5.
Ngóng sao chờ trăng, cuối cùng cũng trôi qua được một năm.
Hắn đã dùng gậy chống ngày một thuần thục, cũng học được từ A Sửu và đám ăn mày cách nhìn sắc mặt người khác, làm sao chọn được mục tiêu dễ được bố thí nhất. Dù vẫn là khi đói khi no, nhưng chỉ cần không chết đói là tốt rồi.
Điều duy nhất chống đỡ tinh thần hắn mỗi ngày, là tưởng tượng có một ngày hắn tu luyện thành loài rắn lợi hại nhất trong thiên địa, đến cả trời cũng không dám động đến hắn, sau đó đường đường chính chính leo lên thiên giới, tóm cổ Lôi Thần rồi tát cho mấy cái bạt tai! Chỉ nghĩ đến cảnh hả giận đó thôi cũng khiến hắn đang ngủ cũng phải bật cười tỉnh giấc.
Nhưng tỉnh dậy rồi, trước mắt vẫn chỉ là một cái bát sứt mẻ.
A Sửu vẫn là người xin được cơm và tiền giỏi nhất trong đám ăn mày. Ngoài cơ thể tàn tật dễ khiến người đồng tình, đầu óc nàng rất lanh lợi, miệng mồm cũng ngọt ngào. Đôi khi nàng còn cố tình vẽ ria mèo lên mặt, ở nơi đông người diễn trò đi tay lộn ngược, lăn lộn mô phỏng loài mèo để thu hút sự chú ý. Có người chán ghét, có người bật cười, có người lắc đầu thở dài, cũng có người bỏ vào bát nàng vài đồng tiền lẻ. Đôi khi để được bố thí nhiều hơn, những người ăn mày khác cũng sẽ nhập cuộc, có người đóng vai rùa, có người làm trâu bò heo chó, dù sao thì giả làm thứ không phải người mới là cách hiệu quả nhất để thu hút sự chú ý, cũng dễ được bố thí nhiều hơn.
Hắn thuận miệng nói: “Trên đời này vẫn có người tốt.”
Nhưng A Sửu lại đáp: “Người qua lại chưa chắc ai cũng có cuộc sống tốt đẹp, nhưng khi đứng trước một đám ăn mày đang cố hết sức nịnh nọt mình, ít nhất họ sẽ cảm thấy cuộc đời họ không tệ đến thế. Nên điều đó chưa chắc là lòng tốt đơn thuần, có khi chỉ là cảm giác ưu việt được giấu kín thôi. Con người mà, phải khiến lòng mình dễ chịu một chút mới có thể chịu đựng được những ngày tháng không dễ chịu.”
Lúc nàng cười toe toét nói ra những lời ấy, hắn có phần kinh ngạc. Thì ra nụ cười và ánh nắng trên gương mặt đứa trẻ mới mười tám tuổi này… chỉ là biểu cảm ở bề ngoài.
Hắn chưa bao giờ tham gia vào mấy trò cố ý lấy lòng người qua đường đó, nhưng để trả ơn vì đã dạy hắn biết chữ, A Sửu luôn hào phóng chia một phần đồ ăn hoặc vật phẩm mình nhận được cho hắn. Vì vậy cuộc sống khốn khổ này… miễn cưỡng vẫn có thể cầm cự được.
Hắn cũng ngày càng quen ở bên đứa trẻ này, đôi khi thậm chí còn mong A Sửu có thể sống đến sáu mươi bảy mươi tuổi, nói chung đừng chết trước khi hắn được "thả khỏi ngục" là được. Nếu không đến những đêm giật mình tỉnh giấc, ngay cả một người bạn tám nhảm giết thời gian cũng không có, chẳng phải càng khó chịu sao?
Phải một thời gian dài sau hắn mới hiểu tại sao bản thân chỉ muốn chúc nàng sống lâu trăm tuổi, và vì sao trong những khoảng thời gian vô vị buồn bã nhất, hắn cũng chỉ muốn nhìn thấy gương mặt nàng. Có lẽ là bởi so với những người "đồng nghiệp" khác thường xuyên tự trách tự giày vò, thậm chí đau khổ đến phát điên, thì đứa trẻ này luôn có cách để bản thân trông không quá thê thảm. Biết rõ mình đang bị vùi trong bùn lầy, thậm chí suốt đời không thể thoát ra được, mà vẫn còn lòng dạ nặn chỗ bùn nhơ ấy thành mặt trời mặt trăng, ngôi sao hoa lá, bày ra trước mắt tự mình giải sầu.
