[1]
Trích Trường hận ca, Bạch Cư Dị. Dịch thơ: Nguyễn Mỹ Tài. Nguyên văn Hán Việt:
Trì trì chung cổ sơ trường dạ - Người dịch (ND).
Trời dần về hoàng hôn, các cung nữ nối đuôi
nhau đi vào thắp đèn, ánh đèn ấm áp cùng với tiếng đi lại loạt soạt mà các cung
nữ phát ra vẫn không cách nào xua tan được bầu không khí nặng nề trong đại điện
lúc này. Một lát sau, các cung nữ lại nhất loạt lui xuống. Huyền Lăng đưa tay
chống cằm, tựa hờ vào chiếc ghế chạm khắc hình chín con rồng sau lưng, Hoàng
hậu thì tỏ ra đoan trang rất mực, dưới ánh đèn chiếu tới lại càng toát lên vẻ
nghiêm túc vô cùng. Đoan Phi dường như đã mệt, chỉ ngồi đó nhắm mắt trầm tư.
Những người khác trong điện không ngừng đưa mắt nhìn nhau, thầm phán đoán tình
hình hiện tại, nguyên một tòa cung điện rộng lớn mà lại chẳng có tiếng người,
chỉ có tiếng đồng hồ nước “tí tách” vang lên không ngớt, để lại dư âm vất
vưởng.
Trên đường tới đây, chắc Ôn Thực Sơ đã nghe
phong phanh tin tức, khuôn mặt vốn hiền hòa nay có vẻ u ám vô cùng, song vẫn
cung kính hành lễ. Hắn lén đưa mắt liếc qua phía tôi, tôi ngồi yên một chỗ,
không hề động đậy.
Tường Tần tinh mắt, bèn cất giọng the thé
nói: “Ôn thái y đúng là quan tâm đến Thục phi quá, vừa đi vào đã liếc nhìn xem
thân thể Thục phi có được an lành không, chắc chỉ hận không thể lập tức đi tới
bắt mạch bình an cho Thục phi ấy nhỉ!”
Ôn Thực Sơ coi như không nghe thấy, chỉ
bình tĩnh nói: “Tường Tần tiểu chủ có vẻ dễ nóng nảy, giọng nói thì the thé,
chắc là hư hỏa vượng quá rồi, đợi lát nữa vi thần sẽ nhờ Thái y viện đưa thuốc
thanh hỏa tới, sau khi uống vào sẽ không còn bị thế này nữa đâu.”
Tôi thầm cảm thấy vui mừng vị sự thản nhiên
và bình tĩnh ấy của hắn. Huyền Lăng khẽ hất hàm một cái, Lý Trường đi tới trước
mặt Ôn Thực Sơ, nói một tiếng “đắc tội”, rồi bèn xắn cổ tay áo của hắn lên,
không kìm được hít vào một hơi khí lạnh. Trên cổ tay áo của Ôn Thực Sơ quả
nhiên có hình thêu năm chiếc lá trúc nhỏ như lời Phỉ Văn nói.
Huyền Lăng cất giọng hững hờ chẳng thể nghe
ra mừng giận: “Hình thêu này trông cũng đặc biệt đấy, vẫn luôn ở đó sao?”
Ôn Thực Sơ không hiểu y có ý gì, đành đáp:
“Mẫu thân của vi thần vốn thích cây trúc, do đó mỗi chiếc áo của vi thần, gia
mẫu đều thêu mấy chiếc lá trúc nhỏ vào cổ tay áo, qua đó tỏ sự thương yêu.”
