Nghĩa trang nằm ngoại ô hạt Queens, nơi những toàn nhà chung cư nhường chỗ cho những căn nhà cổ mang phong cách Victoria sơn màu bánh gừng: hồng, trắng và xanh da trời. Những con đường trải dài rộng rãi và gần như vắng tanh, còn đại lộ dẫn tới nghĩa trang chỉ được thắp sáng bởi một ngọn đèn đường duy nhất. Chỉ mất chút ít thời gian với những thanh stele là họ đã phá được khóa cổng, và thêm lúc nữa để tìm ra chỗ kín đáo cho Raphael đào xới. Huyệt mộ nằm trên một đỉnh đồi thấp, với những hàng cây rậm rạp phủ kín che chắn họ khỏi ánh mắt tò mò của những người đi đường. Clary, Jace và Isabelle được bảo vệ nhờ phép ẩn thân, nhưng họ không có cách nào giấu Raphael hay xác Simon, vì thế rặng cây là một vỏ bọc tuyệt vời.
Những sườn đồi không hướng ra mặt đường lổn nhổn bia mộ, rất nhiều trong số đó có khắc hình Ngôi Sao David[1] bên trên. Dưới ánh trăng những tấm bia đó óng một màu trắng bàng bạc và khiến chúng trơn láng như sữa. Xa hơn một chút là hồ nước lăn tăn bàng bạc. Một nơi khá đẹp, Clary nghĩ. Đây là nơi vào ban ngày, bạn có thể tới thăm một ai đó, để ngồi một lúc và suy ngẫm về cuộc đời xem cuộc đời có ý nghĩa gì với bạn. Nhưng đây không phải một nơi hay ho để lén lút lui tới trong đêm, dưới sự che phủ của bóng cây, để chôn cất một người bạn bên dưới ngôi mộ đất nông choẹt, không hề có quan tài hay người đưa tiễn.
[1] Ngôi sao David: Y Ngôi sao sáu cánh, là biểu tượng cơ bản để nhận biết một người theo đạo Do Thái. (ND)
“Cậu ấy có phải chịu đau đớn gì không?” cô hỏi Raphael.
Gã ta ngừng tay đào nhìn lên, dựa vào thân xẻng như một người đào mộ trong Hamlet. “Sao cơ?”
“Simon. Cậu ấy có phải chịu đau đớn gì không? Các ma cà rồng có làm cậu ấy đau không?”
“Không. Chết vì bị hút máu cũng không tệ lắm,” Raphael êm ái trả lời. “Vết cắn làm cô tê liệt. Dễ chịu vô cùng, giống như cô chìm dần vào giấc ngủ ấy.”
Một cơn choáng váng tràn qua Clary, và trong một lúc cô nghĩ mình sẽ ngất.
“Clary.” Giọng Jace gọi giật cô khỏi cơn mê hoặc. “Nào. Em không cần phải nhìn nó đâu.”
Anh giơ tay cho cô. Nhìn qua vai anh, cô thấy Isabelle đang đứng với chiếc roi trên tay. Họ cuốn thi thể Simon trong chăn, đặt dưới chân Isabelle, và vì thế trông cô nàng như đang đứng canh xác. Không phải nó, Clary cực lực nhắc nhở mình. Mà là cậu ấy. Simon.
“Em muốn ở đây khi cậu ấy thức dậy.”
“Anh biết. Chúng ta sẽ quay lại ngay thôi mà.” Khi cô không nhúc nhích, Jace nắm lấy cánh tay không còn sức lực của cô mà lôi tuột cô khỏi trảng trống, xuống sườn đồi. Ở đó có những tảng đá, ngay trên những hàng bia mộ đầu tiên; anh ngồi xuống một tảng đá và kéo khóa áo. Ngoài này lạnh thật. Lần đầu tiên trong tiết trời mùa này, Clary có thể trông thấy làn hơi của mình khi thở ra.
Cô ngồi trên tảng đá bên cạnh Jace và nhìn xuống mặt hồ. Cô có thể nghe thấy tiếng xẻng đào đất đều đều vang lên theo nhịp khi xẻng của Raphael chạm đất rời lớp đất hắt lên. Raphael không phải người; gã làm rất nhanh. Sẽ không mất nhiều thời gian để đào xong huyệt. Mà Simon cũng không to con lắm; huyệt cũng chẳng cần sâu đến thế.
Clary bỗng thấy dạ dày quặn lại. Cô gập người, tay ôm bụng. “Em thấy muốn ói.”
“Anh biết. Vì thế anh mới đưa em ra đây. Trông em như sắp nôn xuống chân Raphael.”
Cô rên khe khẽ.
“Biết đâu như thế thì hắn hết cười khẩy,” Jace tư lự. “Cũng đáng để thử ấy nhỉ.”
“Im đi.” Cơn đau đã nhẹ bớt. Cô ngẩng cổ, nhắm nhìn mặt trăng như một chiếc đĩa bạc bóng bẩy bị mẻ trôi bồng bềnh giữa biển sao. “Đây là lỗi của em.”
“Không phải lỗi của em đâu.”
“Anh nói đúng. Đây là lỗi của chúng ta.”
Jace quay về phía cô, vẻ bực bội hằn lên bờ vai. “Sao em nghĩ vậy?”
Cô im lặng nhìn anh một đỗi. Anh cần cắt tóc rồi. Tóc anh giờ đã xoăn giống kiểu xoăn của dây leo khi đã quá dài, thành từng lọn cuộn trong lọn, mang màu trắng bạc dưới ánh trăng. Những vết sẹo trên mặt và cổ anh trông như thể được khắc sâu với màu mực ánh đồng. Anh quá đẹp, cô buồn bã nghĩ, đẹp và không có một nét nào ở anh, thậm chí là một biểu cảm, một đoạn xương gò má, xương quai hàm, hay bờ môi giống cô hay mẹ cả. Thậm chí Valentine cũng chẳng giống.
“Gì nào?” anh nói. “Sao em lại nhìn anh như vậy?”
Cô muốn lao vào vòng tay anh và khóc nức nở, nhưng cùng lúc cũng muốn nện nắm đấm vào anh. Nhưng cuối cùng, cô chỉ nói, “Nếu không có chuyện ở Triều Đình, chắc chắn Simon vẫn còn sống.”
Jace cúi xuống và giật mạnh một nắm cỏ khỏi mặt đất. Đất vẫn dính trên rễ cây. Anh ném sang một bên. “Chúng ta buộc phải làm những gì chúng ta đã làm. Có phải là chúng ta hôn hít cho vui, hay làm tổn thương cậu ta đâu. Hơn nữa,” anh nói thêm, với một nụ cười như có như không, “em là em gái anh.”
“Đừng nói như vậy…”
“Sao cơ, ‘em gái’?” Anh lắc đầu. “Khi anh còn nhỏ, anh nhận ra nếu nhắc đi nhắc lại điều gì đó nhiều lần, dần dà nó sẽ không còn ý nghĩa gì hết. Anh đã nằm trằn trọc hàng đêm nhắc đi nhắc lại những từ - ‘đường’, ‘gương’, ‘thì thào’, ‘bóng tối’, ‘Em gái’”, anh nhẹ nhàng nói. “Em là em gái anh.”
“Dù anh nói bao nhiêu lần đi nữa, sự thật vẫn là sự thật.”
“Dù em không cho anh nói, thì sự thật cũng vẫn là sự thật.
“Jace!” có ai đó đang gọi tên anh. Là Alec, hơi hụt hơi vì chạy gấp. Một tay anh ta đang cầm bịch ni lông đen. Đằng sau anh là Magnus hiên ngang bước đi, cao và gầy kỳ lạ và ngời ngời tỏa sáng trong chiếc áo khoác da dài bay dập dờn trong gió như cánh dơi. Alec dừng lại trước mặt Jace và giơ cái túi ra. “Tớ mang máu tới rồi,” anh ta nói. “Đúng như cậu yêu cầu.”
Jace mở túi, nheo mắt nhìn rồi chun mũi. “Tớ có được hỏi xem cậu lấy thứ này ở đâu không?”
“Trong cửa hàng thịt tại Greenpoint,” Magnus nói khi tới chỗ họ. “Họ bóp hết máu để phục vụ cho dân Đạo hồi. Đây là máu động vật.”
“Máu nào cũng là máu,” Jace nói rồi đứng dậy. Anh nhìn xuống Clary và ngần ngừ. “Khi Raphael nói chuyện này không được đẹp mắt, hắn ta không nói dối đâu. Em có thể ở lại. Anh sẽ bảo Isabelle tới đợi cùng em.”
Cô ngước nhìn anh. Ánh trăng tỏa bóng những tán cây lên khuôn mặt anh. “Anh đã từng thấy một ma cà rồng sống dậy chưa?”
“Không, nhưng anh…”
“Vậy anh cũng không thực sự biết, đúng không?” Cô đứng dậy, và chiếc áo khoác xanh của Isabelle rũ xuống vấn vít quanh cô. “Em muốn ở đó. Em phải ở đó.”
Cô chỉ nhìn thấy phần gương mặt anh ẩn trong bóng tối, nhưng cô nghĩ anh gần như… bị ấn tượng. “Vậy thì anh cũng không thể thuyết phục em thêm được nữa,” anh nói. “Đi thôi.”
Lúc họ quay trở lại, Jace và Clary đi trước, còn Magnus và Alec đang tranh cãi điều gì đó phía sau, Raphael đang nện bằng một trảng đất chữ nhật lớn. Xác Simon đã biến mất. Isabelle đang ngồi trên mặt đất, sợi roi da cuốn quanh mắt cá chân thành một chiếc vòng vàng. Cô nàng đang run. “Chúa ơi, trời lạnh quá,” Clary nói và cuốn chặt chiếc áo khoác sát vào mình. Ít nhất thì chất liệu nhung cũng cho cô chút ấm áp. Cô cố quên chuyện áo dính máu Simon đi. “Như kiểu chỉ qua một đêm mà trời đã chuyển sang đông ấy.”
“Hãy mừng vì chưa vào đông đi,” Raphael nói, dựa chiếc xẻng vào gốc cây gần đó. “Mặt đất đóng băng cứng như thép vào mùa đông, đôi khi còn tới mức không thể đào xới nổi ấy chứ. Lúc đó những con non sẽ phải nằm đợi hàng tháng trời, chết đói chết khát dưới lòng đất, trước khi được tái sinh.”
“Anh gọi họ là thế à? Những con non sao?” Clary hỏi. Từ đó có gì đó không đúng, hơi quá thân thiện. Nó làm cô nghĩ tới lũ vịt con.
“Ừ,” Raphael nói. “Có nghĩa là ma cà rồng chưa sinh hoặc mới sinh.” Khi đấy gã mới trông thấy Magnus, trong tích tắc lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng rồi gã cẩn thận xóa đi biểu cảm. “Chào Đại Pháp Sư,” gã ta nói. “Tôi không nghĩ ngài sẽ tới đây.”
“Tôi tò mò thôi,” Magnus nói, đôi mắt mèo lóng lánh. “Tôi chưa từng chứng kiến cảnh Đứa Con của Màn Đêm sống dậy.”
Raphael liếc nhìn Jace, lúc này đang tựa mình vào thân cây. “Cậu có những người bạn danh tiếng lừng lẫy đáng ngạc nhiên đó. Thợ Săn Bóng Tối ạ.”
“Anh lại nói về mình tiếp đấy hả?” Jace hỏi. Anh phủi phủi lớp đất cứng bám trên mũi giày. “Hơi khoe khoang rồi đấy.”
“Có lẽ anh ta định nói tới tớ,” Alec nói. Mọi người ngạc nhiên nhìn anh ta. Alec ít khi nói đùa. Sau đó anh ta cười lỏn lẻn. “Xin lỗi,” anh ta nói. “Căng thẳng ấy mà.”
“Không cần phải thế,” Magnus nói, vươn tay chạm vào Alec. Alec vội vã tránh ra, thế là cánh tay vươn ra của Magnus rơi thõng xuống bên hông.
“Giờ chúng ta phải làm gì nhỉ?” Clary hỏi, và ôm người giữ ấm. Cái lạnh dường như đang len lỏi vào từng ngóc ngách trong con người cô. Đối với một tối hè muộn, thì thời tiết này quả là quá lạnh.
Raphael nhận thấy biểu hiện của cô liền cười khẽ. “Đợt trỗi dậy nào trời cũng lạnh vậy,” gã nói. “Con non rút năng lượng từ những tạo vật sống xung quanh, thu lấy năng lượng từ họ để ngoi dậy.”
Clary phẫn nộ quắc mắt nhìn gã. “Có vẻ anh không lạnh.”
“Tôi không còn sống.” Gã ta lùi ra sau vài bước khỏi ngôi mộ - Clary cố nghĩ đấy là một ngôi mộ, vì nó là một ngôi mộ thực sự cơ mà - và ra hiệu cho những người khác làm theo. “Chừa chỗ ra nào,” gã nói. “Simon sẽ không thể ngoi dậy nổi khi mọi người hò nhau đè lên đầu cậu ta đâu.”
Họ vội vã lùi lại. Clary thấy Isabelle giật khuỷu tay cô nên quay sang và thấy đôi môi cô bạn đang trắng bệch. “Có vấn đề gì à?”