Hắn nghĩ, chuyện ấy đến một kẻ từng sống tám trăm năm như hắn cũng làm không nổi. Nếu là hắn, có khi sẽ ôm tâm trạng “chết chắc rồi” mà cho nổ tung cái vũng bùn thối tha không chút hy vọng này ra thành từng mảnh vụn.
Có một lần, một quả cầu mây nhỏ buộc chuông từ tay một đứa trẻ nghịch ngợm rơi lăn xuống, dừng lại ngay bên chân họ. A Sửu vô thức nhặt quả cầu lên định trả lại, nhưng tay đứa trẻ còn chưa kịp đưa ra thì đã bị mẹ nó kéo đi, mắng: “Bị ăn mày chạm vào rồi, bẩn lắm, không được lấy nữa. Mẹ mua cho cái mới.”
Đứa trẻ vừa khóc vừa bị kéo đi.
Đối với A Sửu, loại khinh miệt như vậy đã bình thường như ăn cơm uống nước. Chỉ có hắn, kẻ “tân binh” mới vào nghề, là vẫn cảm thấy chối tai. Hắn nhìn theo bóng lưng người phụ nữ kia mà trừng mắt khinh bỉ mấy lần.
A Sửu rất thích quả cầu mây đó, cầm trong tay tung qua tung lại, kêu leng keng không ngớt, miệng lẩm bẩm: “Hồi nhỏ cháu thích nhất là chơi cái này… nhưng khi đó còn có chân, đá qua đá lại thật vui.”
Suýt nữa thì hắn đã quên, thì ra nàng cũng từng có một tuổi thơ. Vừa định mở miệng hỏi chuyện lúc nhỏ của nàng, thì nàng đã ném quả cầu cho hắn, cười híp mắt nói tặng hắn làm quà rồi: “Dù không đá được, nhưng treo lên gậy làm đồ trang trí cũng đẹp lắm. Dù đi tới đâu, chỉ cần gió vừa thổi qua, nghe tiếng chuông kêu leng keng thì sẽ biết Phúc Tinh thúc tới xin ăn rồi.”
Nói xong nàng thu dọn đồ đạc, bảo hôm nay trời đẹp, nàng ra ngoài đi dạo xem có nhặt được thứ gì hay không.
Nàng nhất định đã có một quá khứ chẳng vui vẻ gì… Nhưng nói vậy chẳng khác nào nói thừa. Nếu tuổi thơ hạnh phúc, cha mẹ bình an, sao nàng lại phải lưu lạc đến nước này? Nhìn bóng dáng nàng khuất dần trong dòng người buổi trưa, quả cầu trong tay hắn không cẩn thận lăn xuống đất. Chưa kịp nhặt lên thì một con chó hoang từ đâu xông tới, ngậm lấy quả cầu rồi chạy mất.
Đã quá quen với con chó này rồi, nó rất hay quanh quẩn gần “nhà” của hắn và A Sửu. Dù bọn họ dọn đi mấy lần, nó cũng có cách lần theo. Mỗi lần nó đến, A Sửu đều lấy một ít khẩu phần ít ỏi của mình chia cho nó. Có lẽ nó biết trong mắt những ăn mày khác, nó chỉ là một món ăn, chỉ có A Sửu là chưa từng nghĩ đến chuyện ăn thịt nó.
Hắn cũng chưa từng nghĩ vậy, vì loài rắn như hắn vốn không thích ăn thịt chó.
Không ăn nó thì phải chấp nhận bị nó ăn trộm. Mỗi khi A Sửu không có nhà, bát cơm của hắn sẽ trở thành món khoái khẩu của nó. Tấm lòng hiền lành của hắn chỉ đổi lấy việc bị nó ăn trộm rồi tiểu bậy, mà hắn cũng chẳng biết làm sao để cho nó hiểu rằng hắn gần như không có áo quần để thay giặt, mà nước tiểu của nó thì hôi muốn ngạt thở.
