao vào thời điểm then chốt này còn dẫn nàng đi dạo lung tung!"
Lúc này Tô thị cũng hối hận đến xanh cả ruột.
Bà định nói nữ nhi có quan hệ với bà bà không tốt nên mới không thể an tâm ở nhà, bà cũng khuyên rồi nhưng tính Tạ Du Nhiên khuyên thế nào cũng không nghe.
Nhưng giờ nói những lời này rõ ràng không thích hợp.
Tạ Thắng bất đắc dĩ nói: "Cho dù bên thông gia có mắng chửi thế nào, nàng cũng không nên đón nó về, nó đã là người Chu gia rồi, nàng đón về, nó làm sao quay lại được nữa?"
Lúc này Từ thị cũng có chút hối hận, Tạ Du Nhiên sau khi về đây vẫn luôn trốn mình trong phòng khóc, khi thì mắng Triệu thị không tốt, lúc lại oán trách mình vận rủi, nghe cũng có chút nhức đầu.
Sự đã đến nước này, chỉ có Chu Tùy An mau mau đến đón người về mới là thỏa đáng.
Chu Tùy An đang ở nha môn Hộ bộ nghe người nhà họ Tạ đến bẩm báo, nói là Tạ Du Nhiên trên đường đi dự trà yến thi xã về đã lâm bồn, nhưng hài tử lại chết yểu, cũng rã rời đến nỗi ngã phịch xuống ghế.
Thực ra hắn cũng phần nào thấu hiểu Tạ Du Nhiên, dẫu sao mấy ngày nay trong nhà chướng khí mù mịt, đến hắn còn ngại chẳng buồn về, huống hồ là Tạ Du Nhiên?
Hắn tuy biết mình nên đến đón thê tử về nhà để tĩnh dưỡng cho tốt, nhưng nhất thời lười nhác chẳng muốn động đậy, chỉ muốn yên tĩnh nán lại ở nha môn một lúc.
Hắn đổ người trên ghế, nhất thời nghĩ ngợi: nếu khi xưa không phải vì chút cốt nhục trong bụng Tạ Du Nhiên, hắn hà tất phải chia lìa với Lâm Lang? Nhưng ông trời rốt cuộc bỡn cợt hắn đến mức nào? Vòng vo một lượt, lại để hắn liên tiếp mất đi hai cốt nhục.
Chu Tùy An ít khi ngoái lại nghĩ về những lỗi lầm mình đã phạm, nhưng hôm nay hắn lại không kìm nổi nỗi hối hận: giá như khi trước hắn kìm được chút tâm viên ý mã ấy, thì giờ đây bản thân sẽ là quang cảnh thế nào?
Có Lâm Lang quán xuyến mọi việc lớn nhỏ trong nội trạch, thì tiểu thiếp Hồ thị ắt sẽ yên tâm hạ sinh, sinh cho Chu gia một nam hài để nối dõi tông đường.
Trong nhà có hai gian cửa hiệu làm ăn, không lo thiếu bạc. Còn hắn thì có thể yên tâm lo công vụ, mỗi ngày ung dung về nhà dùng bữa, thư thái ra ngoài kết giao bằng hữu.
Nếu nói khi Chu Tùy An và Sở Lâm Lang hòa ly, hắn đôi khi còn có chút hối tiếc, thì khoảnh khắc này, nỗi hối hận ấy quả thực đã dâng đến tột đỉnh, trào dâng nghẹn nơi đầu môi chót lưỡi, là vị chua xót không sao phớt lờ được.
Trước kia, hắn vẫn thầm cho rằng, với điều kiện của mình, nếu chẳng phải thuở thiếu niên nông cạn chưa thấy sự đời, lẽ ra đã có thể cưới một nữ tử tốt hơn làm thê tử.
Vì thế, khi Chu Tùy An bắt bẻ soi mói Lâm Lang, hắn cũng thấy mình đường đường chính chính, có lẽ có cớ.
Sở thị ít đọc sách, lại là phường con buôn, ngoài dung mạo ra, biết kiếm được chút bạc thì gần như chẳng có gì được.
Thế nhưng lúc này, trong nhân duyên lần thứ hai rối ren đến mức gà bay chó sủa, hắn rốt cuộc thấm thía sâu sắc rằng, thì ra giữa thê tử với thê tử cũng khác nhau một trời một vực.
Lúc trước có thể cưới được Lâm Lang là hắn may mắn biết bao!
