Y thuật của Tề quốc có tiếng, mà La đại phu xem như số một số hai ở Ung thành, mỗi ngày ông đều đến bắt mạch nhưng không có được một chẩn đoán xác thực. Bắt mạch xong, La đại phu thả tay Thế An xuống, xếp lại dưới chăn, nhìn ánh mắt mong chờ của Chung Dật ngồi bên, ông hơi lúng túng nhíu mày, lắc đầu nói: “Mạch tượng của lệnh công tử đã ổn định hơn so với mấy ngày trước, nhưng hôn mê trì trệ… Hầy, lão hủ vô năng.”
“…Đại phu ngài quá lời rồi.”
La đại phu cầm lấy phương thuốc đặt bên cạnh, ghét sát mắt lờ mờ nhìn, thở dài, “Theo góc nhìn của lão hủ, mỗi một vị của phương thuốc này đều vừa đủ, chắc hẳn có thể tiếp tục dùng. Còn khi nào lệnh lang tỉnh, vẫn còn dựa vào chút ý trời.”
“…” Đương nhiên Chung Dật hơi thất vọng, nhưng y vẫn gật gật đầu, nói với hạ nhân, “Tiễn La đại phu ra ngoại đường, dâng ấm trà ngon.”
“À không cần, lão hủ còn phải về hiệu thuốc một chuyến.” La đại phu vội ngăn hạ nhân lại, lấy hòm thuốc ở kế bên, lúc đứng dậy, ông liếc hốc mắt sâu hoắm nhìn Chung Dật, không lạnh không nóng nói, “Ba ngày nay Chung lão gia gầy đi rất nhiều.”
“…” Mặt Chung Dật có phần sững ra, không biết đáp lại thế nào thì đúng lúc ho khan.
La đại phu thấy thế vội tiến lên vỗ lưng y, chờ y bớt lại mới đeo hòm thuốc lên lưng, nói sâu xa: “Lệnh lang là người trẻ tuổi, thân thể người trẻ tuổi tinh tráng, nhiều khi va đập chưa vấn chẩn cũng tự mình khỏe. Còn người đã có tuổi, không cố gắng điều dưỡng, thì chính là vấn đề sống thêm mấy năm hay ít đi mấy năm.”
Chung Dật điều hòa khí tức, gật đầu nói: “Đại phu nói phải. Chung mỗ vẫn không chú tâm đến.”
“Bệnh căn của Chung lão gia có phải là chứng tiêu khát không?”
(*) Chứng tiêu khát: bệnh Đông y, chỉ chứng uống nước nhiều, tiểu tiện nhiều, bao gồm các bệnh tiểu đường, bệnh tháo nhạt.Chung Dật gật đầu. Quả nhiên La đại phu không phải chỉ là hư danh, 3 ngày nay chỉ xem sắc mặt đã nhìn ra được đầu mối.
“Bao lâu?”
“Xấp xỉ… được sáu cái 5 tháng…”
La đại phu bỏ cái gối kê nhỏ vào trong hòm thuốc, nhắm mắt khẽ gật đầu, ông thở dài, “Thuốc chỉ là thứ yếu, thường ngày chú ý đến đồ ăn, kỵ rượu, kỵ thức ăn mặn nhiều mỡ.”
“Chung mỗ rõ rồi.” Chung Dật đáp lời, thấy La đại phu thu dọn xong, thì nói với hạ nhân đứng bên cạnh, “Tiễn La đại phu ra ngoài phủ.”
Cửa phòng mở ra khép lại, Chung Dật quay về ngồi bên mép giường Thế An, thấy Thế An vẫn nhắm mắt ngủ say, lòng y chua xót, nhưng chỉ lúc sau, y nghe thấy ngoài kia có động tĩnh, một hạ nhân vào bẩm báo.
“Lão gia, bên ngoài có công công đến.”
***
Lý Hủ đã nói rõ không muốn nhúng tay vào chuyện này, nghe báo có người trong cung đến, Chung Dật còn khá hoài nghi. Y thấp thỏm đi ra ngoài nghênh đón, thì thấy một thái giám trung niên dẫn theo mười mấy người từ xa đến.
Thái giám trung niên hất mũi lên trời, vênh váo tự đắc đánh giá Chung Dật: “Ai là Chung Dật?”
Từ giọng điệu của gã đã nghe được sự bất thiện, nhưng Chung Dật không tránh được, chỉ có thể vái chào nói: “Chính là tại hạ.”