Lại một cơn gió thổi qua, những chiếc lá vàng xanh lẫn lộn lại rơi đầy, hắn kiên nhẫn nhặt từng chiếc lên rồi dọn dẹp sạch sẽ. Trong lòng nghĩ, điểm tốt nhất của mùa thu là có nhiều lá rụng, đặc biệt lá của cái cây này rất to, dùng để ghi chép chắc chắn rất tiện. Chả trách A Sửu từng nói: ở nhiều nơi như thế, nơi nàng thích nhất là chỗ này.
Từ sau khi trở thành “thầy dạy chữ” của A Sửu, thời gian ngoài việc đi xin ăn, hắn gần như đều dành để nhặt lá cây. Sau khi lau sạch, hắn chất chúng thành từng xấp dày. Đây là nhiệm vụ mà A Sửu giao cho hắn.
Trên thị trường, bất kỳ thứ gì có thể dùng để viết hay vẽ thì bọn họ đều không có tiền mua. Còn chuyện chặt tre làm thành thẻ tre thì lại quá phiền phức. Vật dụng dễ kiếm và thuận tiện nhất là lá cây. A Sửu gọt nhọn những que tre, dùng một chút lực vừa đủ để không đâm thủng lá nhưng vẫn đủ để mỗi nét khắc hiện rõ trên bề mặt. Nàng làm rất thành thạo. Trong chiếc túi vải to cũ kỹ mà nàng luôn đeo bên người, nhiều nhất là que tre và lá cây, đó là bảo bối của nàng.
Hắn cứ tưởng nàng chỉ dùng lá để luyện viết chữ, mãi đến gần đây, hắn vô tình phát hiện ra, có vẻ như nàng không chỉ đơn thuần là đang tập viết. Mấy chiếc lá “viết” kín nội dung trong lúc nàng lục lọi đồ đạc chẳng may rơi ra, bay đến trước mặt hắn. Hắn tiện tay nhặt lên, phát hiện ngoài chữ viết, còn có cả những hình vẽ mà hắn không thể hiểu nổi.
Hắn tò mò hỏi đó là gì, trông không giống luyện chữ cũng chẳng phải tranh vẽ. Nàng do dự một lúc, rồi nói vì hắn là “ông chú hay suy nghĩ về hướng đi của phân chim” nên sẽ tiết lộ cho hắn một bí mật.
Tuy không hiểu sao nàng cứ ám ảnh với phân chim như vậy, nhưng hắn vẫn chăm chú lắng nghe. Những ngày tháng khổ sở mà rảnh rỗi như thế này rất cần một vài bí mật để thêm phần thú vị.
“Đây là bản vẽ thiết kế của cháu.” Nàng ghé sát lại, thì thào nói: “Cháu đang chế tạo một thứ rất lợi hại.”
“Thứ gì?”
“Đôi cánh!”
“Ờ... là để bay à?”
“Tất nhiên! Nhưng mà trước khi hoàn thành, thúc không được kể với ai đâu.”
“Ta có nói người ta cũng không tin.”
“Thúc cũng không tin đúng không?”
“Ngươi hôm nay chưa ăn gì à?”
“Thúc đúng là không tin mà...”
Hôm đó, dưới sự dẫn đường của A Sửu, hắn dùng thân thể này bước đi quãng đường dài nhất từ trước đến nay. Từ trong thành đến vùng ngoại ô, vòng qua một hồ nước, rồi men theo con đường dốc dẫn lên núi. Đến chạng vạng, hắn đứng trước một hang đá nhỏ không mấy bắt mắt giữa vùng núi hoang.
Hang khá cạn, ánh sáng đầy đủ. Bên trong chất đầy những mảnh gỗ và tre vụn, nhìn bừa bộn. Một đống dụng cụ trông như đồ nghề mộc, rõ ràng là được lượm lặt từng món, xếp bên cạnh một cái “giá” không thể nhận ra được là vật gì. Nhưng gây chấn động nhất là những dòng chữ và hình vẽ dày đặc trên vách đá. Trong phạm vi mà nàng với tay tới được, nàng đã dùng đá bên ngoài khắc lại tất cả những gì nàng cho là quan trọng, dày đặc và ngay ngắn.
Hắn ngây người nhìn rất lâu, cuối cùng vẫn không hiểu nổi, nhất là trong đó còn có những ký hiệu kỳ quái do nàng tự sáng tạo.
“Phúc Tinh thúc, thúc là người thứ hai đến được đây đó.” Nàng nói từ phía sau hắn.
“Ngươi...” Hắn chỉ vào cái giá còn chưa thành hình kia: “Đó là bí mật của ngươi à?”