Nghĩ đến đây, lẽ ra hắn phải sang Tạ gia thăm hỏi thê tử, vậy mà như có ma xui quỷ khiến, hắn lại đứng dậy, hướng về phủ trạch của Lâm Lang mà đi.
Đợi đến khi hắn tới con hẻm ấy, gõ vang cửa, chờ một hồi lâu vẫn chẳng thấy có động tĩnh gì.
Thấy hắn ngó nghiêng trước cửa, có hàng xóm tốt bụng nhắc: "Các hạ muốn tìm Sở gia chăng? Chẳng lẽ các hạ không biết rằng Sở nương tử đã mua một tòa phủ trạch to ở ngoại ô kinh thành, người đã dời đi rồi!"
Chu Tùy An sửng sốt: "Mua phủ trạch? Nàng ấy lấy đâu ra tiền?"
Lúc trước nàng rời khỏi Chu gia, tuy mang đi hai cửa tiệm ở quê nhưng cho dù có bán cả tiệm cũng không đủ để nàng mua phủ trạch ở đất Kinh thành!
Tuy trạch viện ở ngoại ô Kinh thành rẻ, nhưng vì gần Kinh thành nên cũng có nhiều quan viên mua đất, vẫn là một mức giá cao ngất trời, không phải thứ một thương nhân bình thường có thể mua nổi.
Người láng giềng kia liền hớn hở nói: "Ngươi không biết đấy thôi, Sở nương tử kia chính là thần tài đó! Không rõ làm ăn thứ gì nhưng càng lúc càng lớn, dạo trước còn đặt mua đồ gia cụ bày biện ở chỗ thân thích nhà ta, hoành tráng lắm! Mua hẳn hai cỗ xe ngựa chở hàng. Ôi chao, chẳng biết mai này sẽ tìm bậc lang quân thế nào, cưới được người như vậy thì có phúc biết bao!"
Ra khỏi hẻm nhỏ, Chu Tùy An lại càng thêm sầu não.
Vì sao bản thân hắn vẫn giậm chân tại chỗ, thậm chí còn lùi bước, còn Sở Lâm Lang thì đã tiến xa đến chốn nào rồi...
Lại nói về Sở Lâm Lang, sau khi nàng nhận được dụ chỉ của thái hậu, liền luôn chân luôn tay bận rộn sắp xếp mọi thứ sau khi dọn đến trang viện ở ngoại ô Kinh thành.
Tối nay trời âm u, nhìn có vẻ như sắp có một trận mưa lớn, vậy nên nếu tối nay ăn một nồi lẩu nóng hổi thì còn gì bằng.
Từ khi nàng và Tư Đồ Thịnh chính thức đính hôn, Tư Đồ Thịnh đến đây ăn cơm cũng thuận tiện hơn nhiều.
Đối với tế tử tương lai nhà mình, Tôn thị còn nhiệt tình hơn cả Sở Lâm Lang. Bà sớm đã gọi phòng bếp chuẩn bị nhiều nguyên liệu, thậm chí còn tự mình xuống bếp nấu nướng cho tế tử tương lai.
Nhưng đợi đến khi Tư Đồ Thịnh đến, Tôn thị lại lấy cớ ăn tối nhiều quá khó tiêu, không ăn cùng bọn họ mà tự mình về viện của mình sớm.
Dù sao nữ nhi bà và Tư Đồ Thịnh cũng khó có dịp được gặp nhau. Nữ nhi đã lớn như vậy rồi, tất nhiên là không cần bà phải làm mẫu thân ở bên cạnh giám sát.
Trong ngày mưa se lạnh thế này, hai người ngồi đối diện dưới hiên ăn nồi lẩu nóng, thật vui sướng biết bao.
Chỉ là thói quen ăn uống của Tư Đồ Thịnh vẫn không sửa nổi, hắn cứ nhặt những miếng vỏ há cảo tôm lộ nhân trong nồi và mấy đầu cá thấm vị mà ăn.
Mỗi lần đều như thế, cho dù mâm cơm có phong phú thế nào, hắn cũng theo thói quen gắp trước những phần vụn vặt, kém ngon ở bên rìa.
Ví như ăn cá, thì trước hết hắn sẽ ăn cái đầu toàn mang hoặc say sưa m*t xương cá; không thì lại gắp rau trước, chẳng động đến miếng thịt lẫn trong rau.
