5.
Chớp mắt đã ba năm trôi qua.
Nó có thể điều chỉnh hình thể mình một cách chính xác, hiện giờ là một bé gái bảy tám tuổi tiêu chuẩn.
Trong ba năm ấy, ngoại trừ lúc những người khác ra ngoài kiếm tiền thì nó ở lại trông nhà, còn lại là được họ tận tình chỉ dạy đủ loại pháp thuật kỳ lạ.
Biến đá thành vàng, rải đậu hóa binh, ngự kiếm bay trời… những thứ đó nó đều không biết.
Nhưng nó biết điều khiển chảo và thìa từ xa để xào nấu, biết ủ loại rượu ngọt có thể khiến người ta một đêm trở nên xinh đẹp, biết nháy mắt là khiến khô thịt trong bát chó của Hồ Tiểu Nhị bay vào bát Hồ Đại Lực, khiến Hồ Tiểu Nhị đang ngồi ngay ngắn phải gãi đầu gãi tai không hiểu chuyện gì xảy ra.
Nó còn giỏi hơn cả Tiểu Vương và Nam Cung trong thuật phong ấn yêu, có lẽ vì nó có linh tính hơn, thời gian luyện tập cũng lâu hơn.
Về sau, ngay cả Tiểu Vương và Nam Cung cũng đều bị nó đánh bại.
Bọn họ phong ấn nó không được, nó thì có thể dễ dàng phong ấn họ lên cây hoặc dính vào vách hồ, lại còn nghịch ngợm chọc lét họ, đến khi Tiểu Vương chịu dẫn nó ra chợ mua áo quần mới, hoặc Nam Cung đồng ý nấu món nó thích ăn thì mới chịu thả người.
Sự tiến bộ của nó, ai nấy đều nhìn thấy, trong lòng đều rất mừng rỡ.
Vì vậy trong khoảng thời gian ấy, đạo quán Tùy Ý thường xuyên tổ chức đủ loại lễ mừng, còn nó thì đã quen với dáng vẻ cười đùa ầm ĩ và những bất ngờ không thể tưởng tượng nổi của đám người này.
Điều quan trọng nhất là nó đã quen với niềm vui và thiện ý tràn ngập khắp đạo quán Tùy Ý.
Từ việc ban đầu chỉ biết nhìn bọn họ lăng xăng, đến khi chính mình cũng lăng xăng cùng bọn họ, đó là con đường dài nhất nó từng đi trong mấy trăm năm cuộc đời.
Nó không nhớ rõ bắt đầu từ khi nào, mỗi sáng tỉnh dậy đều thấy ánh nắng xiên nghiêng vào phòng. Dù hôm ấy trời có âm u thì cũng vẫn như vậy.
Nó vươn vai, rời giường, trước khi gấp chăn thì phải dời Hồ Tiểu Nhị đang ngủ khò khò đè lên chăn sang một bên.
Trước kia nó hay chiếm chỗ ngủ của hắn, giờ thì Hồ Tiểu Nhị đã lớn, ngày nào cũng ngủ trên giường nó.
Rồi nó gọi Hồ Bất Sầu vẫn còn đang nói mớ ở bên kia dậy, vừa rửa mặt súc miệng vừa ôn lại những điều hôm qua Hồ Đại Lực dạy trong đầu.
Ra khỏi cửa, giẫm lên ánh sáng sớm nơi hành lang đi tới căn bếp thơm lừng mùi cháo, Nam Cung lúc nào cũng là người dậy sớm nhất, vừa cầm muôi múc cháo nóng vào từng bát vừa lẩm bẩm nói phải tưới cây nào, bắt sâu cho chậu nào, hay nói vài lời ngọt ngào với quả bí chưa chịu lớn.
Tiểu Vương thì nhất định đang soi gương bên cạnh, sợ mặt chưa rửa sạch sẽ làm hỏng “vẻ đẹp khuynh thành” của mình.