Nàng bước đến bên cái thứ rộng chừng ba bốn thước kia, v**t v* nó như bảo vật: “Thúc đến sớm một năm, thì đến cái giá này cũng chưa có đâu.”
Hắn bước đến bên nàng, nhìn kỹ hơn. Có vẻ là một thứ được ghép từ gỗ đã mài nhẵn và các mảnh tre. Tuy chưa thành hình, nhưng riêng việc cắt, mài, khoan đã là công việc cực kỳ tốn sức và mất thời gian.
“Cháu tính rồi, thêm một năm nữa là gần xong rồi.” Nàng nghiêm túc nói: “Gỗ dùng để cố định thì mỗi lỗ khoan đều không được sai, các mảnh tre làm cánh phải được gọt đều cả về kích thước và độ dày, ghép vào nhau mới chắc chắn. Tay chân cháu chậm, chứ nếu nhanh thì nửa năm là đủ.”
“Ngươi rốt cuộc đang làm gì thế?” Hắn nhìn đống lộn xộn kia mà vẫn không hiểu được gì.
Nàng kéo hắn đến trước một vách đá, chỉ vào hình vẽ lớn nhất và phức tạp nhất trên đó.
Đó là... một đôi cánh với cấu trúc cực kỳ tinh vi?! Trong hình, nó trông vô cùng hoành tráng, mỗi bộ phận đều được thiết kế chuẩn xác và hoàn mỹ.
“Nếu làm thành công, những người giống như thúc cháu mình đều có thể dùng được.” Nàng cười, chỉ vào đôi chân của cả hai: “Đây là đôi cánh có thể đeo lên người. Có nó, dù không có chân cũng có thể đến được những nơi vốn chẳng thể đi. Mà thúc nhìn chỗ này này!” Nàng không quan tâm hắn có hiểu không, chỉ vào một phần trong bản vẽ và nói đầy hào hứng: “Nó không chỉ có thể bay, mà còn dùng làm chỗ dựa khi đi lại. Không muốn bay thì gập chỗ này xuống, nó sẽ là đôi chân của chúng ta.”
Tất nhiên hắn chẳng hiểu gì về những cái gọi là “nguyên lý” mà nàng thao thao bất tuyệt.
Nhưng điều khiến hắn ngạc nhiên là việc nàng có thể vẽ ra một bản thiết kế trông thực sự khá giống thật, lại còn tự mình dựng nên một cái giá nhìn qua đúng là khá giống mô hình trong hình vẽ… Phần lớn người đời chỉ dám mơ mộng trong đầu, rất hiếm ai dám xả thân thực hiện những ý tưởng không có nền tảng như vậy.
Hắn không thể tin nổi: “Ngươi đến viết chữ còn phải nhờ ta dạy, mà lại có thể vẽ ra bản thiết kế này?!”
“Cháu đã bảo rồi, trí nhớ cháu cực kỳ tốt mà.” Nàng cười đắc ý.
“Ngươi nhớ từ đâu ra vậy?” Hắn quá đỗi tò mò.
Nàng im lặng một lúc, nụ cười như thể hàn chết trên mặt nàng hiếm hoi biến mất một thoáng.
“Nhà cháu.” Nàng nhìn những nét khắc trên vách đá do chính tay mình vẽ nên, rồi lại quen miệng nở nụ cười: “Có một năm mùa đông lạnh khủng khiếp, trong nhà hết củi đốt, mẹ ta không biết từ đâu ôm ra một đống thẻ tre và da thú, tháo ra đem đốt. Cháu cũng bị gọi ra giúp một tay.
Cháu hỏi bà mấy thứ đó là gì, bà nói là đồ do ông ngoại để lại, vừa vô dụng vừa chiếm chỗ, đốt đi là vừa. Khi đó ta còn nhỏ, chỉ thấy trên đó viết đầy chữ, trong một cuộn da thú còn toàn hình vẽ, bàn ghế, ngựa gỗ, bò gỗ, chim gỗ, rất thú vị, ta xem đến nhập thần, quên béng là phải bỏ vào lò. Mẹ tưởng cháu lười, còn mắng cháu một trận, định giật lấy đem đốt, may mà cháu chạy nhanh, mới giữ lại được cuộn da thú đó. Về sau cháu luôn giấu nó dưới gối, mỗi đêm trước khi ngủ đều phải lấy ra ngắm một hồi lâu.”