“Mọi thứ đều có vấn đề,” Isabelle nói. “Clary, có lẽ chúng ta nên để cậu ấy đi…”
“Ý cậu là để Simon chết,” Clary giật tay lại. “Tất nhiên là cậu nghĩ thế rồi. Cậu nghĩ ai không giống các cậu tốt nhất là nên chết hết đi chứ gì.”
Mặt Isabelle trông đau khổ thống thiết. “Đó không phải…”
Không gian dấy lên một thứ âm thanh lạ lùng, một thứ âm thanh Clary chưa bao giờ nghe thấy - một chuỗi tiếng động thình thịch theo nhịp điệu vọng lên từ sâu trong lòng đất, nghe như nhịp tim của đất mẹ đột ngột vang lên rõ ràng vậy.
Chuyện gì đây? Clary đang nghĩ thì thấy mặt đất dưới chân rung chuyển rồi nhô lên. Cô ngã khuỵu xuống. Đất mộ rùng mình như mặt biển trong bão. Những cơn sóng đất dập dờn trên mặt mộ. Đột nhiên, đất nứt tung ra, những bụi đất bay tung tóe. Một ụ đất nhỏ, giống như tổ kiến, tự trồi lên. Ở giữa ụ đất là một bàn tay, những ngón tay xòe căng, cào cào trên mặt đất.
“Simon!” Clary cố lao tới, nhưng Raphael kéo ngược cô lại.
“Thả tôi ra!” Cô cố vùng vẫy thoát ra, nhưng bàn tay Raphael như gọng kìm thép. “Anh không thấy Simon cần chúng ta giúp ư?”
“Cậu ta phải tự mình làm được,” Raphael nói, nhưng không hề lỏng tay đi chút nào. “Tốt hơn là phải thế.”
“Anh muốn thế! Nhưng tôi không muốn thế!” Cô giật tay ra và nhào về nấm mộ, ngay khi nhúm đất trồi lên, hất cô ngã nhào xuống đất. Một bóng người còng lưng cố chui ra khỏi ngôi mộ đào vội, những ngón tay như những móng vuốt bẩn thỉu đâm sâu vào mặt đất. Hai cánh tay trần lốm đốm những vệt đen là máu và đất. Nó tự mình chui ra khỏi mặt đất, bò toài vài mét rồi đổ sụp xuống.
“Simon,” cô thì thào. Vì tất nhiên đó là Simon, Simon, chứ không phải một nó nào hết. Cô loạng choạng đứng dậy và chạy về phía cậu bạn, đôi giày thể thao lún sâu trong nền đất nện.
“Clary!” Jace hét. “Em đang làm gì thế?”
Cô loạng choạng chạy tới, trật chân do đất lún. Cô quỳ sụp xuống bên Simon, người đang nằm im như chết. Tóc cậu ấy bẩn thỉu và bết bát đất, kính đã biến mất, chiếc áo phông rách toạc, để lộ làn da dính máu. “Simon,” cô nói, và chạm lên vai cậu. “Simon, cậu có…”
Qua đầu ngón tay, Clary cảm nhận được những cơ bắp trên người Simon đang căng ra, còn lớp da thì cứng như bọc đồng.
“…ổn không?” cô bật ra hết câu.
Simon quay đầu, và cô thấy đôi mắt bạn mình. Chúng trống rỗng, vô hồn. Với tiếng hét ghê rợn cậu bật dậy, lao xổ vào cô, uyển chuyển như rắn đang mổ tới. Cậu đâm thẳng vào cô, làm cô ngã ngửa ra sau. “Simon!” cô hét gọi, nhưng hình như cậu không nghe thấy. Mặt cậu méo mó, không nhận diện được khi cậu chờn vờn trên cô, môi cong lên, và cô thấy những chiếc răng nanh sắc nhọn, răng hút máu, lóe lên dưới ánh trăng như những cây kim xương trắng. Đột nhiên phát hoảng, cô cố đá Simon ra, nhưng cậu bạn thân nắm lấy vai cô và đè cô nằm im trên đất. Tay cậu dính máu, móng tay gãy dập, nhưng cậu mạnh khó tưởng, thậm chí mạnh hơn một Thợ Săn Bóng Tối như cô. Các xương vai Clary dồn vào nhau đau điếng khi cậu cúi xuống…
Và bị ném văng đi như thể Simon là một viên sỏi. Clary bật dậy, thở hổn hển và nhận ra cái nhìn tàn nhẫn của Raphael. “Tôi đã bảo cô tránh xa cậu ta ra,” gã nói và quỳ xuống chỗ Simon, vừa rớt xuống cách đó một quãng ngắn, đang co quắp, vặn vẹo trên mặt đất.
Clary hít lấy hít để, nghe cứ như những tiếng nấc nghẹn ngào. “Cậu ấy không nhận ra tôi.”
“Nhận ra. Nhưng không quan tâm thôi.” Raphael ngoái lại nhìn Jace. “Cậu ta đang chết đói rồi đây này. Cậu ta cần máu.”
Jace, nãy giờ đang đứng im, mặt trắng bệch bên mép huyệt, vội bước tới và im lặng giơ cái túi ni lông ra, như mời gọi. Raphael giật lấy và xé mở. Vài túi nhựa đựng thứ chất lỏng màu đỏ rơi ra. Gã nắm lấy, lầm bà lầm bầm gì đó rồi dùng những móng tay sắc nhọn xé toạc ra, làm máu bắn lên mặt trước chiếc áo sơ mi trắng vốn đã bê bết đất.
Simon như thể ngửi thấy mùi máu, cong người cố ngồi dậy và rên rỉ nghe thật đáng thương. Cậu vẫn đang lăn lộn trên đất; bàn tay trụi lủi móng cào đất, mắt đảo tròn chỉ thấy lòng trắng. Raphael giơ túi máu ra, để một vài giọt máu đỏ rơi xuống trên mặt Simon, tạo nên những vệt đỏ trên làn da trắng của cậu. “Nào uống đi,” gã ta nói, như lời nựng nịu. “Uống đi, hỡi chú ma cà rồng nhỏ. Uống đi nào.”
Và Simon, người ăn chay từ năm lên mười, không uống sữa động vật không được ăn cỏ, ngất xỉu khi nhìn thấy mũi tiêm - chính Simon đó đang giật lấy túi máu khỏi bàn tay xương xương của Raphael và đưa lên miệng cắn. Cậu uống ừng ực, ném cái túi rỗng sang bên rồi lại rên; Raphael đã chuẩn bị xong túi máu thứ hai, và nhét vào tay Simon. “Đừng uống nhanh quá,” gã nhắc. “Uống nhiều sẽ nôn ra đấy.” Simon, tất nhiên, chẳng quan tâm; cậu đã tự mình mở toang túi thứ hai mà ham hố nốc. Máu chảy thành dòng qua khóe môi, xuống cổ và rơi lỏng tỏng từng giọt từng giọt lên tay. Mắt cậu nhắm nghiền.
Raphael quay sang nhìn Clary. Cô có thể thấy Jace, cũng như những người khác, đang chăm chú nhìn mình với cùng một vẻ mặt kinh hoàng và ghê tởm. “Lần sau,” Raphael bình tĩnh nói, “cậu ta sẽ không ăn uống lộn xộn thế này nữa đâu.”
Lộn xộn. Clary quay người và loạng choạng ra khỏi trảng trống, nghe Jace gọi nhưng không thèm trả lời, mà cứ cắm cúi chạy khi tới rặng cây. Cô chạy nửa đường xuống đồi thì cơn đau ập tới. Cô quỳ xuống, thở dốc, khi mọi thứ trong dạ dày trào ngược lên như thác lũ. Nôn xong, cô lê mình cách ra một quãng ngắn và đổ sụp xuống đất. Cô biết có lẽ mình đang ngồi lên nấm mồ của một ai đó, nhưng cô không màng. Cô chôn khuôn mặt nóng rực xuống nền đất mát lạnh và nghĩ, lần đầu tiên trong đời, có lẽ chết không phải là kém may mắn.
Phòng chăm sóc đặc biệt của Bệnh viện Beth Israel luôn làm Clary nhớ tới những bức hình Nam Cực: lạnh lẽo, xa xôi hẻo lánh, và mọi thứ đều là trắng, xám và xanh da trời nhạt. Những bức tường trong phòng mẹ cô màu trắng, những ống dẫn chạy nhì nhằng quanh đầu và hàng loạt những thiết bị kêu đang bíp bíp không dứt bao quanh giường mẹ cô có màu xám, còn tấm chăn phủ lên ngang ngực bà có màu xanh da trời nhàn nhạt. Mặt bà trắng bệch. Thứ duy nhất có màu sắc là mái tóc đỏ của bà, chói chang đối lập với màu gối trắng như tuyết, giống như một lá cờ rực rỡ tới phi lý tung bay tại cực nam.
Clary tự hỏi sao chú Luke có thể trang trải đủ cho căn phòng riêng này, chú lấy tiền từ đâu và bằng cách nào. Cô nghĩ mình có thể hỏi điều đó sau khi chú trở về cùng thứ cà phê khó uống từ cái máy cà phê tự động ở tầng ba. Cà phê từ máy đấy trông như nhựa đường, vị cũng y chang, nhưng có vẻ chú Luke lại nghiện thứ đó mất rồi.
Chân ghế sắt kêu rin rít trên sàn khi Clary kéo ghế ra và chầm chậm ngồi xuống, rồi vuốt thẳng thớm chiếc váy che chân. Mỗi khi tới thăm mẹ trong viện cô đều thấy lo lắng và mồm miệng khô khốc, như thể cô sắp gặp rắc rối vậy. Có lẽ vì cứ khi nào cô thấy gương mặt mẹ như thế này, trơ trơ không có chút cảm xúc, là y như rằng mẹ cô sắp sửa xả cho cô một trận ra trò.
“Mẹ ơi,” cô nói. Cô vươn tay nắm lấy bàn tay trái của bà; trên cổ tay vẫn còn hằn vết tiêm, ở nơi Valentine đã cắm một đầu ống vào. Da tay mẹ cô - vẫn luôn thô ráp và nham nhám, dính sơn và nhựa thông - như vỏ cây khô vậy. Clary đan những ngón tay vào tay mẹ Jocelyn, mà trong họng thấy nghẹn ứ. “Mẹ, con…”. Cô húng hắng giọng. “Chú Luke nói mẹ có thể nghe tiếng con. Con không biết có thật hay không nữa. Nhưng mà, con đến đây vì con cần nói chuyện với mẹ. Dù mẹ không đáp lại cũng không sao. Chuyện là thế này mẹ ạ…” Cô nuốt khan và nhìn về phía cửa sổ, thấy một khoảng trời hẹp phía trên bức tường gạch đối diện bệnh viện. “Chuyện về Simon. Có chuyện xảy ra với cậu ấy. Chuyện đó là lỗi của con.”
Lúc này khi không cần nhìn vào mặt mẹ, câu chuyện của Clary cứ thế tuôn trào, tất tần tật: cô gặp Jace và các Thợ Săn Bóng Tối khác thế nào, vụ tìm kiếm chiếc Cốc Thánh diễn ra ra sao, chuyện về sự phản bội của bác Hodge và trận chiến ở điền trang Renwick, về lúc nhận biết được Valentine là bố của cả cô lẫn Jace. Cô kể cả những sự kiện gần đây nữa: nửa đêm tới thăm Thành phố Xương, Thanh kiếm Linh Hồn, sự hằn thù của Điều Tra Viên với Jace và về người phụ nữ tóc bạc. Và rồi cô nói với mẹ về Triều Đình Seelie, về cái giá Nữ Hoàng bắt cô phải trả, và chuyện xảy ra với Simon sau đó. Cô thấy nước mắt đắng chát nơi cổ họng, nhưng dù sao nói ra cũng giúp cô nguôi ngoai đi ít nhiều, khi chuyển gánh nặng của mình sang cho một ai đó, thậm chí người đó - có lẽ - không nghe được những gì cô nói.
“Vì thế, về cơ bản,” cô nói, “con đã làm mọi thứ rối beng hết. Con nhớ mẹ nói trưởng thành là khi con người bắt đầu biết nhìn lại và ước gì mình có thể thay đổi. Có lẽ giờ con đã trưởng thành rồi. Chỉ là con - con…” Con nghĩ mẹ sẽ ở bên con khi con trưởng thành cơ. Cô nuốt nghẹn nước mắt vào trong khi có ai đó đằng sau húng hắng giọng.
Clary quay phắt lại và thấy chú Luke đang đứng tại ngưỡng cửa, với chiếc cốc nhựa trên tay. Dưới ánh đèn huỳnh quang của bệnh viện, cô nhận ra chú mệt mỏi đến thế nào. Tóc chú đã có sợi bạc, chiếc áo sơ mi vải nỉ ca rô màu xanh nhàu nhĩ.
“Chú đứng đó từ khi nào vậy?”
“Không lâu lắm,” chú đáp. “Chú mang cà phê cho cháu này.” Chú giơ ra nhưng cô không nhận.
“Cháu ghét thứ này. Nó có vị như chân ấy.”
Thế là chú mỉm cười. “Sao cháu biết chân có vị ra sao?”
“Cháu chỉ biết thế thôi.” Cô nhoài người và hôn lên đôi má lạnh lẽo của Jocelyn trước khi đứng dậy. “Con chào mẹ.”
Chiếc xe bán tải nhỏ của chú Luke đậu ở bãi đậu xe lát bê tông bên dưới bệnh viện. Mãi lúc ra tới đường cao tốc FDR chú mới nói chuyện.