Trước đây, ngay lần đầu cùng hắn dùng bữa, Lâm Lang đã để ý. Ban đầu tưởng rằng hắn thích ăn đầu cá, về sau mới nhận ra không phải vậy.
Đó chỉ là dấu ấn khó bề phai mờ từ những trải nghiệm của tuổi thơ cơ cực đã để lại nơi hắn mà thôi.
Suy cho cùng, khi còn ở Giang Khẩu, kế sinh nhai của hai mẫu tử bọn họ về sau đều nhờ các lão bộ tướng như Tùy Thất Gia chu cấp, đôi khi cũng có lúc túng thiếu, chắp vá.
Từ nhỏ, Tư Đồ Thịnh đã quen nhường phần ngon cho mẫu thân Ôn thị. Còn giờ hắn lại theo thói quen mà nhường những thứ ngon lành ấy cho Lâm Lang.
Chỉ có điều, nếu chỉ mình hắn với Quan Kỳ cùng ăn, thì khác nào hai con sói đói tranh phần, chẳng còn chuyện ai nhường ai.
Tuy hiểu tấm lòng của Tư Đồ Thịnh, nhưng Lâm Lang nhìn hắn ăn như vậy, nơi cổ họng luôn nghèn nghẹn chua xót.
Nghĩ vậy, nàng vươn đũa giành lấy cái đầu cá trong bát hắn, quay người cho con mèo dưới hiên đang rướn cổ kêu ăn rồi gắp miếng sườn om tương to nhất trong nồi đặt vào bát của Tư Đồ Thịnh.
"Lớn đến vậy rồi còn giành ăn với mèo! Chàng gặm đầu cá sạch sẽ như vậy, để mèo ăn cái gì?"
Tư Đồ Thịnh cười một tiếng rồi gắp sườn cúi đầu ăn.
Hắn chính là một nam nhân hỗn tạp và đầy mâu thuẫn như thế. Tuy trong lúc ăn có thể lộ ra vài thói quen thanh bần nhưng những cử chỉ tao nhã khi dùng bữa lại phô bày xuất thân và giáo dưỡng của hắn quả không tầm thường...
Nhìn hắn ăn uống tao nhã mê người đến vậy, Lâm Lang thoáng ngẩn ngơ, khóe môi vương nụ cười mãn ý.
Tư Đồ Thịnh bèn buông đũa, đưa tay ra véo má nàng: "Ăn cơm mà cười như mèo ăn vụng cá vậy. Nàng tưởng ta là đầu cá chắc? Có thèm muốn ăn thì cũng phải đợi một lát đã..."
Sở Lâm Lang bật cười vỗ mu bàn tay hắn: "Nói bậy gì đó!"
Hai người ăn xong nồi lẩu nghi ngút khói rồi tựa vào nhau nhàn nhã ngồi dưới mái hiên, ngắm màn mưa rơi trước mái, nói với nhau đôi ba chuyện vặt dạo gần đây.
Bình thường Tư Đồ Thịnh không phải hạng người hay nói chuyện thị phi, nhưng hôm nay cũng phải đem biến cố của Chu gia ra kể.
Chẳng phải Tư Đồ Thịnh cố ý dò hỏi, mà là thượng thư đại nhân tìm đến nói cho hay: phu nhân của Chu Tùy An sinh nữ nhi chết yểu, bảo hắn với tư cách thượng cấp cũng góp chút tiền phúng điếu.
Vả lại, thành tích của Chu Tùy An một năm nay quả thực chẳng ra sao, Hộ bộ đâu phải chốn nuôi kẻ ăn không ngồi rồi, cũng đã chuẩn bị gạt hắn ra ngoài rồi. Những kẻ đã có cửa còn có tài thì đều mài đầu nhọn mà tìm đường chen chân vào vị trí đó rồi.
Thượng thư đại nhân qua mấy hôm nữa sẽ cáo lão hồi hương nên mấy việc đắc tội người này đều giao cho Tư Đồ Thịnh làm.
Suy cho cùng, trong nội bộ cũng đã định để Tư Đồ Thịnh tiếp quản Hộ bộ, nên giao việc này cho hắn cũng là lẽ đương nhiên.
Nghe Tư Đồ Thịnh nói đến chuyện Tạ Du Nhiên mất đi hài tử, Sở Lâm Lang đã im lặng một hồi.