Đợi mọi người tập hợp đủ, Hồ Đại Lực sẽ dẫn mọi người luyện một bài quyền dưỡng sinh do hắn tự sáng tạo.
Đánh xong thì được ăn sáng.
Trên bàn ăn lúc nào cũng rộn ràng, mọi người ríu rít bàn chuyện vui hôm qua và kế hoạch hôm nay.
Nó được bao bọc trong bầu không khí như vậy, ngoài việc ăn to nói lớn ra thì chẳng thể làm gì khác.
Những ngày như thế trở thành cuộc sống thường nhật, thỉnh thoảng nó lại nghĩ, nếu số mệnh nó là một thứ bị khiếm khuyết từ trong trứng, vậy thì, nó thật sự đã dùng vận rủi tệ hại nhất để gặp được những người tốt đẹp nhất.
Nhưng nó không dám nói suy nghĩ này với bất kỳ ai trong số họ.
Còn về Ngưu tẩu, đã rất lâu rất lâu rồi không đến đạo quán Tùy Ý.
Táo năm ngoái là nhờ người khác mang tới, năm nay thì chưa thấy bóng dáng đâu.
Cuối năm ngoái, Hồ Bất Sầu từng đến thăm nàng ấy, khi về thì nói rằng tên thợ đá kia tiếng tăm càng lúc càng lớn, đơn đặt hàng ngày càng nhiều, đến nỗi không làm xuể.
Ngưu tẩu thì vừa phải giúp việc, vừa phải lo toan việc nhà, lại còn trông hai đứa con nhỏ, bận tối mắt tối mũi, căn bản không có thời gian chuyện trò với ai cả.
Nghe vậy, mọi người đành tạm gác lại kế hoạch sang năm cùng đi thăm Ngưu tẩu, bảo là chờ khi nào tỷ ấy rảnh hơn thì sẽ đi.
Nó nhìn món quà đã chuẩn bị cho Ngưu tẩu, một cây bút do chính nó làm.
Dù thân tre là do Hồ Bất Náo chặt, lông ngựa là do Hồ Bất Nan tìm về, nhưng những thứ còn lại đều là do nó tự tay làm.
Nó còn khắc lên thân bút bốn chữ rất mộc mạc: “Mộng tưởng thành chân.” (Ước mơ thành hiện thực)
Nó mãi mãi không quên bóng dáng Ngưu tẩu ngồi viết vẽ trong thư phòng, cũng như ánh sáng dịu dàng phủ lên khuôn mặt người phụ nữ bình thường ấy.
Cây bút này, coi như là món quà hồi đáp cho bao nhiêu quả táo nó đã ăn, và cặp dây cột tóc màu đỏ năm đó.
Nàng ấy không nhận sách, nhưng một cây bút thì chắc sẽ nhận.
Về sau, đạo quán Tùy Ý cũng bắt đầu bận rộn.
Tiền kiếm được trước đó đã tiêu gần hết, mà rắc rối là thế đạo ngày càng loạn, triều đình không yên, chiến sự liên miên.
Dân thường khổ sở nhất, có thể no bụng giữ mạng đã là chuyện khó nhất rồi, nói gì đến chuyện làm giàu.
Trước kia còn có thể tham gia “Thái Bình Hữu Hội” kiếm ít lương thực, năm nay đến hội ấy cũng bị hủy.
Loạn thế yêu nghiệt nhiều, các đạo hữu đều bận trừ tà cứu thế, trị bệnh cứu người, không còn thời gian kết giao so tài.
May là đạo quán Tùy Ý nằm nơi hẻo lánh, tạm thời chưa bị chiến loạn làm phiền, dựa vào nghề cũ thì Hồ Đại Lực bọn họ vẫn còn kiếm được ít tiền, tuy không nhiều nhưng đủ ăn.
Dạo gần đây, ngay cả nó cũng bị kéo vào nhóm ra ngoài kiếm tiền.