“Chú nghe thấy điều cháu nói lúc ở bệnh viện.”
“Cháu nghĩ chú đã nghe trộm mà.” Cô nói không chút giận dỗi. Trong những chuyện cô đã kể với mẹ chẳng có gì mà chú Luke lại không nên biết.
“Chuyện xảy tới với Simon không phải lỗi của cháu.”
Cô đã nghe thấy những lời này, nhưng chúng dường như cứ nảy ra khỏi tai cô như thể xung quanh cô được bao quanh bởi một bức tường vô hình. Giống bức tường bác Hodge đã xây xung quanh cô khi bác phản bội họ vì Valentine, nhưng lần này cô không thể nghe thấy gì qua bức tường ấy, cũng không thể cảm thấy gì cả. Cô tê dại như thể bị nhốt trong một tảng băng.
“Cháu nghe chú nói gì không, Clary?”
“Cháu cảm ơn chú, nhưng tất nhiên đó là lỗi của cháu. Mọi chuyện xảy ra với Simon đều là lỗi của cháu.”
“Vì cậu ta giận cháu mà quay trở lại khách sạn ấy à? Cậu ta không quay lại khách sạn vì giận cháu, Clary ạ. Chú đã nghe về những chuyện tương tự rồi. Người ta gọi chúng là ‘những đứa trẻ hướng tối’, tức là bị biến đổi nửa vời. Có thể cậu ta bị lôi kéo tới khách sạn bằng một lực hấp dẫn không thể cưỡng lại được.”
“Vì cậu ấy có máu của Raphael trong người. Nhưng nếu không do cháu thì chuyện đó cũng đâu có xảy ra. Nếu cháu không mang cậu ấy tới bữa tiệc đó…”
“Cháu nghĩ ở đó an toàn. Dù thằng bé ở trong tình huống nguy hiểm nào thì cũng có cháu ở bên. Cháu đừng hành hạ bản thân mình nữa,” chú Luke nói, và quặt về hướng cầu Brooklyn. Bên dưới cầu, dòng sông xám bạc vẫn lững lờ trôi. “Vô ích thôi.”
Cô trượt người xuống thấp hơn, nắm lấy ống tay chiếc áo len xanh. Tay áo đã sờn và len làm má cô ngưa ngứa.
“Nghe này,” chú Luke nói tiếp. “Trong bao nhiêu năm chú biết thằng bé đó, chú thấy có một nơi nó luôn muốn có mặt, và thằng bé sẽ dùng mọi cách để tới đó và ở đó.”
“Đó là đâu ạ?”
“Bất cứ nơi nào có cháu,” chú Luke nói. “Cháu có nhớ hồi cháu lên mười, cháu tới trang trại, trèo lên cây rồi ngã gãy tay không? Cháu có nhớ làm sao cậu ta thuyết phục họ cho cậu ta lên xe cấp cứu tới bệnh viện không? Thằng bé đấm đá la hét cho tới khi họ đồng ý thì thôi.”
“Chú đã cười,” Clary nói khi hồi tưởng lại, “còn mẹ cháu đánh vào vai chú.”
“Chú không nhịn được. Mấy khi được thấy một đứa trẻ mười tuổi mang quyết tâm ngùn ngụt như lửa cháy thế chứ. Thằng bé giống một con chó săn lắm.”
“Nếu như chó săn đeo kính và bị dị ứng cỏ phấn hương.”
“Lòng trung thành đó là vô giá,” chú Luke nói, nghiêm túc hơn.
“Cháu biết. Chú đừng làm cháu thấy tồi tệ hơn chứ.”
“Clary, chú đang nói với cháu là tự bản thân Simon quyết định đời mình. Điều cháu đang tự trách bản thân là cháu là cháu. Và chuyện đã qua không phải lỗi của ai và cháu cũng chẳng thay đổi được gì cả. Cháu đã nói sự thật với Simon và chính cậu ta tự quyết định điều cậu ta muốn làm. Mọi người đều có quyền lựa chọn; không ai có thể tước đoạt quyền đó của họ. Kể cả vì yêu.”
“Nhưng đấy đấy,” Clary nói. “Khi chú yêu một người, chú không được lựa chọn.” Cô nghĩ tới cách trái tim mình thắt lại khi Isabelle gọi điện báo Jace mất tích. Cô đã rời khỏi nhà không ngần ngừ lấy một phút. “Tình yêu cướp mọi sự lựa chọn của chú đi.”
“Còn hơn là không có lựa chọn nào.” Chú Luke lái xe vào đường Flatbush. Clary không trả lời mà chỉ buồn bã nhìn ra ô cửa kính. Khu vực vừa qua khỏi cầu không phải là nơi đẹp đẽ gì của Brooklyn: hai bên đường đều là những tòa nhà văn phòng xấu xí và các cửa hàng sửa chữa ô tô. Thường thường cô ghét quang cảnh này nhưng giờ nó hợp với tâm trạng cô. “Vậy, cháu đã nghe tin gì từ…?” chú Luke lên tiếng, rõ ràng nhận ra đã tới lúc để chuyển đề tài.
“Simon? Vâng, có chứ ạ.”
“À thực ra, chú đang nói tới Jace.”
“À.” Jace đã gọi cho cô vài lần và để lại tin nhắn. Cô không nghe máy hay gọi lại. Cô chọn cách không nói chuyện với anh như một hình phạt cho chuyện xảy ra với Simon. Đó là cách tồi tệ nhất cô có thể nghĩ ra để trừng phạt bản thân. “Không ạ.”
Giọng chú Luke vẫn đều đều một cách thận trọng. “Có lẽ cháu nên gọi đi. Chỉ để biết cậu ấy có ổn không thôi. Có lẽ cậu ta cũng đang không vui vẻ gì, nếu tính tới…”
Clary nhúc nhích người trên ghế. “Cháu nghĩ chú có thể hỏi thăm Magnus. Cháu nghe nói chú đã nói chuyện với anh ta về Valentine và chuyện chuyển đổi tính năng của Thanh kiếm Linh Hồn. Cháu tin chắc Magnus sẽ nói cho chú nghe Jace có ổn không.”
“Magnus có thể giúp chú an lòng về tình hình thể chất của Jace. Còn về tinh thần thì…”
“Chú quên đi. Cháu không gọi cho Jace đâu.” Clary nghe ra sự lạnh lùng trong chính giọng nói của mình và ngay bản thân cô còn thấy choáng. “Lúc này cháu phải ở bên Simon. Có phải tinh thần cậu ấy đang hân hoan phấn chấn gì đâu cơ chứ.”
Chú Luke thở dài. “Nếu cậu ta có vấn đề gì với tình trạng hiện giờ của mình, có lẽ cậu ta nên…”
“Tất nhiên là cậu ấy có vấn đề chứ!” Cô nhìn Luke với vẻ buộc tội, dù chú đang tập trung vào việc lái xe mà không để ý. “Hơn ai hết chú phải hiểu như thế nào khi…”
“Thức dậy và biến thành một con quái vật ấy à?” chú Luke nghe ra không có vẻ gì cay đắng, mà chỉ mệt mỏi. “Cháu nói đúng, chú quá hiểu. Và nếu có khi nào cậu ta muốn tâm sự với chú, chú sẵn sàng bầu bạn cùng cậu ta. Thằng bé sẽ vượt qua, kể cả khi bản thân nó nghĩ mình không thể.”
Clary nhíu mày. Mặt trời đã ở đằng sau, hắt nắng lên gương chiếu hậu như thể mạ vàng. Cô lóa mắt vì ánh sáng đó. “Không giống nhau đâu ạ,” cô nói. “Ít nhất từ nhỏ tới lớn chú đều biết người sói có thật. Còn trước khi Simon có thể nói với ai đó cậu ta là ma cà rồng, cậu ấy phải thuyết phục họ là ma cà rồng có tồn tại đã.”
Hình như chú Luke định nói gì đó, nhưng rồi lại thôi. “Chú nghĩ cháu nói đúng.” Giờ họ đã tới đường Williamsburg, đi hết nửa Đại lộ Kent vắng vẻ, với những dãy nhà kho mọc lên hai bên đường. “Nhưng cũng vậy thôi. Chú có thứ này cho thằng bé. Ở trong hộc đồ ấy. Phòng trường hợp…”
Clary mở hộc đồ và nhíu màu. Cô lấy ra một tờ rơi gấp bìa sáng bóng, loại tờ rơi người ta hay nhét trong các quầy nhựa tại phòng chờ bệnh viện. “Làm Thế Nào Để Thú Nhận Với Bố Mẹ Bạn”, cô đọc lớn. “CHÚ LUKE. Đừng lố bịch như vậy. Simon không phải là gay, cậu ấy là ma cà rồng mà.”
“Chú biết, nhưng tờ rơi này giúp cháu nói cho bố mẹ nghe những bí mật khó nói nhất về bản thân mà bố mẹ thường lảng tránh. Có thể cậu ta sẽ tìm ra cho mình một lời lẽ thích hợp, hoặc chỉ nghe lấy những lời khuyên chung chung…”
“Chú!” cô kêu lên đột ngột đến mức chú Luke phải phanh xe kin kít lại. Họ vừa mới tới ngay trước cửa nhà, mặt sông Đông lấp lánh trong ánh chiều chạng vạng ở bên trái, bầu trời vằn vện bóng tối khói bụi. Và, một cái bóng còn tối hơn đang ngồi bó gối trên hiên nhà chú Luke.
Chú Luke nheo mắt. Chú từng bảo với Clary, trong lốt sói, thị lực chú tốt vô cùng; nhưng trong lốt người, chú cận thị vẫn hoàn cận thị. “Có phải là…”
“Simon. Vâng ạ.” Nhìn qua là cô đã nhận ra cậu bạn. “Cháu nên đi nói chuyện với cậu ấy.”
“Ờ. À, chú sẽ đi công chuyện chút. Chú phải đi lấy mấy thứ.”
“Thứ gì ạ?”
Chú vẫy cô đi. “Thức ăn ấy mà. Nửa tiếng nữa chú về. Đừng ở ngoài làm gì. Cứ vào trong nhà và khóa cửa lại.”
“Cháu biết mà.”
Cô quan sát khi chiếc xe bán tải tăng tốc đi mất rồi mới quay vào nhà. Trống ngực cô đánh liên hồi. Cô đã nói chuyện qua điện thoại vài lần với Simon nhưng chưa gặp lại cậu từ sau khi họ mang Simon về nhà chú Luke trong tình trạng máu me bê bết và bẩn thỉu vào lúc rạng sáng của cái ngày đầy kinh khủng đó để rửa ráy, trước khi đưa cậu về nhà. Cô nghĩ nên đưa cậu tới Học Viện, nhưng tất nhiên là không thể. Simon sẽ không bao giờ được bước chân vào trong nhà thờ Công Giáo hay giáo đường Do Thái nào nữa.
Cô đã nhìn cậu bước lên cửa nhà, vai nhô về phía trước như thể đang bước đi trong cơn gió ngược. Khi ngọn đèn hiên tự động bật sáng, cậu rúm người tránh đi, cô biết vì cậu nghĩ đó là ánh mặt trời; thế là Clary bắt đầu khóc, trong câm lặng, ở ghế sau chiếc xe bán tải, nước mắt rơi từng giọt xuống ́n Ký màu đen kỳ lạ trên cánh tay mình.
“Clary,” Jace đã thì thầm với cô, đã vươn tay định nắm lấy tay cô, nhưng cô tránh ra như Simon tránh ánh mặt trời. Cô không thể chạm vào anh. Cô sẽ không bao giờ chạm vào anh nữa. Đó là sự trừng phạt dành cho cô, sự trả giá vì những gì cô đã gây ra cho Simon.
Giờ, khi bước lên bậc tam cấp dẫn lên hiên nhà chú Luke, miệng cô khô khốc và cổ họng ứ nghẹn chỉ muốn khóc. Cô tự nhủ không được khóc. Khóc chỉ làm bạn mình thấy tồi tệ hơn thôi.
Cậu bạn ngồi trong góc tối mà quan sát cô. Cô thấy mắt cậu sáng lên trong bóng tối. Cô tự nhủ đã từng thấy điều tương tự chưa; cô không nhớ ra. “Simon hả?”
Cậu đứng dậy một cách duyên dáng uyển chuyển khiến cô lạnh sống lưng. Có một thứ mà Simon chưa bao giờ có được, đó là sự uyển chuyển. Ở cậu còn có gì khác nữa, một thứ rất khác…
“Xin lỗi nếu có làm cậu giật mình.” Cậu cẩn trọng lên tiếng, gần như khách sáo, như thể họ là hai người xa lạ.
“Không sao, chỉ là… Cậu ở đây lâu chưa?”
“Không lâu lắm. Mình chỉ đi lại được khi mặt trời lặn, nhớ chứ? Ngày hôm qua, mình vô tình giơ tay ra ngoài cửa sổ khoảng một phân thôi mà xém chút đã thiêu trụi cả mấy ngón tay. May mà mình lành nhanh.”
Cô lần tìm khóa, mở bật cửa ra. Ánh sáng nhàn nhạt chiếu ra ngoài hiên. “Chú Luke nói chúng ta nên vào trong.”
“Vì những thứ ghê tởm,” Simon nói và lách người qua, “chúng tới trong bóng tối.”