Nếu tiểu thiếp Hồ thị nhà họ Chu biết được, nhất định là sẽ có cảm giác khoái chí như báo được thù lớn.
Nhưng vào tai Lâm Lang lại dấy lên chút thổn thức cảm khái: Chu gia vì kéo dài hương khói mà mất công mất sức, toan tính so đo đủ đường, ai ngờ cuối cùng lại rơi vào cảnh gà bay trứng vỡ như thế?
Với tư cách là thê tử trước của Chu Tùy An, Lâm Lang cũng không nghĩ đến nguyền rủa phu quân trước không được sống tốt. Dù sao đã hoà ly rồi thì mỗi người sống cuộc sống của mình thôi.
Nhưng đời người vốn là từng bước một mà nhẫn nhịn mà chịu đựng, quả ngày hôm nay sao biết không phải nhân của ngày hôm qua?
Nhà họ Chu ngày nay lại gieo xuống một hạt giống bất thiện, nếu phu quân trước xử trí không thỏa đáng, e rằng sau này còn nảy sinh thêm những hậu quả xấu khác.
Nhưng Sở Lâm Lang không muốn phí tâm quản chuyện phủ đệ của người khác.
Đã chia xa rồi thì mỗi người hãy sống yên ổn phần mình, ai nấy đi trên con đường riêng của mình. Dù sao thì nàng cùng Tư Đồ Thịnh vẫn là tiền đồ chưa rõ, chẳng biết còn những gian truân nào đang chờ đợi họ ở phía trước.
Nghĩ vậy, nàng khẽ hỏi: "Vong Trần cư sĩ kia còn gây phiền phức cho chàng không?"
Tư Đồ Thịnh vừa nghe liền biết nàng muốn hỏi gì, khẽ cười lạnh một tiếng rồi nói: "Vị phụ thân ấy của ta vốn giỏi trò dỗ dành nữ nhân, hẳn là đã nhận lại thê tử trước, giờ đây cả nhà đang đoàn tụ rồi. Không biết ông ta đã nói những gì mà lại dỗ được Đào Tuệ Như. Giờ mẫu tử bọn họ cũng không còn gây phiền toái cho ông ta nữa."
Nói đến đây, Tư Đồ Thịnh khựng lại một thoáng, khẽ thở dài rồi nói: "Bệ hạ hiện nay muốn duy trì cục diện biên giới với Kinh quốc nên hết sức dùng lễ tiếp đãi sứ thần. Chỉ e rằng dẫu có biết trong hàng sứ thần có kẻ phản thần nhà họ Dương năm xưa trà trộn vào, ngài cũng sẽ giả vờ như chẳng hay biết."
Phải biết Dương Nghị bây giờ là phò mã thần long của vị tân Khả Hãn kia.
Cho dù bệ hạ có căm hận tên tướng phản này đến mấy cũng phải nể mặt tân Khả Hãn của Kinh quốc ba phần.
Có lẽ chính vì nhìn ra điểm này mà Dương Nghị mới dám cùng đoàn sứ giả đến.
Mà tên thủ lĩnh của đoàn sứ giả, Hà Sát lại đúng là một kẻ khốn nạn.
Nghe nói hắn vốn là dũng sĩ của Kinh quốc, là một kẻ thô mãng hiếu chiến, hễ chỉ cần một lời nói không hợp ý liền trợn mắt phùng râu, vô lễ và ngạo mạn đến cùng cực, khiến cho các thần tử Đại Tấn phụ trách tiếp đãi hắn tức giận đến mức như thầm hộc ra ba ngúm máu nhưng vẫn phải cố nhịn.
Kinh quốc rất giỏi vừa đấm vừa xoa. Thường thì vừa khi Đại Tấn vừa mới đưa ra điều khoản mở thị trường, tên sứ thần Hà Sát kia liền ngang ngược vô lễ, giở đủ trò quấy rối.
Sau đó sẽ đến lượt vị phó sứ trông có vẻ ôn hòa lễ độ kia đứng ra giảng hòa, trấn an Hà Sát, rồi nhân đó từ các điều khoản do Đại Tấn đưa ra mà trả lại một nước phản đòn.
Nhờ có Hà Sát làm nền như vậy, những điều khoản mới mà vị phó sứ đưa ra ngược lại càng nổi bật, trông có vẻ không quá hà khắc, dường như cũng không phải là không thể chấp nhận.