Lúc đầu nó không tin nổi, quen với việc trông nhà rồi, thường ngày hiếm khi bước ra khỏi cửa đạo quán Tùy Ý, hơn nữa nó không biết đặt tên, không biết xem phong thủy, không biết trị thương… mà hình như bọn họ kiếm tiền đều dựa vào mấy thứ đó?
Huống hồ tới giờ nó vẫn chưa triệu hồi được Nguyệt Đồng...
Vì vậy khi Hồ Đại Lực gọi nó theo, nó còn tưởng hắn uống say.
Một kẻ chỉ biết chút mánh khóe sơ cấp như Hữu Khuyết nó, không kéo chân sau là may lắm rồi, giúp được gì cho bọn họ chứ?
Nhưng Hồ Đại Lực chỉ cười tít mắt mà nói: “Bản lĩnh không phân lớn nhỏ, nhất định sẽ có lúc dùng được.”
Bản lĩnh lớn nhất của con, chỉ có một mà thôi.
Kết quả là, chuyến hành trình này lại dễ dàng hơn nó tưởng rất nhiều. Cả nhóm người cứ như đang dạo chơi trong “Đạo quán Tùy Ý”, thong dong nhàn tản, đi khắp các làng mạc thị trấn, khi thì nhận lời nhờ vả, khi lại chủ động ra tay. Dù sao cũng đã giương cao lá cờ “Đạo quán Tùy Ý”, thế nào cũng có người cần giúp đỡ tìm đến. Tất nhiên, cũng có kẻ chướng mắt, mắng họ giả thần giả quỷ, nhưng họ cũng chẳng để tâm, chỉ lo làm tốt chuyện của mình:
Đặt tên thì nhất định phải không để sai sót;
Xem phong thủy nhà cửa thì phải thật tỉ mỉ, ngay cả vị trí chuồng chó cũng không được bỏ qua;
Gặp người nghèo bệnh tật thì cho thuốc tặng áo, thậm chí bù thêm tiền cũng là chuyện thường.
Cho nên thường là chỗ này kiếm được một ít, chỗ kia lại bù ra cả đống, cứ thế khiến Hồ Bất Nan phụ trách sổ sách đau đầu không thôi. Hắn vừa càu nhàu “về sau tuyệt đối không được bù lỗ nữa”, nhưng đến ngày hôm sau, cả bọn lại quên sạch, cần bù vẫn bù như thường...
May mà, số họ chưa tuyệt. Trong một lần vô tình giúp được một gia đình phú hộ bắt được kẻ trộm châu báu trong nhà, họ được hậu tạ một khoản hậu hĩnh. Mà người có công lớn nhất lần này là nó.
Lúc chủ nhà đang dịu dàng khuyên nhủ các nghi phạm rằng chỉ cần trả lại báu vật thì sẽ không truy cứu nữa, thì nó lặng lẽ chỉ vào một người trong số đó, khẽ nói với Hồ Đại Lực: “Hắn là kẻ trộm.”
Hồ Đại Lực hỏi: “Con nhìn ra... người này thiếu tiền nhất sao?”
Nó thở dài: “Sư phụ, chúng ta cũng thiếu tiền, chẳng lẽ vì thiếu tiền nên đi trộm của người khác sao?”
Hồ Đại Lực vuốt râu, cười: “Tiểu Như Ý biết phản bác rồi, tốt lắm.”
Biết cười rồi, biết học cái mới rồi, biết nghịch ngợm, biết phản bác, cũng bắt đầu xem bản thân như một người bình thường, thậm chí còn là một người không tệ chút nào.
Đây có lẽ mới là bản lĩnh lớn nhất mà nó học được từ đạo quán Tùy Ý, đó là tự nhiên học được.
Nhưng dù được khen, nó vẫn thấy ngượng. Nó lại nói với Hồ Đại Lực: “Người đó, khí hư hồn bạc.”