Phòng khách tràn ngập ánh sáng vàng ấm áp. Clary đóng cửa lại và cài chắc then cửa. Chiếc áo khoác xanh của Isabelle vẫn treo trên mắc cửa. Cô định mang đi giặt khô để xem họ có thể gột vết máu khô đi không, nhưng cô chưa có thời gian. Cô nhìn nó một lúc, cố trấn tĩnh rồi mới quay sang nhìn Simon.
Cậu đang đứng giữa phòng, lúng túng nhét tay đặt trong túi áo. Cậu mặc quần bò và chiếc áo phông có dòng chữ I NEWYORK từng thuộc về bố cậu. Mọi thứ nơi Simon vẫn quen thuộc với Clary, thế nhưng trông cậu vẫn như một người lạ. “Kính của cậu,” cô nói, mãi giờ mới nhận ra vì sao lúc ở ngoài hiên cô cứ thấy bạn mình khang khác. “Cậu không đeo kính.”
“Cậu đã thấy ma cà rồng nào đeo kính chưa?”
“Ờ thì chưa, nhưng…”
“Mình không cần kính nữa. Biến thành ma cà rồng cho mình thị lực hoàn hảo.” Cậu ngồi xuống ghế sô pha và Clary đến ngồi cạnh, nhưng không quá gần. Ở khoảng cách gần thế này cô có thể thấy làn da cậu tái xanh thế nào, những đường gân xanh nổi rõ dưới lớp da ra sao. Khi không đeo kính, mắt Simon trông to và đen hơn, hàng lông mi rợp trông như từng nét bút mực đen phẩy xuống. “Tất nhiên mình vẫn đeo kính khi ở trong nhà hoặc không mẹ mình lo lắng chết mất. Mình định nói với mẹ là mình sẽ đeo kính áp tròng.”
“Cậu sẽ phải nói với mẹ cậu, chấm hết,” Clary nói một cách đoan chắc hơn cô thực sự cảm nhận. “Cậu không thể giấu về… tình trạng của cậu mãi được.”
“Mình sẽ thử.” Cậu lùa tay qua mái tóc đen, môi bặm lại. “Clary, mình sẽ làm gì đây? Mẹ cứ mang thức ăn tới và mình phải đổ ra ngoài cửa sổ - mình không ra ngoài hai ngày nay, nhưng mình không biết mình có thể giả bộ bị ốm thêm bao lâu được nữa. Rốt cuộc rồi mẹ sẽ đưa mình đi khám bệnh, và rồi sao nào? Mình không có nhịp tim. Bác sĩ sẽ nói là mình đã chết.”
“Hoặc đăng ký cậu thành một ca y học thần kỳ,” Clary nói.
“Mình không đùa đâu.”
“Mình biết, mình chỉ đang cố…”
“Mình cứ nghĩ mãi tới máu,” Simon nói. “Mơ về máu. Thức giấc cũng nghĩ tới nó. Chẳng bao lâu nữa rồi mình sẽ sáng tác ra một bài thơ lâm ly bi đát về nó mất.”
“Cậu không còn mấy hũ máu Magnus đưa sao? Cậu chưa uống hết, đúng không?”
“Mình còn. Mình để chúng trong tủ lạnh mini trong phòng. Nhưng chỉ còn ba chai thôi.” Giọng cậu nhỏ đi vì căng thẳng. “Nếu mình hết máu thì sao đây?”
“Không đâu. Bọn mình sẽ kiếm thêm về cho cậu,” Clary nói, với sự tự tin nhiều hơn điều cô cảm thấy. Cô nghĩ mình có thể tới quán cung cấp máu cừu thân thiện của Magnus, nhưng toàn bộ vụ này làm cô ớn óc. “Nghe này, Simon, chú Luke nghĩ cậu nên nói với mẹ cậu. Cậu không thể giấu mãi được.”
“Mình sẽ thử.”
“Hãy nghĩ tới chú Luke,” cô tuyệt vọng nói. “Cậu vẫn có thể sống một cuộc sống bình thường mà.”
“Còn về chuyện chúng ta thì sao? Cậu muốn có bạn trai ma cà rồng không?” Cậu cười chua xót. “Vì mình đã nhìn thấy rất nhiều cuộc đi chơi lãng mạn của chúng ta trong tương lai rồi. Cậu, uống piña colada mới ra lò. Mình, uống máu mới ra lò.”
“Cậu cứ nghĩ như bị dị tật gì đó đi,” Clary giục. “Cậu chỉ phải học cách sống thích ứng với nó. Rất nhiều người làm được.”
“Mình không nghĩ mình là người nữa. Không còn là người nữa rồi.”
“Với mình, cậu vẫn là người,” cô nói. “Với lại, người ta đánh giá hơi quá về việc được làm người đấy.”
“Ít nhất, Jace không thể gọi mình là người thường được nữa. Mà cậu cầm gì thế?” cậu hỏi, để ý tới tập tờ rơi vẫn được bó tròn lại trong tay trái cô.
“À, cái này hả?” cô giơ nó ra. “Làm Thế Nào Để Thú Nhận Với Bố Mẹ Bạn.”
Cậu mở to mắt. “Cậu muốn nói gì với mình hả?”
“Không phải cho mình. Cho cậu đấy.” Cô đưa cho cậu bạn.
“Mình không phải không thú nhận với mẹ đâu,” Simon nói. “Vốn mẹ đã nghĩ mình là gay vì mình không thích thể thao và chưa có cô bạn gái thực sự nào. Ít nhất là chưa có cô nào mà mẹ biết ấy.”
“Nhưng cậu phải nói ra chuyện cậu là ma cà rồng,” Clary chỉ ra. “Chú Luke nghĩ cậu có thể, sử dụng một đoạn hội thoại nào đó trong đây, nhưng dùng từ ‘bất tử’ thay cho…”
“Hiểu rồi, hiểu rồi.” Simon mở tập tờ rơi ra. “Đây, giả sử cậu là mẹ mình nhé.” Cậu hắng giọng. “Mẹ. Con có điều muốn nói. Con bất tử rồi. Nào, con biết mẹ có vài định kiến không hay về người bất tử. Con biết mẹ không thấy vui khi biết con trở thành kẻ bất tử. Nhưng con ở đây để nói với mẹ rằng bất tử cũng giống như con và mẹ thôi.” Simon dừng lại. “À ờ. Có lẽ giống con hơi giống mẹ.”
“SIMON.”
“Được rồi, được rồi.” Cậu nói tiếp. “Điều đầu tiên mẹ cần hiểu là con vẫn là con của ngày xưa. Nhưng bất tử không phải điều quan trọng nhất về con. Nó chỉ là một phần của con người con. Điều thứ hai mẹ cần biết là chuyện bất tử hay là người bình thường không phải một lựa chọn. Con sinh ra đã thế.” Simon nheo nheo mắt liếc nhìn cô từ trang sách. “Xin lỗi, tái sinh đã thế.”
Clary thở dài. “Cậu không cố thử.”
“Ít nhất mình có thể nói với mẹ là cậu đã chôn mình trong nghĩa trang Do Thái,” Simon nói và gập tờ rơi lại. “Có lẽ mình nên bắt đầu từ từ. Nói chuyện với chị mình trước.”
“Mình sẽ đi cùng nếu cậu muốn. Có lẽ mình có thể khiến họ hiểu được.”
Simon ngước lên nhìn, ngạc nhiên, và cô thấy những vết rạn trên bộ áo giáp của sự hài hước trào phúng của cậu cùng nỗi sợ hãi bên dưới. “Cậu sẽ làm thế ư?”
“Mình…” Clary đang định nói thì tiếng bánh xe rít điếc tai vang lên đột ngột và tiếng kính vỡ loảng xoảng xen ngang. Cô nhảy dựng dậy và chạy vội ra cửa sổ, Simon đứng cạnh. Cô kéo phăng rèm nhìn ra ngoài.
Chiếc xe của chú Luke đã phi lên bãi cỏ, động cơ nghiến gào rú, lốp cao su cháy để lại những đường đen trên vỉa hè. Một bên đèn pha sáng rực trong khi chiếc kia bị vỡ và trên khung lưới sắt dính vết ố đen gì đó - một thứ gì đó hơi gù, trắng ởn và nằm bất động dưới hai bánh trước. Dịch mật dâng lên cổ Clary. Chú Luke cán phải ai đó à? Nhưng không - cô vội vã chùi đi lớp màn ảo ảnh khỏi tầm nhìn mình như thể lau vết bẩn khỏi cửa sổ. Thứ nằm dưới bánh xe không phải người. Nó mềm, trắng, gần giống ấu trùng, và ngọ nguậy như sâu bị đóng đinh vào ván.
Cửa xe bên tài xế mở tung và chú Luke nhảy ra. Chú chẳng buồn để mắt tới sinh vật dưới lốp xe mà lao qua bãi cỏ tới hiên nhà. Nhìn theo chú, Clary thấy có một người nằm cong queo trong khoảng hiên tối om. Một người nhỏ con, mái tóc bện, sáng màu.
“Đó là cô gái sói. Maia.” Simon kinh ngạc. “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”
“Tớ không biết.” Clary vơ lấy thanh stele đặt trên nóc giá sách. Họ lao xuống những bậc tam cấp, tới nơi chú Luke đang ngồi, tay đặt trên vai Maia, nâng cô bé lên đặt nhẹ nhàng dựa vào hiên nhà. Tới gần, Clary thấy áo trước cô nàng bị xé toạc và từ vết thương trên vai, máu từ từ chảy ra.
Simon đứng sựng lại. Clary, suýt đâm vào bạn, há hốc miệng vì ngạc nhiên và nhìn cậu một cách tức tối trước khi hiểu ra chuyện. Máu. Cậu sợ nó, sợ phải nhìn thấy nó.
“Con bé vẫn ổn,” chú Luke nói, khi thấy đầu Maia nghiên sang bên và cô nàng khẽ rên rỉ. Chú tát nhẹ vào má Maia làm cô nàng mở choàng mắt. “Maia. Maia, cháu nghe thấy chú nói không?”
Cô chớp chớp mắt rồi gật đầu, trông hoang mang. “Chú Luke hả?” cô thì thào. “Có chuyện gì thế?” Cô ta nhăn mặt. “Vai cháu…”
“Thôi nào. Để chú bế cháu vào nhà.” Chú Luke bế cô ta trên tay, và Clary nhớ hồi trước, cô luôn thắc mắc sao một người làm trong hiệu sách như chú lại có sức khỏe phi thường tới vậy. Cô cứ tưởng do chú phải bê các thùng đồ nặng nhiều. Nhưng giờ cô đã biết nguyên nhân do đâu. “Clary. Simon. Đi nào.”
Họ trở vào trong, nơi chú Luke đặt Maia xuống chiếc ghế sô pha nhung xám sờn. Chú bảo Simon đi lấy chăn còn Clary vào bếp lấy khăn ướt. Khi Clary trở lại, cô thấy Maia ngồi dựa vào gối, cả người đỏ ửng và như lên cơn sốt. Cô đang nói liến thoắng một cách lo lắng với chú Luke, “Cháu đang đi trên bãi cỏ thì - cháu đánh hơi thấy gì đó. Thứ gì đó thối rữa, có mùi như rác ấy. Cháu quay lại và nó lao vào cháu…”
“Cái gì lao vào cậu cơ?” Clary hỏi và tay đưa cho chú Luke chiếc khăn.
Maia nhíu mày. “Tớ không nhìn ra. Nó đánh ngã tớ và sau đó - tớ đã cố đẩy nó ra, nhưng nó quá nhanh…”
“Chú thấy,” chú Luke đều đều nói. “Chú đang lái xe lên nhà thì thấy cháu đi trên bãi cỏ - và rồi chú thấy nó đi theo cháu, ẩn trong bóng cháu. Chú cố hét cảnh báo, nhưng cháu không nghe thấy. Sau đó nó quật ngã cháu.”
“Cái gì đi theo bạn ấy cơ?” Clary hỏi.
“Quỷ Drevak,” chú Luke nói, giọng nghiêm trọng. “Chúng bị mù. Chúng theo dấu con mồi nhờ mùi. Chú cho xe phi lên bãi cỏ và chèn qua nó.”
Clary liếc qua cửa sổ về phía chiếc xe tải. Cái thứ vặn vẹo dưới bánh xe đã biến mất, không có gì phải ngạc nhiên - quỷ luôn trở về chiều không gian của chúng sau khi chết. “Sao nó lại tấn công Maia?” Cô nói nhỏ hơn khi nghĩ ra: “Chú có nghĩ thủ phạm là Valentine không? Tìm kiếm máu người sói để hoàn thành bùa chú cho hắn ấy? Lần trước hắn đã bị phá ngang…”
“Chú không nghĩ vậy,” chú Luke đáp khiến cô ngạc nhiên. “Quỷ Drevak không hút máu và chúng không thể gây ra tình trạng lộn xộn như các cháu thấy tại Thành phố Câm Lặng được. Thường chúng đảm nhiệm vai trò gián điệp hoặc kẻ đưa tin. Chú nghĩ Maia vô tình đụng phải nó thôi.” Chú cúi xuống nhìn Maia, lúc này đang khe khẽ rên, mắt nhắm nghiền. “Cháu xắn tay áo lên cho chú xem vai nhé?”
Cô gái sói cắn môi và gật đầu, rồi đưa tay xắn ống tay áo lên. Có một vết rạch dài nơi vai. Máu đã đóng thành vảy trên tay cô nàng. Clary hít sâu khi nhìn thấy vết cắt nham nhở còn dính gì đó, giống những cây kim đen mỏng ghê rợn trồi ra khỏi da.