Cứ như thế mấy lần liền, mỗi khi Tư Đồ Thịnh nêu ra ý kiến phản đối đều bị Thái tử không kiên nhẫn gạt đi, thậm chí còn thẳng thừng nói rằng Bệ hạ để hắn đến đây chẳng qua chỉ để tính toán sổ sách, chứ không phải để hắn chủ trì đại cục.
Mong đại nhân Tư Đồ hãy tự hiểu rõ bổn phận của mình, chớ nên vượt quyền làm thay việc của người khác.
Chỉ nghe hắn kể sơ qua, Sở Lâm Lang đã lập tức hiểu ra liền: 'Ôi chao, đoàn sứ giả Kinh quốc này chẳng khác nào một gánh hát, có kẻ chuyên đóng vai mặt trắng, lại có kẻ chuyên đóng vai mặt đỏ. Vị An Cốc Khả Hãn kia quả thật là biết sắp đặt giỏi ghê!
Điều Tư Đồ Thịnh thích nhất chính là sự thông suốt của Sở Lâm Lang. Trước đây chàng từng nói rồi, nữ tử này rất hợp để lăn lộn chốn quan trường, vậy mà chỉ nghe hắn nói dăm ba câu đã đoán ra được mánh lối của sứ đoàn Kinh quốc.
Vì vậy hắn cũng không nói thêm gì, chỉ để mặc cho Lâm Lang tiếp tục nói hết ý mình.
Kỳ thực Lâm Lang cảm thấy mình không có bản lĩnh gì xuất chúng.
Chỉ là nàng cảm thấy việc đàm phán giữa các quốc gia kỳ thực cũng chẳng khác gì buôn bán, tất thảy đều là những mánh lưới và thủ đoạn giao thiệp mà thôi.
Trong cuộc đàm phán, đôi bên đều phải nắm chắc trong tay món hàng mà đối phương buộc phải có, như vậy mới có thể tranh lấy thế thượng phong, mặc sức lớn tiếng mặc cả.
Khác hẳn với sự bối rối và luống cuống của những quan viên chủ trì hòa đàm, trong mắt Lâm Lang, việc đối phương chịu diễn trò lại là chuyện tốt.
Vốn dĩ nhìn vào những hành động khiêu khích nơi biên ải của Kinh quốc, cứ tưởng bọn họ sốt sắng muốn khai chiến. Thế nhưng thấy Kinh quốc khổ công bày biện đến vậy, ngẫm kỹ lại, chẳng lẽ bọn họ cũng có chỗ khó xử, vốn dĩ cũng không thật sự muốn động binh, mà chỉ muốn giở trò vô lại để đòi chút lợi lộc lớn hay sao?
Ánh mắt Tư Đồ Thịnh sáng rực nhìn nữ tử nhỏ bé trong lòng, nhất là khi nàng phân tích rành rọt mạch lạc, quả thực còn mê hoặc lòng người hơn gấp bội so với việc ngâm nga thi từ ca phú.
Hắn không kìm được mà hôn nhẹ lên gò má hồng của nàng, cảm thán nói: "Nàng quả thật còn hơn vô số đại thần trong nội các! Nếu bọn họ ai nấy đều có được sự láu cá và kiến thức như nàng thì ta đã bớt đi biết bao nhiêu phiền nhọc lo toan rồi!"
Tư Đồ Thịnh thật không ngờ, chỉ bằng kinh nghiệm trên thương trường cùng sự nhạy bén trong việc đo lường lòng người, Sở Lâm Lang lại có thể rút ra kết luận giống hệt với tình báo mà hắn cực khổ âm thầm thu thập được.
Đáng tiếc thay, phe Thái tử chẳng phân biệt phải trái, chỉ nôn nóng muốn lập công trước mặt Bệ hạ bằng cái gọi là thành tích 'không chiến sự'. Thế nên bọn họ gạt bỏ toàn bộ lời khuyên của hắn, cố chấp cho rằng nếu không nhượng bộ thì Kinh quốc ắt sẽ phát binh trong nay mai.
Thái tử thậm chí còn chẳng chút nể mặt, ngay trước bao nhiêu đại thần trong nội các đã nghiêm khắc quở trách Tư Đồ Thịnh.
Khi ấy, có không ít thần tử từng chịu thiệt thòi trong việc cải cách ruộng chức điền ngầm bật cười, khoái trá khi thấy cái dáng vẻ không biết điều của Tư Đồ Thịnh.
