Chung Dật hỏi liên tiếp không ngừng, sau khi kích động thì chợt thấy Chung Thế An nghiêng người, bên song cửa sổ là con bồ câu trắng xám đập vào mắt, y ngơ ra, còn chưa mở miệng thì Chung Thế An đã lên tiếng trước: “…Tiên sinh, Thế An nhớ lại hết rồi.”
“…”
Tâm trạng của Chung Dật lúc này quả thật không khác gì khó khăn lắm mới bò ra được hố lửa sau trăm nghìn cay đắng, thì bị một đạp đẩy ngã xuống lại.
Y thở dài, một lúc lâu sau mới tỉnh táo lại, không nói lời nào đi khép cửa sổ trong phòng. Chung Thế An thấy y đi tới lui đóng cửa, chỉ trầm mặc không nói gì.
Đến khi căn phòng như cái rương đóng kín gió thổi không lọt, thì Chung Dật mới dẫn cậu đến trước giường, ra hiệu cho cậu ngồi xuống, mà mình cũng ngồi bên giường.
“…” Chung Dật vừa muốn mở miệng nhưng không có lời nào để nói, không biết bắt đầu nói từ đâu, thậm chí ngay cả nên xưng hô thế nào với người trước mặt cũng do dự không biết.
Chung Thế An không giống với tiên sinh mình, mặt cậu rất bình tĩnh, thấy Chung Dật ấp úng thì tự mình mở lời: “Tiên sinh. Ngài không cần như thế, Thế An nhận ân huệ của tiên sinh còn hơn cả thiên thiên vạn vạn, tiên sinh có chuyện gì cứ nói thẳng ra là được.”
“…Thế An, ngươi biết rồi… tiên sinh còn có thể nói gì nữa, đi hay ở, do ngươi quyết định.”
“Tiên sinh, có thể hỏi ngài một chuyện không?”
Ánh mắt Chung Dật hơi lóe lên, y vô thức tránh né, nói: “Hỏi đi.”
“Thế lực của Dần quốc, giờ đang ở đâu.”
“Chỉ biết ở Tây Bắc. Còn chuẩn xác thì không biết.”
“Vậy, giờ Dần quốc hành động theo lời chỉ huy của ai.”
“…Không rõ.”
“Năm năm qua, đến cùng đã luyện thành bao nhiêu binh mã?”
“Cũng không rõ.”
“…” Gần như là chẳng biết gì, Chung Thế An trấn tĩnh nhìn y, thật lâu sau mới xác nhận y không nói dối, tiên sinh mình quả thật không biết chuyện gì.
Chung Dật cũng tự biết không giúp được, chỉ có thể nói hết những gì mình có: “Lúc Ngô tướng quân dẫn ngươi đến tìm ta, chỉ để lại A Vọng… Nói sẽ có một ngày ngươi trưởng thành, nguyện lấy thân báo quốc, lợi dụng bồ câu truyền thư để liên hệ.”
“…” Chung Thế An nhớ lại ngày đó có một vị tướng quân dẫn cậu đến Lê Sơn, gặp tiên sinh rồi bỏ cậu với A Vọng lại. Nếu tiên sinh không biết gì, Chung Thế An chỉ có thể dùng con đường kia để phân giải chuyện cậu muốn biết.
“Tiên sinh, Thế An chỉ có một câu hỏi cuối,” Chung Thế An mím môi, ngẩng đầu nhìn tiên sinh, “Ngài nghĩ thế nào?”
Chung Dật không ngờ đến nước này mà Thế An còn có thể bận tâm đến suy nghĩ của y, y khá vui: “…Thế An. Tiên sinh đã nói rồi, người nam nhi nào không có chí lớn, nếu ngươi muốn đi lang bạt, tiên sinh sẽ không ngăn ngươi. Nhưng nếu xét theo tư tâm thì vi sư không muốn ngươi đi mạo hiểm.”
“…Tiên sinh?”
“Lý Hủ đang muốn tiến quân Tây Bắc, lỡ như… lỡ như rơi vào tay hắn, Lý Hủ chắc chắn sẽ không mềm lòng. Không phải tiên sinh đề cao chí khí của người khác, kỷ luật của Tề quân nghiêm minh, đánh đâu thắng đấy không gì cản nổi, ta đã được lĩnh giáo với chiến dịch tại Đô thành năm đó. Mà bây giờ, chỉ càng thêm thanh thế hùng vĩ, Thế An, ngươi đi Tây Bắc, khả năng còn sống sót rất nhỏ.”