Maia nhìn xuống tay, sự kinh hoàng lồ lộ trên nét mặt. “Chúng là gì thế ạ?”
“Quỷ Drevak không có răng, chúng có những cái gai độc trong miệng,” chú Luke nói. “Vài cái gai đã gãy kẹt trong da cháu.”
Răng Maia bắt đầu lập cập đập vào nhau. “Độc ạ? Cháu sẽ chết ạ?”
“Không nếu chúng ta xử lý sớm,” chú Luke trấn an. “Nhưng chú sẽ phải lôi chúng ra, và sẽ đau đấy. Cháu nghĩ mình chịu nổi không?”
Maia méo xệch vì đau. Cô cố gật đầu. “Chỉ cần chú… lôi chúng ra khỏi người cháu.”
“Lôi gì ra?” Simon vừa hỏi vừa đi vào phòng với chiếc chăn trên tay. Cậu đánh rơi chăn khi thấy tay Maia, và vô thức lùi một bước. “Cái gì thế kia?”
“Sợ máu hả, người thường?” Maia nói, với nụ cười yếu ớt. Sau đó cô nàng thở dốc. “Ôi, đau…”
“Chú biết,” chú Luke nói và nhẹ nhàng cuốn khăn quanh cẳng tay. Chú rút từ thắt lưng ra một con dao mảnh. Maia nhìn con dao rồi nhắm chặt mắt lại.
“Cứ làm gì chú cần làm,” cô nàng lí nhí. “Nhưng - cháu không muốn người khác nhìn.”
“Chú hiểu.” Quay sang Clary và Simon, chú Luke nói. “Cả hai, đi vào bếp. Gọi cho Học Viện. Nói cho họ nghe chuyện xảy ra và bảo họ cử người tới. Họ không thể cử Tu Huynh đến được, nên hay hơn cả là ai đó được đào tạo về y khoa, hoặc một pháp sư.” Simon và Clary trân trối nhìn chú, đứng tê liệt khi thấy con dao và cái tay đang dần tím tái của Maia. “Đi!” chú quát, và lần này họ đi thật.
Ta tin mình đang nơi Địa ngục, nhờ thế ta mới tồn tại.
- Authur Rimbaud
Mở đầu: Khói và kim cương
Công trình làm từ kính và thép tuyệt đẹp đứng sừng sững trên phố Front như một mũi kim lấp lánh đâm toạc bầu trời. Đó chính là tòa tháp Metropole cao năm mươi bảy tầng, tòa tháp căn hộ ở khu đô thị mới xa xỉ nhất của Manhattan. Trên tầng cao nhất, tầng năm mươi bảy, chỉ có duy nhất một căn hộ thuộc loại sang nhất trong số những phòng hạng sang: căn tầng mái của tòa nhà Metropole, một công trình thiết kế xứng tầm kiệt tác với hai tông màu chủ đạo đen và trắng. Căn hộ còn rất mới chưa kịp dính lấy chút bụi, nền nhà đá hoa cương sáng loáng phản chiếu trời sao trông rõ qua những khung cửa sổ to lớn chạy từ trần xuống sàn. Kính cửa sổ trong văn vắt, tạo ra một ảo tưởng rất thật rằng chẳng có gì chắn giữa người đứng ngắm và quang cảnh ngoài kia vốn đã luôn được cho là tác nhân gây ra chứng xây xẩm thậm chí là cho những kẻ không hề sợ độ cao.
Xa xa bên dưới, dòng sông Đông uốn lượn như một sợi ruy-băng bạc, có đôi cây cầu lấp lánh vắt ngang, lốm đốm những tàu thuyền nhỏ xíu như mắt muỗi, dòng sông ngăn đôi hai bờ ánh sáng rực rỡ hoa lệ, một bên là Manhattan và bên kia là Brooklyn. Vào những đêm quang đãng, người ta mới có thể nhìn thấy thấp thoáng Tượng Nữ Thần Tự Do xa xa ở mạn nam - nhưng đêm nay lại mù sương, Đảo Tự Do hoàn toàn biến mất sau màn sương mù trắng xóa.
Dù khung cảnh có lộng lẫy đến mấy, người đàn ông đang đứng trước cửa sổ kia dường như không mảy may ấn tượng. Gương mặt gầy, khắc khổ của hắn cau có khi hắn quay người rời khỏi ô cửa sổ và sải bước đi, tiếng gót giày vang đều đều trên nền đá hoa cương. “Ngươi vẫn chưa xong à?” hắn hỏi, lùa tay qua mái tóc muối tiêu. “Chúng ta ở đây gần một tiếng rồi.”
Cậu bé đang quỳ trên sàn nhà ngước mắt nhìn, vừa lo lắng vừa cáu kỉnh. “Nền nhà bằng đá hoa cương. Nó cứng hơn tôi tưởng. Vẽ ngôi sao năm cánh trên này khó lắm.”
“Vậy đừng vẽ nữa.” Nhìn cận cảnh, người ta rất dễ dàng nhận ra rằng, dù tóc đã bạc, nhưng người đàn ông này chưa già. Khuôn mặt đăm đăm của hắn có khắc khổ nhưng không có lấy một nếp nhăn, đôi mắt vẫn còn tinh anh và quyết đoán.
Cậu bé nuốt khan và đôi cánh màng đen nhô ra từ xương bả vai (cậu đã phải rạch phần sau áo khoác jean để chừa chỗ cho đôi cánh này) bồn chồn vỗ vỗ. “Ngôi sao năm cánh là một phần thiết yếu cho bất cứ nghi thức triệu hồi quỷ nào. Ngài biết điều đó mà. Không có nó...”
“Chúng ta sẽ không được bảo vệ. Ta biết, Elias nhỏ bé ạ. Nhưng cậu phải quen với việc đó thôi. Ta biết được có những pháp sư có thể triệu hồi quỷ dữ, nói chuyện con cà con kê với nó rồi tống khứ nó về địa ngục chỉ bằng thời gian cậu vẽ nửa ngôi sao năm cánh thôi.”
Cậu bé không nói gì, chỉ cắm cúi chọc mặt đá hoa cương, nhưng giờ nhanh nhẹn hơn. Mô hôi nhỏ giọt như mưa từ trán và cậu ta dùng bàn tay với những ngón tay dính vào nhau bằng lớp màng mỏng như mạng nhện vuốt tóc lên. “Xong,” cuối cùng cậu ta nói sau khi ngồi thẳng dậy và thở hổn hển. “Xong rồi.”
“Tốt.” Người đàn ông có vẻ hài lòng. “Chúng ta bắt đầu thôi.”
“Tiền của tôi...”
“Ta đã nói rồi. Cậu sẽ nhận được tiền sau khi ta nói chuyện với Agramon, chứ không phải trước lúc đó.”
Elias đứng dậy và cởi áo khoác ra. Dù đã cắt lỗ, nhưng chiếc áo khoác vẫn bó chặt lấy đôi cánh đến khó chịu; vừa thoát khỏi kìm kẹp, đôi cánh liền sải rộng, khẽ rung rung tạo nên cơn gió nhè nhẹ thổi trong căn phòng vốn đang ngột ngạt. Đôi cánh mang màu dầu loang: một màu đen đan xen với vạt màu bảy sắc cầu vồng hoa cả mắt. Người đàn ông nhìn đi chỗ khác, như thể đôi cánh khiến hắn không thoải mái, nhưng Elias dường như không để ý. Cậu ta bắt đầu đi quanh ngôi sao năm cánh vừa vẽ xong, theo hướng ngược chiều kim đồng hồ và lẩm nhẩm quỷ ngữ nghe như tiếng lửa cháy lách tách.
Với âm thanh xèo xèo như tiếng lốp bị xì hơi, phần viền ngoài ngôi sao năm cánh đột nhiên bùng cháy. Mười hai cửa sổ lớn phản chiếu hình ảnh mười hai ngôi sao lửa
Có gì đó di chuyển trong ngôi sao năm cánh, cái gì đó đen đúa không hình không dạng. Elias lầm rầm nhanh hơn, giơ bàn tay có màng lên, những ngón tay dường như đang phác họa các đường nét rõ ràng trong không khí. Những ngón tay đi tới đâu, ngọn lửa xanh bừng cháy tới đó. Người đàn ông không thể nói lưu loát tiếng Chthonia, ngôn ngữ pháp sư, nhưng hắn biết đủ để hiểu câu thần chú Elias đang nhắc đi nhắc lại: Agramon, ta triệu hồi ngươi. Rời khỏi không gian giữa các thế giới, ta triệu hồi ngươi.
Người đàn ông đút tay vào túi. Một vật kim loại cứng, lành lạnh chạm vào ngón tay hắn. Hắn mỉm cười.
Elias đã ngừng chuyển động. Giờ cậu ta đứng trước ngôi sao năm cánh, giọng lên bổng xuống trầm theo câu thần chú, ngọn lửa xanh nổ lách tách xung quanh như sét. Đột nhiên một cuộn khói đen bốc lên từ trong ngôi sao năm cánh; nó cuộn vòng bay lên, trải rộng và và đông đặc lại dần. Hai con mắt lửng lơ trong đám khói trông như hai viên đá quý dính trên mạng nhện.
“Kẻ nào đã gọi ta xuyên qua các thế giới tới nơi đây?” Agramon gằn giọng hỏi, giọng hắn ta nghe lanh canh như tiếng kính vỡ. “Kẻ nào đã triệu hồi ta?”
Elias đã ngừng đọc thần chú. Cậu ta đứng chết lặng trước ngôi sao năm cánh - chết trân, trừ đôi cánh vẫn chầm chậm vỗ nhẹ trong không khí. Không khí nồng nặc mùi a xít và mùi cháy khen khét.
“Agramon,” pháp sư nói. “Ta là pháp sư Elias. Ta là người đã triệu hồi ngươi.”
Trong giây phút, tất cả chìm trong im lặng. Sau đó con quỷ bật cười, nếu như khói có thể được cho là cười. Bản thân tiếng cười nghe cay độc như a xít vậy. “Tên pháp sư ngu ngốc,” Agramon khò khè. “Thằng nhỏ ngu ngốc.”
“Chính ngươi mới ngu ngốc, nếu như ngươi nghĩ ngươi có thể đe dọa ta,” Elias nói, nhưng giọng lại run run như đôi cánh. “Ngươi là tù nhân trong ngôi sao năm cánh này, Agramon, cho tới khi ta phóng thích ngươi.”
“Thật sao?” Đám khói nhoài lên phía trưóc, biến hóa khôn lường. Một tua khói biến thành hình bàn tay người và vuốt vuốt vào mép sao năm cánh cháy sáng đang bao tủa lấy nó. Rồi, bằng một lực ùa tới, toàn bộ cuộn khói sủi bọt xuyên qua mép ngôi sao, tràn ra ngoài như sóng tràn qua đê. Ngọn lửa lập lòe rồi tắt lịm trong khi Elias gào thét và loạng choạng lùi lại. Giờ cậu ta đang lầm rầm, liến thoắng bằng tiếng Chthonia, những những lời chú nhằm ngăn chặn và trục xuất con quỷ. Không tác dụng; cuộn khói đen ào ạt lao tới, và giờ nó bắt đầu biến thành một thứ có hình dạng - một thứ hình thù khổng lồ, xấu xí, dị hợm, đôi mắt sáng to dần, tròn như cái đĩa con, tỏa ra ánh sáng lòe lòe đáng sợ.
Người đàn ông dửng dưng quan sát khi Elias lại gào lên và quay người định chạy. Nhưng cậu chẳng bao giờ đến được cánh cửa. Agramon tràn tới, trùm lấy cậu nhóc pháp sư bằng luồng khói như hắc ín nóng chảy. Elias yếu ớt chống cự một hồi - rồi sau đó bất động.
Bóng đen rút lui, để lại cậu nhóc pháp sư nằm co quắp trên nền đá hoa cương.
“Ta mong là,” người đàn ông lên tiếng, giờ đã rút vật kim loại ra khỏi túi và lơ đãng nghịch nghịch nó trên tay, “ngươi đã không làm gì khiến hắn biến thành phế vật với ta. Ta cần máu của hắn, ngươi biết đấy.”
Agramon quay lại, trông như một cây cột khói đen sì với đôi mắt hình kim cương chết chóc. Chúng nhìn chăm chăm vào người đàn ông trong bộ com lê đắt tiền, vào khuôn mặt dửng dưng, gầy guộc, vào những Ấn Ký màu đen phủ đầy da hắn, và vào vật phát sáng trên tay hắn. “Ngươi trả tiền để một thằng nhãi pháp sư triệu hồi ta? Và ngươi không nói cho hắn biết ta có thể làm gì?”
“Đoán chuẩn đấy,” người đàn ông đáp.
Agramon nói với sự ngưỡng mộ pha lẫn bực tức. “Quả là thông minh.”
Người đàn ông tiến thêm một bước về phía con quỷ. “Ta vốn thông minh. Và giờ ta là chủ nhân của ngươi. Ta giữ Cốc Thiên Thần. Ngươi phải nghe lời ta, hoặc không thì phải đối mặt với hậu quả.”
Con quỷ im lặng một lúc. Sau đó nó phục xuống sàn nhà - với vẻ phục tùng giễu cợt - là cách giống người nhất mà một sinh vật không thực sự có thân mình có thể quỳ. “Tôi sẽ phục vụ ngươi, thưa Chủ nhân... ?”