Còn chưa dứt lời bỗng có hai tiểu thái giám tiến lên đoạt cây gậy của Chung Dật, bắt y quỳ xuống. Hạ nhân trong phủ đều là người mới đến, thấy người trong cung xuất hiện thì không dám bước lên ngăn cản.
“Công công, đây là sao?”
“Chúng ta đến theo lệnh của Hoàng hậu nương nương, mạo phạm Hoàng hậu, tát 50 cái là nhẹ rồi. Chung đại nhân, lĩnh thưởng.”
“…Ngươi!” Đến giờ Chung Dật mới nhớ lại chuyện lúc trước trong cung, tuy giờ khắc này lâm vào cảnh sa sút, nhưng niềm kiêu hãnh từ trong xương vẫn là thứ thâm căn cố đế, y cố thoát khỏi ràng buộc phía sau, “Thả ta ra. Lũ nô tài các ngươi! Các ngươi dám!”
Thấy y giãy ra được, lập tức có hai người bước lên ấn đè bả vai y. Thái giám dẫn đầu cười lạnh, liếc mắt ra hiệu, lập tức có người tiến lên, vung bàn tay lên cao, dù phía sau đã bị áp chế mà Chung Dật vẫn ngã nghiêng người, trong nhất thời mắt biến đen, mặt cũng nóng rát đỏ bừng, trong miệng xộc lên vị tanh ngọt.
Đời này thăng trầm hơn 30 năm, nhưng vẫn chưa một ai dám đối xử với y như thế. Y cảm thấy tính tình luôn tĩnh lặng như nước của mình bị cơn lửa giận đốt cháy, không biết lấy sức từ đâu mà hất cánh tay của người ở sau ra, nhưng chân y bất tiện, không dễ tránh thoát được áp chế, vẫn không đứng dậy được, một lúc sau, mấy tiểu thái giám chạy đến đè y ngã xuống đất.
Có lẽ lão thái giám trung niên không ngờ chỉ một tát đã khiến đối phương phát điên, lòng mơ hồ lo sợ, run run nói: “Ngươi! Ngươi vẫn nên ngoan ngoãn nhận hình phạt đi! Còn nếu không tổn thương cung nhân thì không đơn giản thế này đâu!”
Đúng thật là chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng.
Chung Dật nộ khí công tâm, gần như không thở nổi, ngã phục xuống đất ho khù khụ, y nhíu mày khạc ra một vật cứng trắng ngọc vang tiếng cồm cộp, bắn sang một bên.
Trên gương mặt của lão thái giám lộ vẻ vui vẻ, lão vội tiến lên, nhặt chiếc răng cất vào trong tay áo dự định đến trước Hoàng hậu lĩnh thưởng, rồi phất tay: “Còn ngây ra đấy làm gì? Tiếp tục tát…”
Chưa nói xong, lão bỗng im bặt, các cung nhân nhìn lão thái giám trung niên, thì thấy một nam tử áo đen xuất hiện ở sau lão từ bao giờ, bóp sau gáy lão, sức lực rất lớn, như bất cứ lúc nào cũng có thể bóp nát xương gáy lão.
Cục diện này ngay cả Chung Dật cũng bất ngờ, người đó chính là Tư Nam Thiên.
“Thuộc hạ phụng mệnh của Hoàng thượng, ở đây bảo đảm chu toàn cho Chung thái phó. Công công, chớ làm khó thuộc hạ.”
“Hoàng… Hoàng thượng?” Lão thái giám trung niên thoáng tỏ vẻ kinh hoảng, nhưng lão chợt tỉnh táo lại, còn chưa kịp giở giọng hách dịch diễu võ dương oai thì sau gáy đau đớn làm lão kêu thành tiếng, vội nói, “Này. Này… nô tài cũng chỉ là phụng mệnh hành động. Nếu đại nhân phụng ý chỉ của Hoàng thượng, thì đương nhiên nô tài không dám trái ý…” Dứt lời, vội nháy mắt với tên cung nhân áp chế Chung Dật, chắp tay cáo từ xong, nhóm người vội vàng rời đi.
Tư Nam Thiên nghiêng người nhường lối, đến khi đám thái giám rời khỏi tiền viện, gã mới nhìn sang Chung Dật, thấy người đó đã đi tìm gậy, hạ nhân vẫn đứng sững sờ một góc, y không nói lời nào, quỳ xuống muốn lấy gậy.
Tư Nam Thiên theo thói quen tiến lên đỡ y, nhưng bị đẩy phắt ra.