Nghe được hai chữ Đô thành, Chung Thế An cong khóe môi, nhưng viền mắt ửng đỏ: “Tiên sinh, không phải Thế An nguyện dấn thân vào đầm rồng hang hổ. Mà là thù quốc hận gia như thế, sao có thể không báo cho được.”
Sao có thể tưởng tượng nổi, cơn ác mộng triền miên bao năm qua, cung điện tàn sát đẫm máu, hóa ra đều từng xảy ra với bản thân. Nếu không có tướng quân trung thành kiên quyết thủ thành kháng cự, thấy tình thế bất ổn sớm sắp xếp thế thân thì cậu làm sao chạy thoát được cung điện rơi vào tàn sát như địa ngục đó.
“…” Chung Dật biết không khuyên ngăn nổi, nhiều lời chỉ phí công, bèn ôm lấy con bồ câu nhảy nhảy bên cửa sổ, đưa vào tay Chung Thế An.
Thật ra, hiện giờ chẳng biết khi nào Chung phủ sẽ lại gặp phải ám sát của Khâu gia, khó mà nói giữa lưu lại với rời đi cái nào an toàn hơn.
Chung Dật đẩy cửa ra khỏi phòng, Chung phủ quá lớn, hồi lâu y mới gặp được một hạ nhân, bảo hắn xuống sắc thuốc. Lúc này nghe thấy tiếng vỗ cánh, y ngẩng đầu nhìn thấy một vệt bóng trắng xẹt trên trời xanh, con bồ trắng xám lần đầu tiên giương cánh bay cao trong 5 năm qua, nhanh chóng bay đi.
Đầu y bỗng xuất hiện một suy nghĩ: Có lẽ Lý Hủ nói không sai, dẫu sao thì cũng không phải hài tử của mình, sớm muộn sẽ có một ngày, Thế An rời khỏi mình.
***
Sau đó Chung Dật vẫn đi bốc thuốc, sai người sắc thuốc như thường lệ, 7, 8 ngày sau, Chung Thế An gần như hoàn toàn bình phục, thể lực hồi phục có thể xuống giường đi lại, mỗi khi nhàn hạ cậu sẽ lục xem binh thư trong thư khố, Chung Dật thấy nhưng không nói gì.
Con bồ câu xa cách một thời gian ngắn cuối cùng cũng trở về, Chung Thế An đọc thư xong, nói: “Trong thư Ngô tướng quân bảo đang giục ngựa đến đây, khoảng chừng 2 ngày nữa là đến Ung thành.”
“Ngô tướng quân.” Cái tên đã từng là chí hữu nay có chút xa lạ, Chung Dật hiếm thấy nở nụ cười, “Tất cả họ còn mạnh khỏe chứ?”
Chung Thế An thấy tiên sinh của mình nhiều ngày rồi mới cười, lòng cũng nhẹ nhõm hơn phần nào: “Đến lúc đó chẳng phải tiên sinh sẽ biết sao?”
“…” Chung Dật thấy tờ giấy trong tay Thế An viết kín chữ, Thế An đọc từng câu từng chữ, nhưng lại không biết tình trạng gần đây của Ngô tướng quân, đoán có lẽ sự tình trong thư không đề cập đến tình cảm riêng tư. Mặt trên viết những gì, trù bị ở Tây Bắc rốt cục làm sao? Thế An đi chuyến này là hung hay cát? Tuy y lưu tâm, nhưng không cách nào nhúng tay vào.
Thế An đọc xong thì qua loa gấp thư lại, bỏ lên ánh nến đốt, hiển như không có ý nói cho y biết.
Chung Dật hơi mất mát, nhưng không biểu hiện ra, chỉ đẩy chén thuốc để nguội bên cạnh qua, giục cậu: “Uống thuốc lúc còn nóng đi, sớm nghỉ ngơi một chút.”
“Vâng.” Chung Thế An dùng một tay cầm chén, nhíu mày ngửa đầu uống cạn, rồi lên giường nằm, Chung Dật bỏ chén thuốc rỗng xuống khay, bước lên theo thói quen dịch chăn cho cậu, nhưng tay chợt bị giữ lại.
Chung Thế An giữ tay y, đôi mắt trong veo trầm tĩnh nhìn y: “Tiên sinh. Nhiều ngày qua, Thế An không dám hỏi. Thế An đi rồi, tiên sinh dự định thế nào?”