Câu nói kết thúc một cách lịch sự, lên giọng như một câu hỏi.
Người đàn ông mỉm cười. “Ngươi có thể gọi ta là Valentine.”
1. Mũi tên của Valentine
“CẬU CÒN TỨC À?”
Alec, tựa lưng vào thang máy, trừng mắt qua khoảng không nhỏ hẹp nhìn vào Jace. “Tớ không tức.”
“Ồ có đấy.” Jace nhún vui ra vẻ kết tội ông anh nuôi, rồi sau đó rên rẩm vì cơn đau chạy dọc cánh tay. Cả người anh ê ẩm suốt từ chiều hôm đó khi rơi qua ba tầng lầu, xuyên qua lớp gỗ mục và hạ cánh trên đống kim loại phế thải. Tới ngón tay của anh còn bị bầm tím nữa là. Alec, người vừa mới bỏ nạng chống mà anh đã phải dùng từ sau trận chiến với quỷ Abbadon, trông cũng không khá khẩm gì hơn cảm giác của Jace. Quần áo anh ta dính đầy bùn đất còn tóc thì rũ xuống thành từng lọn bê bết mồ hôi. Một vết cắt dài chạy dọc bên má.
“Tớ đã nói là không mà,” Alec rít qua kẽ răng. “Chỉ vì cậu nói lũ quỷ rồng tuyệt chủng hết rồi…”
“Tớ chỉ nói tuyệt chủng gần hết thôi.”
Alec xỉa ngón tay về phía Jace. “Tuyệt chủng gần hết,” anh ta lên tiếng, giọng giận run, “nghĩa là CHƯA TUYỆT CHỦNG HOÀN TOÀN.”
“Tớ hiểu,” Jace nói. “Thôi thì tớ sẽ nhờ người ta sửa mục quỷ học trong sách giáo khoa từ ‘tuyệt chủng gần hết’ thành ‘chưa tuyệt chủng hoàn toàn’ đối với Alec. Anh ấy thích những con quái vật phải thực sự, thực sự tuyệt chủng kia.’ Như thế làm cậu vui chứ?”
“Ôi đám con trai mấy ông,” Isabelle nãy giờ đang ngắm nghía mặt mình trong vách thang máy ốp gương. “Đừng gây lộn nữa.” Cô nàng quay sang cười rạng rỡ. “Thôi nào, chuyện có đòi hỏi hành động nhiều hơn chúng ta đã tiên liệu đôi chút, nhưng em thấy cũng vui đấy chứ.”
Alec lắc đầu nhìn cô em. “Em làm sao mà chẳng bao giờ dính bùn lên người thế?”
Isabelle thản nhiên nhún vai. “Tâm em trong sáng. Vì thế nên bụi bẩn nào dám bám vào em.”
Jace khịt mũi ầm ĩ khiến cô nàng nhăn mặt quay lại. Anh ngo ngoe những ngón tay dính dãy bùn về phía cô. Móng tay anh là những hình vành khuyên đen sì. “Bẩn từ trong tới ngoài.”
Isabelle đang định đáp lại thì thang máy dừng lại kèm theo những tiếng kêu rin rít ầm ĩ. “Tới lúc phải sửa cái thứ này rồi,” cô nói và kéo cửa mở toang. Jace nối đuôi theo sau, trong thâm tâm đã nghĩ tới việc được cởi bỏ áo giáp và vũ khí rồi tắm mình dưới làn nước nóng. Anh đã thuyết phục được hai người anh em nuôi đi săn cùng mình dù thực lòng cả hai người đó đều không muốn đi ra ngoài khi lúc này đây không có bác Hodge chỉ dẫn. Nhưng Jace lại muốn sự lãng quên trong đánh đấm, nỗi tiêu khiển ác nghiệt trong giết chóc, và cái sao lãng của dính thương. Và vì biết anh cần những điều đó, họ đã cùng đi, cùng bò vào những đường hầm tàu điện ngầm bỏ hoang bẩn thỉu cho tới khi tìm thấy và giết chết con quỷ Draconidae. Ba người bọn họ phối hợp hoàn hảo như thường lệ. Như một gia đình.
Anh cởi áo khoác và quẳng lên một cái móc treo tường. Alec đang ngồi trên băng ghế gỗ thấp bên cạnh, xoay xở tháo đôi ủng dính đầy bùn đất. Anh ta khe khẽ ngâm nga chẳng ra giai điệu nào, để cho Jace biết anh ta không khó chịu đến thế. Isabelle rút những cây kẹp ra khỏi mái tóc đen dài, để cho tóc bung xõa trên lưng. “Giờ em đói quá,” cô nói. “Giá mà mẹ ở đây nấu cho chúng ta chút gì ăn nhỉ.”
“May mà mẹ không có ở đây thì có,” Jace nói và tháo đai đeo vũ khí. “Nếu không bà đã gào thét lên vì những tấm thảm này rồi.”
“Con nói đúng đấy,” một giọng lạnh lùng cất lên, Jace quay ngoắt lại, tay vẫn để trên đai lưng, trông thấy bà Maryse Lightwood đang đứng khoanh tay tại ngưỡng cửa. Bà mặc bộ vest đen đơn giản được hồ cứng loại đi đường, và mái tóc, cũng đen nhánh như tóc Isabelle, được tết lại thành một bím tóc dày thả tới nửa lưng. Đôi mắt bà, màu xanh lạnh lẽo, quét qua ba người họ như đèn pha truy quét.
“Mẹ!” Isabelle, lấy lại được bình tĩnh, lao tới ôm mẹ. Alec lục tục tới bên, cố che giấu việc mình vẫn còn khập khiễng.
Jace đứng tại chỗ. Có cái gì đó trong đôi mắt của bà Maryse khi bà nhìn qua anh khiến anh chết lặng. Chắc chắn những gì anh vừa nói đâu có quá đáng đến vậy đâu. Mấy người bọn họ nói đùa về nỗi ám ảnh của mẹ với những tấm thảm cổ luôn ấy mà...
“Bố đâu ạ?” Isabelle lùi lại hỏi. “Và Max nữa?”
Một sự ngừng bặt chừng như không thể nhận thấy được thoáng qua. Đoạn bà Maryse bảo, “Max ở trong phòng nó. Còn bố con, không hay là vẫn còn ở Alicante. Có một số việc cần bố lo liệu.”
Alec, vốn nhạy cảm hơn cô em, dường như có chút lo lắng. “Có chuyện gì không hay hả mẹ?”
“Mẹ nên hỏi con câu đó mói đúng.” Giọng bà khô khốc. “Con đang đi cà nhắc đấy à?”
“Con…”
Alec nói dối dở tệ. Isabelle đỡ lời hộ anh, trơn tru, “Chúng con đụng độ với quỷ Draconidae trong đường hầm tàu điện. Nhưng chẳng có gì đâu ạ.”
“Vậy chắc vụ đụng độ với Đại Quỷ tuần trước cũng chẳng là gì đúng không?”
Cả Isabelle nghe thấy thế cũng cứng họng. Cô nhìn sang Jace, trong khi anh chỉ ước là con bé đừng có nhìn.
“Chuyện đó bọn con không định trước.” Jace cố lắm mới tập trung được. Bà Maryse vẫn chưa hỏi han gì anh, chưa nói đến cả một tiếng chào, và bà vẫn đang nhìn anh bằng đôi xanh sắc lẹm như lưỡi dao. Một cảm giác trống rỗng trong bụng anh đang bắt đầu lan ra. Trước đây bà chưa từng nhìn anh như vậy, dù cho anh có làm gì đi chăng nữa. “Đó là một sai lầm...”
“Anh Jace!” Max, cậu út nhà Lightwood, lách qua người bà Maryse và chạy lao vào phòng, tránh xa tầm với của mẹ mình. “Anh trở về rồi! Cả mấy anh chị đều về rồi!” Cậu bé quay vòng vòng, cười toe chiến thắng với Alec và Isabelle. “Em đã nghĩ mình đã nghe thấy tiếng thang máy.”
“Và mẹ cứ nghĩ mẹ đã bảo con ở trong phòng cơ mà.”
“Con không nhớ ạ,” Max nói nghiêm túc tới mức Alce phải phì cười. Max khá nhỏ con so với tuổi - trông cậu bé chỉ tầm lên bảy - nhưng với vẻ điềm tĩnh, đĩnh đạc, cộng thêm cặp kính quá khổ, khiến cậu bé trông như ông cụ non vậy. Alec vươn tay xoa đầu cậu em, nhưng Max vẫn nhìn Jace, mắt sáng rỡ. Jace thấy nắm tay lạnh lẽo đang bóp chặt dạ dày mình đã hơi chút nới lỏng ra. Max luôn tôn sùng Jace theo một kiểu mà cậu bé chẳng bao giờ dùng cho anh ruột, chắc hẳn vì Jace chịu được sự có mặt của cậu bé giỏi hơn nhiều. “Em nghe nói anh đã chiến đấu với Đại Quỷ,” Max nói. “Có tuyệt không anh?”
“Cũng... khác lắm,” Jace đánh trống lảng. “Alicante thế nào?”
“Tuyệt vời. Em với bố mẹ được thấy những thứ tuyệt cú mèo. Có một cửa hàng vũ khí lớn ở Alicante và người ta đưa em đến mấy chỗ họ làm vũ khí. Họ cũng chỉ cho em phương pháp mới để rèn con dao thiên thần nữa đấy, để chúng có thời gian sử dụng dài hơn và em định thử nhờ bác Hodge chỉ cho em...”
Jace chẳng đặng đừng; mắt anh ngay lập tức chuyển sang Maryse, vẻ mặt anh chừng như không thể tin nổi. Vậy là Max không biết gì về chuyện bác Hodge sao? Bà chưa nói cho thằng bé biết ư?
Bà Maryse nhìn thấy vẻ mặt Jace liền mím môi lại thành đường mảnh. “Đủ rồi, Max.” Bà nắm lấy tay cậu con út.
Cậu bé ngạc nhiên ngẩng đầu nhìn mẹ. “Nhưng con đang nói chuyện với anh Jace...”
“Mẹ thấy rồi.” Bà nhẹ nhàng đẩy cậu bé về phía Isabelle. “Isabelle, Alec, đưa em con về phòng. Jace,” - giọng bà sít lại khi bà gọi tên anh, như thể có thứ axit vô hình nào đó đang đốt khô từng âm trong miệng bà - “con tắm rửa rồi gặp mẹ trong thư viện ngay khi có thể.”
“Con không hiểu,” Alec nói, hết nhìn mẹ lại nhìn Jace. “Có chuyện gì thế này?”
Jace thấy mồ hôi lạnh túa ra dọc xương sống. “Chuyện về bố đẻ của con phải không ạ?”
Bà Maryse giật mình hai lần, như thể từ “bố đẻ” là hai cú bợp tai riêng rẽ. “Thư viện,” bà nghiến răng nói. “Chúng ta sẽ nói chuyện ở đó.”
Alec lên tiếng, “Những chuyện xảy ra khi mẹ đi vắng không phải lỗi của Jace. Chúng con đều tham gia. Và bác Hodge nói...”
“Rồi chúng ta sẽ nói tới bác Hodge sau.” Mắt bà Maryse nhìn sang Max, giọng đe dọa.
“Nhưng mẹ à,” Isabelle cự nự. “Nếu mẹ định phạt Jace, mẹ nên phạt cả tụi con luôn. Thế mới công bằng chứ. Bọn con làm cùng một chuyện mà.”
“Không,” bà Maryse cất tiếng sau khi im lặng một lúc lâu khiến Jace những tưởng bà sẽ không nói gì nữa. “Các con không làm cùng một chuyện.”
“Quy tắc thứ nhất của anime,” Simon nói. Cậu chống một tay lên chồng gối ở chân giường, một tay cầm túi khoai tây chiên, tay kia cầm điều khiển TV. Cậu đang mặc áo in dòng chữ I BLOGGED YOUR MOM và quần bò rách gối. “Đừng bao giờ gây sự với một nhà sư mù.”
“Tó biết thừa,” Clary nói rồi nhón một miếng khoai tây và nhúng vào lon nước sốt nằm trong khay TV giữa hai người. “Chẳng hiểu sao họ luôn đánh giỏi hơn những nhà sư sáng mắt nhỉ.” Cô nheo mắt nhìn màn hình. “Mấy người kia đang khiêu vũ à?”
“Không phải khiêu vũ. Họ đang cố giết nhau mà. Tay này là kẻ thù không đội trời chung của tay kia, nhớ không? Hắn giết bố anh ta. Sao họ có thể khiêu vũ cùng nhau chứ?”
Clary nhai rào rạo miếng khoai tây và nhìn màn hình nghiền ngẫm, theo dõi những cuộn khói vàng vàng hồng hồng sinh động đang lăn tăn ngăn giữa hai người đàn ông có cánh, lơ lửng chờn vờn quanh nhau, mỗi người tay nắm một cây giáo phát sáng. Thi thoảng một trong hai người nói gì đấy, nhưng vì họ nói bằng tiếng Nhật và bên dưới chạy phụ đề tiếng Trung nên cô cũng không hiểu lắm. “Cái người đội mũ ấy,” cô hỏi. “Là người xấu à?”
“Không, người đội mũ là bố anh kia. Ông ấy là vua pháp thuật, và đó là mũ phép thuật của ông ấy. Người xấu là cái người có cánh tay máy biết nói ấy.”