“Cả cái này muội cũng nhìn ra được à?” Hồ Bất Náo và mọi người bên cạnh đều không nhịn được mà giơ ngón tay cái khen ngợi nó.
Kết quả mà nó chỉ ra tất nhiên là chính xác.
Hôm ấy, sau khi nhận được thù lao, họ kéo nhau đến quán ăn ngon nhất trong thị trấn, cuối cùng cũng được ăn món thịt quay và gà nướng mà đã lâu chưa được đụng tới. Không ai bảo ai, cả hai cái đùi gà to đều được gắp vào bát của nó, ai cũng nói: “Tiểu Như Ý nhà ta ra dáng rồi, chúng ta cũng được thơm lây!”
Không có giấy màu sặc sỡ hay nghi lễ rùm beng gì, nhưng không khí lại vô cùng rộn ràng. Hồ Bất Nan tranh thủ lúc ngà ngà say thổi sáo, Hồ Bất Náo và Hồ Bất Sầu thì người đập tay, người dùng đũa gõ vào bát làm nhạc đệm. Tiểu Vương thì cất giọng hát một khúc nhạc tự sáng tác:
Suối nhỏ uốn quanh, cô nương làm rơi giỏ trúc,
Khóc mãi khóc hoài, ướt cả vạt váy.
Cá con lượn lờ, quay mấy vòng tròn,
Giỏ trúc trôi đi lại về trước mặt,
Cá con vẫy đuôi, cô nương mỉm cười.
Trời đã tối rồi, về nhà thôi, mai gặp lại nhé.
Nó vốn không có khiếu âm nhạc, nhưng bài hát kỳ quặc này lại khiến nó chỉ nghe một lần là nhớ ngay, vì bọn họ hát quá buồn cười. Nhất là Hồ Bất Nan còn bắt chước động tác Tiểu Vương dưới nước, giả làm cá lượn qua lượn lại. Hồ Đại Lực thì hoàn toàn chẳng ra dáng sư phụ, không chỉ nói Hồ Bất Nan lượn không giống, mà còn đích thân làm mẫu. Hắn lượn nửa ngày, nhưng lại bị cả bàn đánh giá một câu: “Xấu chết đi được...”
Hồ Bất Náo còn phụ họa: “Không giống cá mà giống một con lươn già bị thoái hóa đốt sống cổ.”
Thế là bị Hồ Đại Lực cho ăn đòn.
Bàn ăn thành chiến trường, thầy trò đánh nhau loạn xạ, khiến nó cười đến suýt sặc miếng thịt gà trong miệng.
Hôm ấy, nó chợt thấy, điều tuyệt vời nhất trên đời để ăn mừng, là có đám người này ở bên.
Họ là người của đạo quán Tùy Ý.
Cũng là linh hồn của đạo quán Tùy Ý.
Sau khi kiếm được đủ khẩu phần ăn cho nửa năm, họ quay về đạo quán Tùy Ý. Người ở lại là Nam Cung vui vẻ báo tin: dưa chuột trong vườn đã trúng mùa, sen trong ao sen cũng nở rồi, còn có cả một bông sen song sinh, điềm lành! Không uổng công hắn ngày ngày tốn nước miếng khen chúng thông minh xinh đẹp.
Nhìn bộ dạng vui mừng hớn hở của hắn, ai cũng cảm thấy như thể mấy thứ kia lớn nhanh đều là nhờ hắn khen vậy. Nào hay mỗi hoa mỗi lá, từng cọng rau trái dưa trong đạo quán Tùy Ý, đều là do Nam Cung ngày đêm chăm sóc tỉ mỉ mà nên.
Có thể hắn là người không mấy nổi bật trong đạo quán, ngày ngày chỉ giống một nông dân bình thường, bận bịu trong vườn rau, ao hoa. Nhưng chỉ cần hắn còn ở đây, thì dù không kiếm được tiền, về đến nhà cũng vẫn sẽ có cơm ăn, không sợ đói.