“Còn lo tiên sinh sẽ không sống nổi à?” Chung Dật trêu, rồi cụp mắt, “…Tất nhiên không thể ở lại Ung thành nữa. Tính đi đến vùng Quảng Lăng, bán tranh chữ ở đó chắc cũng có thể duy trì kế sinh nhai.”
Chung Thế An dừng giây lát, bỗng hỏi: “Tiên sinh chưa từng nghĩ đến chuyện cùng Thế An đến Tây Bắc sao?”
“…” Chung Thế An nhìn ánh mắt trầm tĩnh của Thế An, y nhẹ nhàng đẩy tay cậu ra, lắc đầu chậm rãi nhưng kiên quyết.
Tuổi của y đã lớn như vậy rồi, người thường vào độ tuổi của y hẳn nên chờ an dưỡng tuổi thọ. Mà y cũng như họ, còn lại không được bao nhiêu thời gian, từ lâu không muốn lại chịu những tháng ngày trôi nổi như lục bình trong loạn lạc. Huống chi, tính cả lần này thì y lại lừa gạt Lý Hủ thêm một lần, Lý Hủ tuyệt đối sẽ không bỏ qua cho y.
Y với Thế An đi rồi, người đầu tiên gặp không may chính là Hỉ Nguyệt. Hỉ Nguyệt theo y từ nhỏ, nhẫn nhục chịu khó bao nhiêu năm, mắt thấy nàng giờ đã phu thê thuận hòa, gia đình mỹ mãn, thì có thể nào nhẫn tâm hại nàng một lần nữa mất đi tất cả.
Vốn dĩ Chung Dật cũng không có dự định đến Quảng Lăng, y quyết định lưu lại đây, chung quy chỉ còn lại một cái mệnh tàn, gộp hết khoản nợ với Lý Hủ rồi trả vậy.
Trong mắt Chung Thế An lóe lên nét sâu thẳm, như hiểu rồi gật gật đầu, bình tĩnh nói: “Thế An đã hiểu, tiên sinh cũng đi nghỉ ngơi đi.” Dứt lời liền xoay người, nằm quay lưng với Chung Dật.
***
Buổi tối ngày hôm sau, Chung Thế An xuống giường hỏi hạ nhân, biết Chung Dật đang ở đâu thì khẽ đi đến trước cửa linh đường Chung phủ, cách song cửa, quả nhiên thấy người cậu muốn tìm.
Chung Dật đứng trước linh đường che miệng ho khan vài tiếng, rồi đứng dậy, giơ 3 nén nhang nhắm mắt hành lễ với liệt tổ liệt tông Chung phủ, cắm lên đỉnh lư hương xong quay lại đốt thêm 3 nén nhang nữa, 3 nén đặc biệt dành cho lư hương của vong thê.
Thân ảnh và hành động ấy, 5 năm qua không biết cậu đã xem bao nhiêu lần, chỉ là lần này vái lâu hơn, dường như có lời nói nào đó rất dài muốn kể với vong thê.
Chung Thế An vẫn không lên tiếng quấy rầy, lẳng lặng đứng bên nhìn, đến khi Chung Dật mở mắt ra, cắm nén hương cháy non nửa vào lư hương, cậu mới mỉm cười gọi: “Tiên sinh.”
Chung Dật nhận ra được giọng gọi là của Thế An, không quá bất ngờ, y quay người lại nói: “Thế An, sao vậy?”
“Lúc nãy Thế An tự ý mở bầu rượu Nhiếp thúc thúc đưa đến mất rồi. Ngày mai phải chia xa, tiên sinh với Thế An uống một chén nhé. Chúc Thế An mã đáo thành công, báo được đại thù.”
(*) Mã đáo thành công: Chiến mã đi đến đâu là thành công đến đó.“…” Chung Dật cụp mắt suy nghĩ chốc lát, thổi tắt ánh nến rời khỏi linh đường, y lộ ra ý cười khẽ, “Vốn theo cái nhìn của tiên sinh, thì lời hứa uống rượu với ngươi còn phải chờ thêm nửa năm nữa.” Nhưng thời gian còn gặp nhau đã không đợi thêm được nửa năm, nghĩ đến đây, Chung Dật hơi thu lại ý cười, nói với vài phần phiền muộn, “Cũng được, vậy cạn vài chén đi.”