“Ông ngoại ngươi làm nghề gì?” Hắn bỗng nhận ra đây là lần đầu tiên A Sửu nhắc đến người nhà mình với hắn.
Nàng lắc đầu: “Không biết. Họ chưa từng nhắc đến. Lúc cháu sinh ra thì ông ấy đã mất từ lâu rồi.”
Nếu nàng nói thật, thì cuộn da thú đó có lẽ thực sự là báu vật. Hắn lại nghiêm túc quan sát từng thứ trên vách đá, rồi hỏi: “Thế cuộn da thú đó ngươi còn giữ không? Ta chưa từng thấy ngươi lấy ra.”
Nàng nhún vai đầy tiếc nuối: “Từ lâu đã bị thiêu mất trong một trận hỏa hoạn rồi.”
Nàng thở dài: “Chắc đó là số phận của nó.”
Nghe có vẻ chán nản, nhưng hắn lại nói: “Ít ra ngươi còn nhớ nội dung của nó, thế nên cũng không hẳn là bị thiêu chết.”
Nàng bật cười, nghiêng đầu nhìn hắn chằm chằm một lúc lâu: “Không sai, đúng là bạn tốt tri kỷ của ta mà, Phúc Tinh thúc à. Thúc nói chuyện thật khác với người khác, thậm chí còn khác với thúc trước kia. Là đêm đó bị cảm sốt, nên óc thúc mới ‘cháy’ cho tốt hơn hả?”
Là cháy chết thật rồi… đồ ngốc.
Hắn hừ một tiếng mũi: “Ngươi ngàn vạn lần đừng dắt người khác tới đây, kẻo họ tưởng đầu óc ngươi bị cháy hỏng.”
“Ừ, chỉ có thúc sẽ không nghĩ như vậy, chỉ có thúc mới tin rằng cháu từng thực sự có được một món đồ lợi hại đến từ nguồn gốc không rõ ràng.” Nàng đắc ý vì con mắt nhìn người của mình: “Phúc Tinh thúc, hay thúc giúp ta đi. Có thúc làm trợ thủ, chắc chắn sẽ nhanh hơn nhiều!”
“Hả? Dạy ngươi biết chữ đã đủ mệt rồi, còn muốn ta…” Hắn chỉ cái khung gỗ nguệch ngoạc kia: “Giúp ngươi làm cái thứ ngốc nghếch này à?”
“Thúc và cháu đều nhìn ra rồi, thứ vẽ trên đó là đồ tốt.” Nàng cười: “Chỉ cần làm theo các bước ta nhớ trong da thú, chắc chắn không sai! Cháu đã dồn toàn bộ trí óc và thể lực vào chuyện này rồi đó!”
“Chỉ vì ăn có chút xíu đồ ngươi chia, mà ta phải làm bao nhiêu việc như thế? Nhìn thế nào cũng là lỗ vốn mà…”
Hắn làm ra vẻ chê bai, nhưng trong lòng lại dao động dữ dội, chẳng lẽ bữa trước ăn no quá, nên mới nảy ra ý định cùng nàng làm cái chuyện điên rồ này? Hay tất cả những gì nàng đã làm được, sớm đã âm thầm đập vào mắt hắn rồi?
Nàng thực sự đang dùng toàn bộ bản thân để hoàn thành một nguyện vọng không ai tin, nghe cứ như một giấc mơ không thực.
Hắn chợt nhớ đến người thanh niên đã chết ngay trước mặt mình, cái sự cố chấp với trái Bất Tử kia, chẳng phải cũng là một nguyện vọng không được tin tưởng, căn bản không thể thực hiện được hay sao?
Ánh chiều tà từ từ tràn vào hang động, thế giới đen trắng xám dần rút đi trong sắc vàng ấm áp, hai bóng người, một lớn một nhỏ, nghiêm túc đứng trước một giấc mơ chưa thành hình, bàn bạc xem bước tiếp theo nên chặt tre hay khoan lỗ trên thanh gỗ…
Những ngày tháng mục nát như vũng nước chết, lại bị một hòn đá nhỏ không ngờ tới làm bắn lên một đóa bọt nước sinh động.
Từ buổi chiều hôm đó, hắn dường như cũng không còn ghét bỏ cái thân xác vô dụng này đến vậy nữa.