Mặc dù thái độ cương quyết, nhưng lại tựa như đang che chở cho chút tự tôn ít ỏi còn sót lại, trông thật yếu đuối. Tư Nam Thiên lập tức lùi về sau mấy bước, không biết nên nói gì. Cũng may hạ nhân đứng bên cuối cùng cũng tỉnh táo lại, vội nhặt lấy gậy đưa cho lão gia của mình.
“Thái phó…”
Tư Nam Thiên vô thức gọi ra tiếng, nhìn y cử động, mới nói tiếp, “Đảm nhận chức vị thì phải tận trách đến cùng với nó. Thái phó cũng từng là bề tôi, chắc hẳn hiểu rõ…”
Chung Dật ửng đỏ khóe mắt, đương nhiên y hiểu chứ. Năm đó cũng là bởi y đang tại vị, nên mới suýt nữa hại chết Lý Hủ, gây nên khoản nợ đời này không trả được.
Hệt như y năm đó, Tư Nam Thiên cũng vì là thuộc hạ của Hoàng đế nên mới phải bẩm báo sự thật. Mà Lý Hủ thân là một Đế vương nhất thống thiên hạ, dĩ nhiên phải nhổ hết sạch mầm móng tai họa.
Thật ra chuyện này không liên quan gì đến phong nguyệt, mỗi người họ tự gây ra, đều chỉ vì những từ, tại vị, mưu chính, mặc chức, tận trách.
Bây giờ giữa y với Lý Hủ có tình hay vô tình đều không còn quan trọng nữa, dù có tình cũng không nên duyên… Ngẫm lại, chi bằng vô tình sẽ bớt đau lòng.
Chung Dật chống gậy đứng dậy, đứng vững rồi thì khôi phục lại toàn bộ ngạo khí, quay đầu nói với Tư Nam Thiên: “….Người quay về. Nói với Lý Hủ, Thế An sẽ không xảy ra chuyện gì, Chung mỗ đương nhiên cũng thế, không phiền hắn nhọc lòng.”
***
Tư Nam Thiên khá khó hiểu, nhưng chỉ có thể hồi cung bẩm báo, lời của y truyền đến tai Lý Hủ, Đế vương đang phê duyệt tấu chương không những không giận mà còn cười: “Tốt, nếu y không thích, thì ngươi không cần trở lại làm gì.”
Tư Nam Thiên ngây người, sau cùng không nói gì thêm, tuy mệnh lệnh lúc trước của Hoàng thượng là bảo gã canh giữ ở Chung phủ, nhưng ý tứ lại rất rõ —— Chung Thế An nhất định phải chết. Tư Nam Thiên biết nhiệm vụ chân chính của mình là chờ Chung Thế An chết rồi, thì dẫn Chung Dật đến trước Hoàng thượng. Nhưng nếu tiếp nhận chỉ thị mới, không thể không tuân theo, gã khom người lùi về sau, thân hình dần ẩn khuất trong bóng tối.
Sau giờ ngọ, tay cầm bút của Lý Hủ đều run run, thì ngoài điện truyền đến tiếng bước chân bạch bạch vui vẻ, giọng hoạn quan thét lên the thé “Ai u tiểu tổ tông, có thể cẩn thận hơn không.”, nương theo đó là vài tiếng cười giòn giã, Lý Kỷ chạy vào.
“Phụ hoàng.”
“Kỷ.” Tâm tình Lý Hủ tốt lên, dứt khoát đặt bút xuống, ôm nhi tử chạy đến bên mình bế lên đầu gối.
Lý Kỷ mới 7 tuổi, đầu còn như đậu đinh, được bế lên thì cười vui sướng quay người ôm Lý Hủ, nhõng nhẽo: “Phụ hoàng, trong cung chán quá. Dẫn Kỷ nhi ra ngoài chơi đi, Kỷ nhi muốn đi thăm Hỉ Nguyệt tỷ tỷ.”
“…Hỉ Nguyệt?” Lý Hủ vui vì nhi tử bảo bối không mở miệng đòi gặp Chung Dật, hắn thở phào, “Được, ngồi yên một lát, chốc nữa dẫn ngươi đến phủ Tướng quốc.”
“Vâng! Phụ hoàng.” Đứa nhỏ lí lắc, đôi mắt đảo qua lại, lập tức được voi đòi tiên, “Sau này phụ hoàng dẫn Kỷ nhi đi thăm Hỉ Nguyệt tỷ tỷ nhiều nhiều nha!”
Lý Hủ buồn cười, “Sao ngươi lại dính Hỉ Nguyệt tỷ tỷ đến thế.”