Chung Thế An đã sớm phân phó hạ nhân nhóm bếp lửa nhỏ, rượu ấm vừa đủ trong bầu rượu men xanh trắng của trấn Cảnh Đức, cậu vội vã cầm chung rượu đặt xuống bàn đá trên sân, thấy Chung Dật chậm rãi bước đến ngồi xuống, cậu lấy rượu đã nấu tốt rồi đến, định rót ra thì Chung Dật vén tay áo lên, lấy tay thăm dò bầu rượu, nói: “Nấu thêm chút nữa đi.”
Chung Thế An nhất thời lúng túng, thấy Chung Dật không giống như đã phát hiện, cậu bình tĩnh bỏ bầu rượu vào lại nước nóng.
Buổi tối những ngày đầu hạ se se lạnh, thỉnh thoảng thối đến vài cơn gió, làm Chung Dật ho khan mấy tiếng, bốn phía không có người ngoài nên đối thoại giữa hai người không cần che che giấu giấu: “Tiên sinh, Thế An đi rồi, không biết sẽ mất bao nhiêu năm, không chừng đi rồi không về nữa…”
“Đừng ăn nói linh tinh.” Chung Dật khẽ cau mày ngắt lời cậu, nhưng có lẽ nghĩ chuyến đi này quả thật hung hiểm không cần hoài nghi, nên giọng cũng hòa dịu hơn, “…Đã tự chọn con đường đi, thì hãy vững lòng thực hiện nó.”
Chung Thế An vội nói: “Tiên sinh đừng giận, chẳng qua Thế An thấy, nếu Thế An là một đứa bé tầm thường, thì giờ này tiên sinh hẳn phải chờ Thế An hiếu kính ngài. Nhưng bây giờ Thế An lại rời xa tiên sinh… Đúng là bất hiếu.”
Chung Dật cười lắc đầu, thật ra sao y có thể cần Chung Thế An hiếu kính mình thế nào, chỉ cần biết được đối phương có cái tâm ấy, Chung Dật đã rất vui rồi.
Chung Thế An càng thấy y như thế, càng như không tìm được cái để mình nỗ lực, cậu ghé sát đến, hơi thay đổi sắc mặt: “Tiên sinh, thật ra năm đó ngài từng có ân cũ với Tề vương, rõ ràng có thể khoanh tay đứng nhìn, tìm một tiền đồ khác mà, cớ sao phải ôm đồm cục phiền toái Thế An chứ?”
“…” Ân cũ… Theo góc nhìn của Thế An, Lý Hủ là một con người nặng ơn, còn Chung Dật mỗi khi nhớ đến năm đó bị cưỡng ép đến Ung thành, rồi bị Lý Hủ vừa xâm phạm vừa nhục mạ liền tức giận đến đầu ngón tay lạnh ngắt. Chung Dật nhắm mắt lại không nghĩ nữa, nhưng không phản bác câu đó, chỉ nói, “Thế An. Người sống trên đời, trừ cái ăn, cái mặc, chỗ ở, đi lại, thì còn cần có trái tim. Nhớ lúc còn nhỏ, tiên sinh từng nhắc đến quốc thần Văn Khúc tinh không?”
(*) Văn Khúc tinh (sao Văn Khúc): Người Trung Quốc thời xưa cho rằng đây là tinh tú nắm giữ công danh và văn vận của thế nhân.“Tỷ Can.”
(Chú của Trụ Vương, Tỷ Can mất lòng Trụ Vương vì nhiều lần can gián và chỉ trích Trụ Vương, Trụ Vương ra lệnh cho Tỷ Can móc tim vì tò mò rằng tim của ông có bảy lỗ.)Chung Dật gật đầu: “Sau khi Tỷ Can móc tim, ông giục ngựa ra khỏi thành, nhưng cuối cùng khó thoát khỏi cái chết, vì sao?”
“Bởi vì, nếu người không có tim ắt phải chết…”
“Không sai, khi ấy tiên sinh nước mất nhà tan, vinh dự tôn nghiêm ngày xưa đều không thể nhìn lại nữa, vốn là một kẻ vô tâm. Thế An… thật ra năm đó là ngươi cứu tiên sinh một mạng mới đúng.”
Chung Thế An đỏ mắt, cậu nghe hiểu ý tứ của Chung Dật, tiên sinh nghĩ sâu sắc hơn bản thân cậu, cậu chợt đứng phắt dậy: “Vậy bây giờ tiên sinh cùng Thế An chia cách, há chẳng phải sẽ chỉ vô tâm sống, được chăng hay chớ hay sao?”