Nó lấy ra một gói hạt giống tặng Nam Cung, nói: hoa nở ra trông như bươm bướm, vừa đẹp, quả lại ăn được, nghe nói giòn và ngọt, là quà nó mang về tặng, hy vọng hắn thích.
Nam Cung tất nhiên là thích, lập tức đi tìm chỗ gieo trồng, vừa trồng vừa lẩm bẩm đủ kiểu lời hay ý đẹp như tụng kinh, khiến ai nấy đều bật cười.
Mọi người đều mong chờ cảnh tượng khi hoa nở. Đến lúc đó nhất định sẽ lại tổ chức một bữa ăn mừng linh đình, họ thậm chí còn bàn bạc xem hôm ấy ai sẽ hát, ai sẽ đánh nhạc, ai sẽ phụ trách hóa trang cho Nam Cung thành một bông hoa, để hắn múa một điệu dưới trăng, phong hoa tuyệt thế!
Nó thậm chí đã tưởng tượng ra cảnh tượng ấy, rồi bật cười trước cả khi nó xảy ra.
Cuộc sống trong đạo quán Tùy Ý là như vậy: không phân lớn bé, không có phiền muộn, không phải chịu đựng từng ngày lê thê, mà luôn cảm thấy thời gian trôi rất nhanh.
Thế nhưng, khi còn chưa kịp chờ đến lúc hoa Hồ Điệp nở, họ lại đón nhận một tin xấu.
Ngưu tẩu qua đời rồi.
Đó là một tai nạn.
Trời đã trở lạnh, Ngưu tẩu định may quần áo mới cho cả nhà. Khi ra chợ mua vải, nàng gặp phải một con ngựa bị kinh sợ, tránh không kịp, bị đụng trúng chỗ hiểm. Nghe nói nàng mất ngay tại chỗ, không kịp để lại một lời nào.
Khi họ nghe tin và vội vàng đến nhà nàng thì Ngưu tẩu đã được chôn cất nhiều ngày.
Người thợ đá vẫn bận rộn như trước, qua loa tiếp đón họ, nói vài câu khách sáo cảm ơn, rồi sai người đưa họ ra mộ bái tế.
Nó đứng trước nấm mồ mới giữa gió lạnh, không khóc, cũng chẳng nói gì, thậm chí viền mắt cũng không hồng.
Chỉ lặng lẽ chôn cây bút “Mộng tưởng thành chân” mà nó tự làm, xuống trước mộ Ngưu tẩu một cách thật cẩn thận.
Hồ Đại Lực thở dài, lấy những cuốn sách từng là bảo vật của nàng, mà sau này nàng đành phải bỏ lại, mang ra đốt từng cuốn một.
Tro bụi cùng tàn tro cuốn bay hỗn loạn trong buổi hoàng hôn đầu đông, dần dần hòa vào sắc trời u ám.
Thời tiết thật tệ… Nhưng càng khó chịu hơn là, lúc bọn họ rời đi, lại tình cờ thấy một bà mối trông có vẻ vội vã bước vào nhà thợ đá.
Nhất định phải gấp như vậy sao? Mày ai nấy đều bất giác nhíu lại, nhưng ngoài việc nhíu mày một cái, thì còn làm được gì?
Không khí trong đạo quán Tùy Ý chưa từng buồn bã và tiếc nuối như hôm nay. Từ lúc trở về cho đến bữa cơm tối, ai cũng ít nói hơn hẳn.
Đêm xuống, nó trằn trọc không ngủ được. Bên ngoài vang lên tiếng sáo, êm dịu mà thong thả, xen lẫn một nỗi bi thương. Nó khoác áo ra ngoài, thấy Hồ Bất Nan đang ngồi trước bàn đá. Ánh trăng lờ mờ, chiếu hắn thành một bóng dáng nhòe mờ không rõ hình.