Đúng lúc đó điện thoại đổ chuông. Simon đặt túi khoai tây chiên và định đứng dậy nghe điện. Clary nắm cổ tay cậu. “Đừng. Kệ nó đi.”
“Nhưng biết đâu là chú Luke. Có thể chú ấy gọi từ bệnh viện.”
“Không phải chú Luke đâu,” giọng Clary có vẻ chắc chắn hơn thực tâm cô cảm nhận. “Chú ấy sẽ gọi tới di động của mình, chứ không phải nhà cậu.”
Simon nhìn cô một lúc lâu trước khi ngồi xuống tấm thảm bên cạnh cô. “Cậu nói vậy thì thôi.” Trong giọng nói cậu nhuốm màu ngờ vực, nhưng bên cạnh đó còn ẩn chứa một niềm an ủi không còn nói thành lời, Mình chỉ muốn cậu vui mà thôi. Cô cũng không chắc cô có cảm thấy “vui” không, khi mẹ đang nằm trong bệnh viện, người bị gắn liền với đống dây dợ lằng nhằng và những cỗ máy kêu bíp bíp đêm ngày, còn chú Luke như thây ma, ngày ngày vật vờ trên chiếc ghế nhựa cứng bên giường mẹ. Có vui khi suốt ngày lo lắng cho Jace và cứ nhấc máy cả ngàn lần định gọi cho Học Viện nhưng rồi lại bỏ xuống, số vẫn chưa bấm. Nếu Jace muốn nói chuyện, anh ấy sẽ gọi.
Có lẽ cô đã sai lầm khi đưa anh tới gặp mẹ Jocelyn. Cô cứ nghĩ nếu mẹ nghe thấy giọng nói của con trai, người con đầu tiên của bà, bà sẽ tỉnh lại. Nhưng bà không tỉnh. Jace đứng chết trân lóng ngóng bên giường, gương mặt đẹp như thiên thần trong tranh vẽ, nhưng đôi mắt lại trống rỗng thờ ơ. Cuối cùng Clary mất kiên nhẫn và hét lên với anh, thế rồi anh quát lại trước khi lao khỏi phòng. Chú Luke nhìn anh đi và trên gương mặt mệt mỏi hiện lên nét hứng thú. “Đây là lần đầu tiên chú thấy hai đứa hành xử giống anh trai em gái đấy,” chú nhận xét.
Clary không biết nói sao. Chẳng ích gì đi nói với chú ấy rằng cô muốn Jace không phải là anh trai mình nhiều tới mức nào. Ta không thể bóc ADN của mình vứt đi, dù có là ao ước lắm. Dù làm thế sẽ khiến ta vui vô cùng.
Nhưng cô thấy, dù mình không thể xử lý vụ vui ấy, nhưng ít nhất ở đây tại nhà của Simon, trong phòng ngủ của cậu, cô cảm thấy thoải mái và tự nhiên như ở nhà. Cô biết cậu từ hồi cậu dùng giường hình xe cứu hỏa và trong góc phòng chất đầy những khối LEGO. Giờ trong phòng là giường nệm cứng với ga giường kẻ sọc rực rỡ, vốn là quà của chị gái, còn tường thì dán đầy những tấm áp phích của những ban nhạc như Rock Solid Panda và Stepping Razor. Ở góc tường, nơi từng là chốn cư ngụ của những khối LEGO, giờ là nơi ngự trị của dàn trống, còn ở góc tường kia là bộ máy tính, màn hình vẫn trong chế độ đóng băng với hình nền World of Warcraft. Cô có cảm giác thân thuộc với nơi này gần như với căn phòng ngủ của mình - giờ đã không còn, nên ít ra đây là nơi tốt nhất hiện thời.
“Lại chibi nữa,” Simon rền rĩ. Tất cả các nhân vật trên màn ảnh đều biến thành phiên bản trẻ con cao hai phân rưỡi và chạy vòng vòng đuổi nhau, tay cầm chảo và bình khua khoắng. “Mình chuyển kênh đây,” Simon tuyên bố và giằng lấy điều khiển. “Mình chán cái phim hoạt hình này lắm rồi. Chẳng thể hiểu được nội dung là gì và chẳng thấy có cảnh nóng gì hết.”
“Tất nhiên là không có rồi,” Clary nói và nhón thêm miếng khoai tây nữa. “Anime là chương trình giải trí lành mạnh giành cho cả gia đình mà.”
“Nếu cậu thích xem chương trình giải trí ít lành mạnh hơn, chúng ta có thể chuyển sang kênh phim người lớn,” Simon nhận xét. “Cậu thích xem The witches of Breastwick hay As I Lay Dianne?”
“Đưa ngay cho mình!” Clary giật lại cái điều khiển, nhưng Simon cười nắc nẻ và chuyển sang kênh khác
Tiếng cười của cậu đột ngột tắt lịm. Clary ngạc nhiên ngước lên và thấy cậu bạn đang nhìn chăm chú vào màn hình. TV đang chiếu một bộ phim đen trắng đã xưa - phim Dracula. Hồi trước cô đã từng xem phim này cùng mẹ. Bela Lugosi, ốm nhom mặt trắng bệch, đang hiện trên màn hình, quấn mình trong chiếc áo choàng cổ cao quen thuộc và đôi môi đang vén lên nhe ra những chiếc răng sắc nhọn. “Ta chưa bao giờ uống... rượu,” ông ta nói bằng giọng nặng âm điệu Hungary.
“Mình thích cách người ta làm mạng nhện từ cao su,” Clary nói, cố ra giọng vui vẻ. “Nhìn cái là biết.”
Nhưng Simon đã đứng lên và ném cái điều khiển xuống giường. “Mình sẽ trở lại ngay,” cậu thì thào. Mặt cậu xám xịt như bầu trời mùa đông trước khi đổ mưa. Clary nhìn cậu bạn bỏ đi, và cắn chặt môi lại - đây là lần đầu tiên kể từ khi mẹ tới bệnh viện cô nhận ra có lẽ Simon cũng chẳng vui vẻ gì.
Lau khô tóc, Jace cau có ngắm hình ảnh phản chiếu. Một chữ rune trị thương đã chữa cho vết bầm tím tệ hại nhất, nhưng nó không thể làm tan quầng thâm dưới mắt hay những vết hằn ở khóe môi anh. Đầu anh đau như búa bổ còn người thì váng vất. Anh biết sáng ra mình nên ăn chút gì đó, nhưng anh đã bật dậy hổn hển và buồn nôn vì ác mộng nên không muốn dừng lại mà ăn uống, chỉ muốn được tập thể dục để thoải mái tinh thần, để thiêu trụi những giấc mơ bằng mồ hôi và những vết bầm tím.
Ném cái khăn sang một bên, Jace khao khát có một tách trà đen ngọt ngào được chế biến từ các loài hoa nở vào ban đêm trong nhà kính của bác Hodge. Loại trà đó luôn làm tiêu tán cơn đói cồn cào và mang lại một nguồn năng lượng mới. Từ khi bác biến mất, Jace từng thử đun lá cây trong nước để xem mình có thể tạo ra cùng hiệu ứng ấy không, nhưng chỉ thu được thứ nước uống đắng ngắt, mang vị tro chan chát khiến anh chỉ muốn khạc nhổ cho bằng hết.
Chân để trần, anh đi vào phòng ngủ rồi mặc quần bò cùng áo phông sạch. Anh vuốt ngược mái tóc vàng nhẹp và nhíu mày. Lúc này tóc dài quá, xõa hết xuống cả mắt - đảm bảo mẹ Maryse sẽ mắng anh ra trò vì vụ này đây. Bà khi nào cũng mắng mà. Có thể anh không phải đứa trẻ mang huyết thống nhà Lightwood, nhưng họ đối xử với anh như con ruột kể từ khi họ nhận anh làm con nuôi vào năm anh lên mười, sau cái chết của bố anh. Cái chết được cho là chết ấy, Jace tự nhắc mình, cảm giác hụt hẫng trong lòng anh lại trỗi dậy. Anh có cảm giác mình như một ngọn đèn ma trơi mấy ngày qua, như thể ruột gan mình đã bị ai đó nĩa moi ra hết vất đầy một đống trong khi nụ cười toe toét cứ dán chặt trên mặt mình. Anh thường xuyên tự hỏi về những điều mình tin tưởng trong đời, hay về chính bản thân mình, có thứ nào từng là thực hay không. Anh từng tưởng mình là trẻ mồ côi - nhưng không phải. Anh từng nghĩ mình là con một - nhưng hóa ra lại có một cô em gái.
Clary. Cơn đau lại dội lên, mạnh mẽ hơn. Anh cố đè nén nó xuống. Mắt anh nán lại trên mảnh gương vỡ nằm trên tủ quần áo, vẫn phản chiếu những nhánh cây xanh rì và bầu trời xanh rực rỡ nắng vàng. Giờ ở Idris là chạng vạng: Bầu trời sẽ có màu xanh thẫm. Nghẹn lòng với cảm giác trống rỗng lại, Jace thọc chân vào bốt rồi đi xuống lầu, tiến thẳng đến thư viện.
Vừa đi trên những bậc cầu thang đá Jace vừa lo lắng nghĩ xem điều bà Maryse muốn nói riêng với mình là gì. Trông như thể bà muốn nhào đến tát vào mặt anh vậy. Jace không thể nhớ nổi lần cuối bà đụng tay đụng chân với mình là hồi nào. Nhà Lightwood thường không thích phạt đòn roi - quả là một khác biệt lớn lao so với việc được Valentine nuôi dạy, một kẻ thích chế ra đủ thứ hình phạt đau đớn để đưa người khác vào khuôn khố. Làn da Thợ Săn Bóng Tối của Jace dù có gặp những vết thương nào cũng sẽ lành lặn như cũ, trừ khi những vết thương đó quá kinh hoàng. Bao nhiêu tuần lễ ngày tháng sau khi bố qua đời, Jace nhớ mình đã lần tìm những vết sẹo trên thân thể, tìm những dấu vết như là kỷ vật, là hoài niệm kết nối cụ thể anh với ký ức về bố mình.
Jace tới thư viện và gõ cửa một lần trước khi đẩy cửa mở. Bà Maryse ở đó, đang ngồi trên chiếc ghế cũ của bác Hodge bên lò sưởi. Ánh sáng ùa qua những ô cửa sổ cao cao và Jace có thể nhìn ra nhúm bạc trên tóc bà. Bà đang cầm một ly rượu vang đỏ; trên bàn bên cạnh là một bình rượu bằng pha lê.
“Maryse,” anh lên tiếng.
Bà khẽ giật mình, sánh chút rượu ra ngoài. “Jace. Ta không nghe tiếng chân con bước vào.”
Anh không động đậy. “Mẹ có nhớ khúc hát mẹ thường hát cho Isabelle và Alec - khi hai người còn nhỏ và sợ tối - để họ ngủ không ạ?”
Bà Maryse thoáng sững người. “Con đang nói gì vậy?”
“Con thường áp tai vào tường lắng nghe,” cậu nói. “Khi đâý phòng ngủ của Alec bên cạnh phòng con mà.”
Bà không nói gì.
“Khúc hát đó,” Jace nói. “Bằng tiếng Pháp.”
“Ta không hiểu sao con lại nhớ những điều đó.” Bà nhìn như thể anh đang buộc tội bà.
“Mẹ không bao giờ hát cho con nghe cả.”
Một khoảng lặng chừng như không cảm nhận được. Rồi “Ồ, con ấy à,” bà nói. “Con có bao giờ sợ tối đâu.”
“Làm gì có đứa nhỏ mười tuổi nào lại không sợ tối?”
Bà nhướn mày. “Ngồi xuống đi, Jonathan,” bà nói. “Ngay lập tức.”
Anh đi, rề rà một chút đủ để chọc giận bà, băng qua phòng, rồi ném mình xuống một trong những chiếc ghế tựa bên cạnh bàn. “Con không thích mẹ gọi con là Jonathan.”
“Sao lại không nào? Đó là tên con cơ mà.” Bà nhìn anh tư lự “Con biết bao lâu rồi?”
“Biết gì ạ?”
“Đừng ngốc vậy. Con thừa biết ta đang hỏi con điều gì.” Bà xoay xoay chiếc cốc thủy tinh trên những đầu ngón tay. “Con biết Valentine là bố đẻ của mình bao lâu rồi?”
Jace ngẫm nghĩ và loại bỏ vài câu trả lời. Thông thường anh có thể đánh lạc hướng bà Maryse bằng cách làm bà cười. Anh là một trong vài người duy nhất trên thế giới này có thể khiến bà cười. “Khoảng từ hồi mẹ biết thôi ạ.”
Bà Maryse chậm rãi lắc đầu. “Ta không tin.”
Jace ngồi thẳng người. Hai tay anh đã thu thành nắm đấm khi đặt trên tay ghế. Anh cảm nhận những ngón tay run run, tự hỏi mình đã bao giờ bị như thế này chưa. Anh nghĩ là không. Hai tay anh luôn vững vàng như nhịp tim của mình vậy. “Mẹ không tin con?”
Anh nghe ra sự hoài nghi trong giọng nói của chính mình và thầm nhăn mặt. Tất nhiên là bà không tin rồi. Điều này đã quá hiển hiện ngay từ khi bà bước chân vào nhà.