Chung Dật sững người, bị Chung Thế An hỏi ngược lại. Bởi vì y đúng thật là không có tính toán bước kế tiếp nào cho bản thân. Y chần chờ chốc lát, vội cười miễn cưỡng che giấu: “Nói cũng đúng, thiên hạ không có buổi tiệc nào không tàn, dù có là tử nữ thân sinh thì cuối cùng cũng phải thú giá, tự tạo một tổ ấm riêng. Mà trưởng bối nhìn vãn bối sống yên ổn cũng là niềm mong đợi của nửa phần đời còn lại rồi.”
“…”
Biết tiên sinh mình vẫn cứng rắn như lúc cậu còn là đứa nhỏ, vài ba câu không thể khuyên nhủ nổi, nên Chung Thế An im lặng, cậu kéo vạt áo của mình lên, đột nhiên quỳ gối xuống trước mặt Chung Dật.
“Thế An?” Chung Dật hơi bối rối, thấy cậu dường như có lời muốn nói nên không vội kéo cậu lên.
“Tiên sinh. Ta, Chung Thế An, Dư Bác, tại đây phát thệ với trời rằng…” Chung Thế An đúng thật giơ 3 ngón tay lên, ngẩng đầu nhìn ánh trăng trắng trong, gằn từng chữ, “Giả có một ngày phục quốc thành công, phần sức lực còn lại của cuộc đời sẽ theo lời giảng dạy của tiên sinh, tạo phúc cho muôn dân bách tính, để báo ân cho công ơn dưỡng dục chỉ bảo của tiên sinh.”
“…Tốt. Tốt.” Chung Dật vừa hài lòng mà cũng cảm động, gần như không nén được nụ cười, vội kéo người học trò quỳ dưới đất lên.
Lúc này bầu rượu bắt đầu rung rung, Chung Thế An đứng dậy, do dự một chốc, mắt nhìn mũi mũi nhìn tim nói: “Tiên sinh, rượu nóng rồi.”
Thấy lần này Chung Dật không ngăn lại nữa, Chung Thế An lập tức cầm bầu rượu nóng đến, rót đầy hai chung rượu, nâng chung rượu của mình lên nói: “Tiên sinh, Thế An kính ngài.”
“…” Trong lòng Chung Dật tràn đầy sự vui sướng lẫn mừng rỡ, đâu nghĩ được nhiều, nâng chung trước mặt để đáp lễ, rồi ngửa đầu uống trước.
Chung Thế An thấy y không lo lắng mà một hơi cạn sạch, biết y hoài nghi ai chứ sẽ không hoài nghi mình, sắc mặt cậu bỗng chốc hơi sầu muộn, Chung Dật ẩm rượu xong ho khẽ vài tiếng, nhưng vẫn nghiêng đầu nhìn cậu, cười mỉm hỏi: “Thế An, sao không uống. Chẳng lẽ lần đầu uống rượu nên đến phút cuối lại sợ?”
Chung Thế An thu hồi vẻ mặt dư thừa, đặt chung rượu cầm trong tay xuống.
Chung Dật còn chưa hiểu ra, thì thân thể đã phản ứng trước. Phong cảnh trước mắt bắt đầu xoay vần, y nghi hoặc chớp mắt mấy cái, đỡ thái dương, cơn mệt mỏi khác thường càng lúc càng nặng, rốt cục y đoán được là sao, gục trên bàn đá ngửa đầu nhìn Chung Thế An, mặt đầy sự không thể ngờ nổi.
“…Thế An?… … …Ngươi muốn đi Tây Bắc, tiên sinh nào có cản ngươi, hại ngươi?… …Ngươi… cần chi thế này?”
Chung Thế An chậm rãi ngồi xuống bên cạnh, sợ tiên sinh té ra khỏi bàn, cậu giữ vai y lại, lẳng lặng chờ dược hiệu hoàn toàn phát tác, trong lời nói không có chút hổ thẹn: “…Tiên sinh, an tâm ngủ đi.”
Trên mặt Chung Dật đầy sự không cam lòng, nhưng khó chống lại nổi dược hiệu, cơn trống rỗng xâm chiếm đầu óc y, mi mắt y run run, cuối cùng sau một hồi kháng cự, vẫn nghiêng người ngã phịch xuống bàn.