Mấy hôm nay, Thái tử đã lên tiếng bảo hắn cút về Hộ bộ, không được tham gia vào việc hòa đàm mở thị trường với Kinh quốc nữa.
Mấy chuyện triều đình này, tuy Tư Đồ Thịnh không nói quá tỉ mỉ nhưng Sở Lâm Lang cũng có thể đoán được nỗi uất nghẹn trong lòng hắn.
Bởi Tư Đồ Thịnh lúc nào cũng âm thầm nhíu chặt mày, lộ rõ dáng vẻ mang nặng tâm sự.
Huống hồ trong đoàn sứ giả Kinh quốc còn có cả Dương Nghị, chẳng rõ y sẽ đóng vai trò gì trong vở kịch này.
Trong tay Dương Nghị còn đang nắm giữ sinh mẫu của Tư Đồ Thịnh, luôn lấy đó mà uy h**p hắn, bởi vậy Tư Đồ Thịnh muốn thuận theo bản tâm, thi triển hoài bão trong lòng, quả thực là khó khăn muôn vàn!
Chuyện Lâm Lang có thể làm cho Tư Đồ Thịnh không nhiều, nàng chỉ khẽ đưa ngón tay thon dài mà vuốt phẳng nếp nhăn giữa mày người đàn ông, dịu giọng nói: "Chàng yên tâm, thuyền đến đầu cầu tự nhiên thẳng. Đến lúc ấy, nhất định chàng sẽ tìm ra cách ứng phó thôi."
Tư Đồ Thịnh ôm nàng chặt hơn. Nhưng ánh mắt đưa tới đâu cũng chỉ vấp phải tầng mây đen dày đặc nơi chân trời, chẳng biết đến bao giờ mới có thể nhìn thấy ánh sáng.
Nhưng lời của Sở thị quả thật rất đúng. Hắn dịu giọng an ủi: "Nàng cứ yên tâm, cho dù mũi thuyền ấy không thể tự ngay thẳng, ta cũng sẽ tìm mọi cách để ép nó ngay thẳng lại."
Sở Lâm Lang không nói gì. Nàng biết rõ, nam nhân mà nàng đang tựa vào không phải hạng phàm tục, nhất định hắn sẽ có thể vượt qua mọi gian khó. Còn điều duy nhất nàng cần làm chính là ở bên hắn không rời, bất kể phía trước là gió hay là mưa...
Lại nói chuyện thái hậu ban dụ chỉ cho Sở Lâm Lang, rất nhanh đã truyền khắp phủ đệ các vị nữ học sinh.
Ngoài chuyện tung tin đồn thất thiệt về Sở thị, lại có kẻ bụng dạ bẩn thỉu sinh tâm đoán bậy, cho rằng vị Tân Mai cư sĩ này e rằng thật sự là ngoại thất mới được Bệ hạ sủng ái.
Chỉ có như vậy mới giải thích được, vì sao Sở thị bị vu oan, vậy mà lại có nhân vật như Tề công đích thân đứng ra thanh minh cho nàng.
Nhất định là bệ hạ không tiện giải thích trực tiếp với thái hậu nên mới nhờ Tề công đức cao vọng trọng ra mặt chứng minh sự trong sạch cho Sở thị.
Vì thế tuy tin đồn ba người giằng co trước đó đã minh oan, nhưng lời đồn về việc vì sao Sở thị được sủng ái như vậy lại lan truyền ra.
Sở Lâm Lang vốn đã quen bị người ta bàn ra tán vào, nên cũng chẳng bận tâm đến những lời ong tiếng ve nhơ bẩn ấy. Dù sao thì bọn họ đã cả gan bịa đặt chuyện liên quan đến Bệ hạ, nàng cũng chỉ còn biết 'kính nhi viễn chi' (*), thầm chúc cho đầu óc bọn họ đủ cứng cáp, kẻo lại một phen lật thuyền nơi rãnh cạn.
(*"Kính nhi viễn chi" nghĩa là "kính trọng nhưng giữ khoảng cách".)
Thế nhưng những lời đồn kiểu này lại đủ sức dọa cho những kẻ trong lòng có tật phải khiếp vía.
Ban đầu, Tô thị còn đang muộn phiền vì chuyện gia thất của nhị nữ nhi, nhưng về sau, khi nghe vị phu nhân đến thăm nhắc đến chuyện của Tân Mai an nhân, lại nghe nói Sở thị được thái hậu đặc biệt sủng ái, bà chợt nhớ tới mối then chốt ấy, trong lòng thấp thỏm sợ hãi, bèn tìm đến đại nữ nhi để hỏi cho rõ.