“Làm muội tỉnh rồi à?” Hắn đặt cây sáo trúc xuống.
“Ta vốn chưa ngủ.” Nó ngồi xuống cạnh hắn.
“Vào đi, bên ngoài lạnh lắm.”
“Tiểu sư huynh…”
“Ừ?”
“Trong tộc ta, có nhiều kẻ từng bị sét đánh, bị lửa thiêu, bị đá đập… mà vẫn còn sống.”
“Rồi sao?”
“Con người… sao lại dễ chết đến vậy sao? Bị ngựa đụng một cái là không còn nữa?”
“Thân xác máu thịt, có gì kỳ lạ đâu. Có người bị kim đâm cũng chết, ăn nhầm đồ ăn cũng chết, bị chậu hoa từ trên trời rơi xuống trúng cũng chết… Dù không gặp mấy chuyện bất trắc ấy, thì con người cũng chỉ sống được vài chục năm, sao so được với yêu thánh?”
“Thế nhưng rất nhiều Yêu quái lại chỉ mong tu thành hình người.”
“Bọn chúng chỉ muốn một dáng vẻ giống con người thôi, chứ đâu có thật sự muốn trở thành loài người, trở thành một sinh mệnh mong manh, ngắn ngủi như vậy.”
Nó cúi đầu, không nói gì thêm.
Hồ Bất Nan búng trán nó một cái: “Tiểu nha đầu, muội chẳng phải là một Yêu quái có hình người sao? Tốt biết bao. Thân thể vừa khỏe mạnh vừa khó giết, sống cũng lâu hơn người thường. Không chỉ được ăn nhiều món ngon hơn, mà còn nhìn thấy biết bao điều mà phàm nhân không tài nào thấy được, phải biết quý trọng mới đúng.”
Nó chẳng nhúc nhích, đến trán cũng không xoa, chỉ cúi đầu thấp hơn.
Hồ Bất Nan thấy vẻ ủ rũ của nó như muốn tràn ra khỏi người, bèn thở dài, xoa đầu nó: “Chuyện của Ngưu tẩu, bọn ta ai cũng buồn cả. Nhưng sinh tử vốn là lẽ thường, ai rồi cũng phải trải qua ngày đó, chỉ là sớm hay muộn. Muội cũng đừng quá đau lòng.”
Im lặng một lúc, cuối cùng nó cũng ngẩng đầu: “Đến một lời cũng không để lại, ta thậm chí chẳng biết tẩu ấy có thích món quà ta tặng không.”
“Chắc chắn là thích mà. Cây bút của muội, sách của sư phụ tặng, tẩu ấy đều sẽ thích.” Hồ Bất Nan khẳng định, lại như có điều suy tư, khẽ nói: “Ta nghĩ khoảng thời gian vui vẻ nhất của tẩu ấy, là khi còn trong thư phòng của nhà chúng ta.”
“Tên thợ đá có nhớ tẩu ấy không?”
“Ờ… Chắc có…”
“Nhưng hắn chẳng đến tìm bọn mình.”
“Tìm bọn mình ư?”
“Nếu thật lòng nhớ tẩu ấy, chẳng phải sẽ tìm mọi cách để được gặp lại lần cuối sao? Dù gì tẩu ấy ra đi đột ngột đến thế, không lời từ biệt nào cả…”
“Chuyện này… mỗi người mỗi suy nghĩ. Có lẽ thợ đá chỉ muốn nhanh chóng buông bỏ. Người sống thì muốn sống nhẹ nhàng, cũng chẳng sai gì.”
“Nhưng ta lại muốn gặp tẩu ấy.”
“Như Ý…”
“Tiểu sư huynh, nếu công việc chúng ta nhận lần này cần dùng đến Nguyệt Đồng, thì lấy bao nhiêu tiền?”
“Cái gì?!”