“Vì…” Lý Kỷ mới vừa rồi còn vui vẻ tăng động giờ bắt đầu xấu hổ thẹn thò, nhìn ngó xung quanh, nó bẽn lẽn nói, “Vì, Kỷ nhi thích Hỉ Nguyệt tỷ tỷ… Sau này lớn lên muốn thú nàng làm tân nương tử.”
“…” Lý Hủ nghe lời nói không kiêng kỵ của đứa nhỏ thì bật cười, “Này không được, Hỉ Nguyệt đã là thê của quản sự phủ Tướng quốc, nào có đạo lý một thê hai phu?”
Lý Kỷ chưa từng nghe thấy thuyết pháp này, nó sốt sắng nóng nảy: “Nhưng mà rõ ràng Hỉ Nguyệt tỷ tỷ đã đáp ứng Kỷ nhi rồi mà.”
Lý Hủ thấy vẻ mặt đứa nhỏ không giống đang nói đùa, mà xưa giờ hắn không bao giờ dỗ dành, thấy bây giờ đứa nhỏ còn chưa biết đau là gì, thì nên kịp thời nói rõ hơn với nó: “Nàng lừa ngươi thôi.”
Lý Kỷ tức khắc lộ ra vẻ ấm ức: “Tại sao Hỉ Nguyệt tỷ tỷ phải lừa Kỷ nhi.”
“…” Câu hỏi này vừa vặn cũng là câu hỏi trong lòng Lý Hủ.
Tại sao phải vậy chứ.
Hắn cũng muốn hỏi câu hỏi đó, nếu trong lòng Chung thái phó chỉ mãi xem trọng Thái tử Thù thì tại vì sao lại phải khiến Lý Hủ có cảm giác rằng mình cũng có vị trí nào đó trong lòng đối phương chứ?
Sắc mặt hắn dần lạnh lẽo, lạnh nhạt nói: “Không tại sao cả, đối phương lớn tuổi hơn ngươi nhiều như thế, thấy ngươi dễ lừa nên lừa thôi. Kỷ nhi, nhớ kỹ, vĩnh viễn đừng cả tin người ngoài.”
***
Nửa tháng qua Chung Dật vẫn bận rộn đặt mua xe ngựa tạp vật bên ngoài, y biết cứ thế này không phải biện pháp, nên đã thu dọn xong đồ tế nhuyễn, chỉ chờ Thế An dưỡng thương khỏe lại thì dẫn cậu bỏ trốn. Năm đó y cự tuyệt suy nghĩ bỏ trốn của Hỉ Nguyệt là bởi vì chủ tớ ba người bọn họ già yếu bệnh tật, nhưng hôm nay tuy y đi đứng bất tiện, song Thế An đã lớn, thế gian rộng lớn bao la biết nhường nào, chung quy có lẽ hai người họ vẫn sẽ tìm được một chỗ đặt chân sống bằng sức mình.
Trong thời gian Chung Thế An hôn mê, Hỉ Nguyệt nghe nói Chung phủ có biến cố, mặc dù không tự mình đến thăm nhưng nàng đưa đến những dược liệu thượng hạng gia đình bình thường không có, không biết có phải nhờ thế mà Chung Thế hôn mê non nửa tháng rốt cục tỉnh lại không.
Chung Dật xách thuốc mới về đến Chung phủ thì thấy hạ nhân vui mừng ra đón, báo Thế An đã tỉnh lại.
Sầu não tích tụ bao ngày qua đều tan theo gió, Chung Dật bật cười, ba chân bốn cẳng bước nhanh vào trong phòng của Chung Thế An.
Y đẩy cửa vào, nhìn quanh giường không thấy người đâu, Chung Dật rối rắm xoay người, thì nhìn thấy cậu đứng trước cửa sổ nhìn ra hậu viện.
Chung Thế An nghe động tĩnh, quay đầu lại, mặc dù vẫn còn sắc bệnh, nhưng lưng đứng thẳng tắp, cộng thêm cái xanh biếc đầu hạ càng tôn lên chàng thiếu niên 16, 17 tuổi như một cây trầu bà xanh tươi, căng tràn sức sống chờ ký thác.
“Tiên sinh, ngươi về rồi.”
“Thế An…” Vẻ kinh hỉ hiện rõ trên gương mặt Chung Dật, “Sao lại đứng dậy, nhanh nghỉ ngơi đi, thấy thế nào rồi?”
Chung Dật hỏi liên tiếp không ngừng, sau khi kích động thì chợt thấy Chung Thế An nghiêng người, bên song cửa sổ là con bồ câu trắng xám đập vào mắt, y sững người, còn chưa mở miệng thì Chung Thế An đã lên tiếng trước: “…Tiên sinh, Thế An nhớ lại hết rồi.”