Không ngờ đại nữ nhi lại đóng chặt cửa không tiếp, cố ý lánh mặt khiến mẫu thân phải ăn bế môn canh.
Không trách Tạ Đông Ly nổi giận, quả thật hôm ấy nàng cũng bị Tế tửu đại nhân mắng cho một trận mất hết thể diện.
Nàng nào có ngốc, đương nhiên nghe ra được: bề ngoài vị đại nhân Tế tửu là quở trách tức phụ, nhưng thực chất là nổi giận mắng mẫu thân và muội muội đã trợn mắt bịa chuyện trước cổng thư viện hôm ấy.
Ngay cả Tạ Đông Ly cũng hiểu rõ: nhị muội vốn bất hòa với mẫu thân, vậy mà sau khi xuất giá lại quay sang nương cậy Tô thị, điều ấy lại hợp ý Tô thị, người vốn vẫn mang nỗi áy náy với nhị nữ nhi của mình nên bà thấy mình có thể nhân đó mà hàn gắn tình mẫu tử.
Nếu chỉ bỏ tiền bạc ra bù đắp thì cũng còn tạm, nhưng Tô thị lại dại dột cùng muội muội làm chuyện ngu xuẩn, đến nỗi ngay cả Lục vương phi cũng thấy không thể nhìn nổi.
Hơn nữa, nghe nói Tạ Du Nhiên sinh nữ nhi ngay giữa phố, nhưng do đỡ đẻ không khéo khiến tiểu hài nhi yểu mệnh, chuyện ấy làm Tạ Đông Ly đau đầu vô cùng, nàng bèn dứt khoát không gặp mẫu thân để khỏi phải nghe những chuyện phiền lòng của nhị muội.
Nghĩ đến những chuyện mà người đệ đệ đến Hộ bộ nhậm chức gần đây đã nói với mình, Tạ Đông Ly cảm thấy mình cần phải nhắc nhở phụ thân một tiếng, kẻo mẫu tử nhà gây họa lại làm liên lụy đến mấy nam nhân trong nhà.
Ngay cả Tạ Thắng vốn cũng chẳng hay biết những chuyện thị phi trong hậu trạch của đám nữ nhân. Đến khi nghe đại nữ nhi nhắc rằng ngay cả đại nhân Tế tửu cũng đã đích thân đứng ra lấy lại chính danh cho Sở thị, còn kinh động đến Thái hậu ban xuống dụ chỉ vì Sở thị, ông mới thực sự khiếp vía đến mức toát mồ hôi đầy trán.
Sau khi hồi phủ, ông tức đến nỗi các ngón tay run bần bật, quát thẳng Tô thị: "Ngươi bị nhị nữ chuốc cho thứ mê canh gì vậy? Sao toàn làm mấy chuyện tốn sức mà chẳng được lòng ai? Sở thị đã cùng Chu Tùy An hòa ly, từ nay không còn quan hệ gì nữa. Nàng ta có trộm gạo Chu gia không mà khiến hai mẫu tử các ngươi bám riết không buông?"
Nhưng Tô thị cũng cảm thấy mình bị oan, bà bèn phân trần với Tạ tướng quân: 'Những lời bẩn thỉu như thế, ta làm sao nói cho ra khỏi miệng được? Chẳng qua lúc ấy tình cờ bắt gặp, ta với Du Nhiên chỉ lén nói cười đôi câu với Vong Trần cư sĩ mà thôi! Ta đâu có ngốc, sao lại đi nói xấu nàng ta. Hơn nữa, lần trước vì đôi câu thị phi của Tĩnh phi mà Du Nhiên đã sợ đến suýt chết khiếp, lấy đâu ra lòng dạ bịa đặt về nàng ấy? Ta còn dặn Du Nhiên rằng lời này vạn lần không được truyền ra từ miệng chúng ta. Còn Đào cư sĩ là người tu hành đoan nhã, ôn hòa, càng không thể là người dựng loại lời đồn này được. Không biết làm sao mà chuyện đó tự nhiên lan đi, thoắt một cái đã truyền đi khắp nơi. Du Nhiên thì nông nổi, ở trà yến nghe người ta nói trước, nàng chỉ góp vui mấy câu mà thôi...'