“Không có lý nào, Jace à. Sao con lại không biết bố đẻ của con là ai cơ chứ?”
“Ông ấy nói với con rằng ông ấy là Michael Wayland. Bố con con sống ở ngôi nhà ngoại ô của nhà Wayland...”
“Khéo lắm,” bà Maryse nói. “Vụ sống trong nhà Wayland ấy. Và tên con? Tên thật của con là gì?”
“Mẹ thừa biết con tên gì.”
“Jonathan. Ta biết đó là tên con trai của Valentíne. Ta cũng biết Michael có một cậu con trai tên Jonathan. Đó là một cái tên phổ biến trong giới Thợ Săn Bóng Tối - ta chưa bao giờ nghĩ sao lại trùng hợp tới kỳ lạ như vậy, còn tên đệm của con trai anh ấy thì ta chưa bao giờ tìm hiểu. Nhưng giờ ta cứ nghĩ mãi. Tên đệm thật sự của con trai Michael Wayland là gì. Valentine đã lên kế hoạch bao lâu rồi? Hắn biết hắn sẽ phải giết Jonathan Wayland từ khi nào?” Maryse lạc giọng đi, mắt dán vào Jace. “Con biết không, con không hề giống Micheal,’’ bà nói. “Nhưng đôi khi con cái không hề giống bố mẹ. Trước nay ta chưa từng nghĩ tới điều đó. Nhưng giờ ta có thể thấy hình ảnh của Valentine nơi con. Cái cách con đang nhìn ta. Vẻ thách thức đó. Con không thèm quan tâm xem ta đang nói gì, đúng không?”
Có chứ. Chỉ là cậu che giấu quá tài tình mà thôi. “Con có quan tâm thì mọi chuyện sẽ khác đi sao?”
Bà Maryse đặt ly rượu sang một bên. Rượu đã cạn. “Và con dùng câu hỏi làm câu trả lời để làm khó ta, y như Valentine thường làm. Có lẽ ta phải đoán ra chứ.”
“Có lẽ chẳng là gì cả. Con vẫn là cùng một con người như bảy năm qua. Con chẳng thay đổi gì cả. Nếu trước đây con không làm cho mẹ nghĩ tới Valentine, thì con không hiểu sao giờ con lại làm mẹ nghĩ tới ông ta.”
Ánh mắt bà Maryse liếc sang Jace rồi lỉnh ra nơi khác như thể bà không chịu được việc nhìn thẳng vào mắt anh. “Quá rõ là chúng ta nói về Michael, con hẳn phải biết là không thể nào chúng ta đang nói về bố đẻ của con được. Những gì chúng ta nói về ông ấy không thể nào khớp với Valentine.”
“Mẹ nói ông ấy là người tốt.” Cơn giận dữ bùng lên trong anh. “Một Thợ Săn Bóng Tối dũng cảm. Một người cha yêu con. Con nghĩ như thế dường như là chính xác quá rồi còn gì.”
“Còn những bức ảnh thì sao? Hẳn con phải nhìn thấy những bức hình của Michael Wayland và nhận ra ông ấy không phải người con gọi là bố chứ.” Bà cắn môi. “Giúp ta giải thích điều này đi, Jace.”
“Mọi hình ảnh đều đã bị thiêu hủy trong vụ Nổi Loạn. Mẹ đã bảo con thế mà. Giờ con đang nghĩ có phải Valentine đã đốt hết hình đi để giấu danh tính những người trong Hội Kín không. Con không có lấy một bức hình của bố đẻ,” Jace nói, trong lòng đang phân vân liệu lời nói của mình có chua chát như tâm trạng mình lúc này không.
Bà Maryse day day thái dương như thể đang đau đầu. “Ta không tin nổi,” bà nói, như thể đang nói với chính mình. “Chuyện này thật điên rồ.”
“Vậy mẹ đừng tin vào chuyện này nữa. Mẹ tin con đây này,” Jace nói, và cảm thấy tay càng lúc càng run hơn.
Bà buông tay xuống. “Con nghĩ ta không muốn tin con hay sao?” bà hỏi, và trong một khoảnh khắc anh nghe thấy thoảng trong giọng nói của bà là thanh âm của mẹ Maryse, người đã bước vào phòng ngủ của anh hồi anh mười tuổi, đang trừng trừng nhìn lên trần nhà, nghĩ về cha mình - và bà cứ ngồi bên anh mãi cho tới lúc anh chìm vào giấc ngủ, khi bình minh chực ló dạng.
“Chẳng biết nữa,” Jace lại nói. “Nhưng khi ông ta hỏi con có muốn về Idris với ông ấy không, con đã trả lời rằng không. Con vẫn ở lại đây. Chẳng lẽ điều đó không có nghĩa gì sao?”
Bà nhìn bình rượu, như thể đang định rót thêm ly nữa, nhưng rồi lại thôi. “Ước gì điều đó có chút ý nghĩa,” bà nói. “Nhưng có rất nhiều lý do để bố con cho con ở lại Học Viện. Hễ có dính dáng đến Valentine, thì ta không thể tin tưởng được bất cứ ai từng bị hắn ảnh hưởng.”
“Ông ta cũng từng có sức ảnh hưởng tới mẹ đấy thôi,” Jace nói, rồi ngay lập tức hối hận khi nhìn thấy vẻ mặt loáng qua của bà.
“Và ta đã chối bỏ hắn,” bà Maryse nói. “Còn con thì sao? Con có thể không?” Đôi mắt bà xanh như mắt Alec, nhưng Alec chưa bao giờ nhìn anh như thế. “Jace, con hãy nói rằng con căm ghét hắn ta đi. Hãy nói rằng con căm ghét hắn ta và mọi điều hắn đại diện cho đi.”
Một khoảng lặng trôi qua, rồi thêm một khoảng nữa, và Jace, mắt nhìn xuống, thấy bàn tay nắm chặt tới nỗi những đốt tay gồ lên trắng bệch và cứng ngắc như đốt xương trên sống lưng xương cá. “Con không nói được.”
Maryse hít một hơi. “Vì sao không?”
“Thế sao mẹ không thể tin con? Con đã sống cùng mẹ đến gần cả nửa đời. Mẹ phải hiểu con hơn chứ?”
“Con nói nghe thành thực lắm, Jonathan. Khi nào cũng thế, ngay cả như khi con còn là thằng bé con cố đổ tội của mình sang cho Alec và Isabelle. Ta chỉ từng gặp duy nhất một kẻ có sức thuyết phục như con.”
Jace cảm nhận vị đồng trong miệng. “Ý mẹ là bố con chứ gì.”
“Đối với Valentine trên thế giới này chỉ có hai hạng người,” bà nói. “Những người ủng hộ Hội Kín và những người chống đối với nó. Kẻ chống đối là kẻ địch, và những kẻ ủng hộ là vũ khí. Ta từng thấy hắn biến những người bạn, kể cả vợ mình thành vũ khí cho Cause - vậy mà con muốn ta tin rằng hắn đã không làm cùng một chuyện với con đẻ của mình sao?” Bà lắc đầu. “Ta hiểu hắn quá rõ mà.” Lần đâu tiên, Maryse nhìn cậu với vẻ buồn nhiều hơn giận. “Con là mũi tên nhắm vào trái tim của Hội Clave, Jace à. Con là mũi tên của Valentine. Dù con có ý thức được điều đó hay không.”
* * *
Clary đóng cửa phòng ngủ ngăn tiếng TV inh ỏi và đi tìm Simon. Cô thấy cậu bạn trong bếp, cúi mặt xuống vòi nước đang chảy. Tay cậu ta nắm chặt lấy mặt kệ.
“Simon?” Gian bếp được sơn màu vàng tươi sáng và vui mắt, tường trang trí những bức hình bằng phấn và bút chì của Simon và chị Rebecca từ hồi tiểu học. Rebecca có tí khiếu vẽ đấy, nhìn qua là biết, nhưng mấy tranh Simon vẽ người đều trông như công tơ mét đỗ xe với mấy chỏm tóc vậy.
Lúc này Simon không ngước mắt nhìn lên, mặc dù cái vẻ căng thẳng trên hai vai của cậu cho Clary biết cậu có nghe thấy tiếng chân cô. Cô tới bên bồn rửa, nhẹ nhàng đặt tay lên lưng cậu. Cô sờ thấy những đốt xương sống cứng qua lớp áo phông cotton mỏng và tự hỏi dạo này cậu sụt cân thì phải. Nhìn thì cô không nhận ra, vì nhìn Simon giống như việc cô soi gương hàng ngày vậy - khi ngày nào bạn cũng nhìn thấy một ai đó, bạn ít khi để ý những thay đổi nho nhỏ ở vẻ ngoài. “Cậu ổn không?”
Cậu gạt mạnh cổ tay tắt nước đi. “Ừ. Mình ổn.”
Cô đặt một ngón tay lên bên cằm Simon để quay mặt cậu sang nhìn mình. Cậu đang toát mồ hôi, mái tóc đen bết vào trán, dù không khí lùa qua cửa sổ bếp mở hờ vẫn se se lạnh. “Trông cậu không ổn đâu. Có phải do bộ phim không?”
Simon không trả lời.
“Mình xin lỗi. Mình không nên cười, chỉ là...”
“Cậu không nhớ sao?” Giọng cậu bạn có vẻ khàn khàn.
“Mình...” Clary không biết nói gì. Nghĩ lại, đêm hôm đó dường như là một cuộc chạy ma ra tông mơ hồ, với máu và mồ hôi, với những bóng đen lẩn quất nơi cửa ra vào, với việc rơi qua khoảng không. Cô nhớ những gương mặt ma cà rồng trắng bệch, giống như những mảnh giấy cắt nổi bật trên nền bóng tối, và nhớ Jace đã giữ lấy cô, hoảng loạn hét vào tai cô. “Không nhiều. Chỉ nhớ mang máng.”
Simon thoáng nhìn lướt qua cô. “Cậu thấy mình có khác gì không?” cậu hỏi.
Cô ngước mắt nhìn bạn. Mắt Simon có màu cà phê đen - không đen hẳn, mà là nâu sậm không pha thêm màu xám hay nâu đỏ. Trông cậu ấy có khác không nhỉ? Ở cậu ấy có lẽ có thêm chút tự tin kể từ ngày cậu ấy giết chết Đại Quỷ Abbadon; nhưng ngoài ra còn có thêm chút thận trọng, như thể cậu ấy đang chờ đợi hay dè chừng cái gì đó. Clary cũng để ý thấy điều này ở Jace. Có lẽ đó chỉ là sự ý thức được về khả năng tử vong mà thôi, “Cậu vẫn là Simon.”
Simon khép hờ mi mắt như thể nhẹ nhõm hẳn ra, và khi mí mắt cậu hạ xuống, cô mới thấy gò má cậu góc cạnh hẳn đi như thế nào. Cậu ấy có sụt cân, cô thầm nghĩ, rồi định mở miệng nói thì Simon đã cúi xuông hôn cô.
Quá bất ngờ trước cảm giác môi bạn trên môi mình nên Clary cứng đơ người, bám chặt tay lên bồn rửa để đứng vững. Nhưng cô không đẩy Simon ra, và rõ ràng coi đó là một dấu hiệu khuyến khích nên Simon luồn tay ra sau gáy cô và hôn nồng nhiệt hơn, dùng môi mình tách mở môi cô. Môi cậu mềm mại, mềm mại hơn Jace, và bàn tay đỡ cổ cô thật ấm áp và nhẹ nhàng. Nụ hôn của cậu có vị mằn mặn của muối.
Clary nhắm mắt và trong thoáng chốc choáng váng bay bổng trong bóng tối và hơi ấm, cảm nhận những ngón tay cậu đan vào tóc mình. Khi tiếng chuông điện thoại giục giã cắt ngang cơn váng vất, cô nhảy lùi lại như thể cậu vừa đẩy cô ra, dù cậu không hề cử động. Họ nhìn chằm chằm vào nhau một lúc, trong cơn bối rối cuồng loạn, như thể hai con người đột nhiên thấy mình bị chuyển tới một vùng đất hoàn toàn xa lạ.
Simon, quay đi trước, vươn tay với điện thoại treo trên tường bên giá để gia vị. “A lô?” Giọng cậu vẫn bình thường, nhưng ngực phập phồng lên xuống rất nhanh. Cậu đưa ống nghe cho Clary “Của cậu này.”
Clary nắm điện thoại. Cô vẫn còn có thể cảm nhận nhịp tim đập thình thịch, nghe như tiếng cánh của một con côn trùng nào đó mắc kẹt dưới da cô. Là chú Luke, gọi từ bệnh viện. Có chuyện với mẹ rồi.
Cô nuốt khan. “Chú Luke à? Có phải chú không?”
“Không. Isabelle đây.”
“Isabelle?” Clary nhìn lên thấy Simon đang tựa người vào bồn rửa và quan sát mình. Sắc hồng trên má cậu đã nhạt dần. “Vì sao cậu - ý tớ là, có chuyện gì thế?”
Có tiếng nấc trong giọng nói cô gái, như thể cô ta đang khóc vậy. “Jace có ở đó không?”
Clary thực sự giơ điện thoại ra nhìn trước khi áp ống nghe vào tai. “Jace ư? Không. Sao anh ấy lại ở đây?”
Tiếng Isabelle trả lời qua hơi thở vang dội qua điện thoại nghe như tiếng thở dốc. “Vấn đề là... anh ấy đi rồi.”