Ngay đến một chi tiết nhỏ như thế mà cũng
hoàn toàn chính xác, mọi người bất giác lại càng tin thêm vài phần. Huyền Lăng
“hừ” lạnh một tiếng, không nói gì thêm. Diệp Lan Y đứng bên cạnh Huyền Lăng chỉ
lạnh lùng nhìn, ra vẻ hờ hững. Kính Phi lúc này chóp mũi đã lấm tấm mồ hôi,
nhưng vẫn bình tĩnh nói: “Hoa văn trên cổ tay áo của Ôn thái y không phải mới
gần đây mới có, nếu để ý từ trước thì muốn nhìn thấy chẳng hề khó khăn, nên
tình tiết này thực không có gì đáng kể.”
Chu Tiệp dư vội vàng phụ họa theo: “Phải
đấy, phải đấy, vừa rồi Ôn thái y cũng đã nói rồi mà, mỗi chiếc áo của y đều có
hoa văn như vậy trên cổ tay áo.”
Kỳ Tần nhìn Chu Tiệp dư chăm chú, cất giọng
âm u: “Vậy thì thực là lạ quá, một thái y nho nhỏ khi gặp Thục phi tất nhiên
cần phải chú trọng lễ tiết, sao có thể xắn tay áo ngồi nói chuyện kiểu mặt đối
mặt như ở nhà mình thế được. Nếu cứ tiếp tục thế này, về sau các thái y khi vào
Nhu Nghi điện của Thục phi, người thì xắn tay áo, người thì cởi y phục, có việc
gì mà không thể làm nữa đây?”
Ôn Thực Sơ càng nghe càng tức giận, nôn
nóng nói: “Ngày đó Thục phi gọi vi thần đến là để hỏi về thai tượng của Thục
viện, Thục phi và Thục viện trước giờ vẫn luôn giao hảo, nghe nói Thục viện
thai tượng ổn định, không bao lâu nữa sẽ có thể bình an sinh nở, nên mới cao
hứng ban trà cho vi thần. Vi thần khi uống trà quen xắn tay áo lên một chút,
thành ra nhất thời quên mất lễ nghi.”
Kỳ Tần nhìn chằm chằm vào Ôn Thực Sơ bằng
ánh mắt lạnh lùng, một lát sau mới chợt cười, nói: “Nếu không vì Thục phi coi
trọng Ôn thái y, cớ sao ngoài ông ra lại không để bất kỳ người nào khác ở Thái
y viện vào lòng, tại sao lại giao phó người tỷ muội thân thiết Thẩm Thục viện
của nàng ta cho ông? Ta lúc trước chưa từng nghĩ tới điểm này, bây giờ xem ra
tình cảm giữa Thục phi và Ôn thái y quả là không bình thường chút nào.”
Kỳ Tần vốn có sẵn sự chuẩn bị, mỗi một
chiêu đều dồn dập không cho người ta có cơ hội thở lấy hơi, Ôn Thực Sơ nghe mà
đỏ mặt tía tai, nói: “Tiểu chủ...” Dù sao cũng tôn ti khác biệt, Ôn Thực Sơ rốt
cuộc đành nuốt lửa giận vào lòng, không để ý tới nàng ta nữa.
Nhưng Kỳ Tần lại không chịu bỏ qua, chỉ tay
vào hắn, nói: “Có phải Ôn thái y chột dạ rồi không, bằng không sao lại đỏ mặt
thế này?”
Huyền Lăng chậm rãi nhìn lướt qua mọi người
một lượt, nhìn tới người nào là người đó vội vã cúi đầu. Y cất giọng uy nghiêm:
“Trẫm chỉ muốn nghe chân tướng sự việc, nếu các ngươi còn ăn nói bốp chát như
lũ đàn bà đanh đá nơi phố chợ nữa, chớ trách trẫm không nể tình!”
Y lúc này hẳn đã vô cùng giận dữ, vậy nhưng
vẫn không đành lòng phát tác với tôi. Tôi bất giác thầm cảm kích, ngoảnh đầu
qua lạnh lùng nhìn Phỉ Văn đang quỳ dưới đất, nói: “Phỉ Văn, ngươi tới cung của
ta cũng được một thời gian rồi, thế mà bản cung lại không nhìn ra ngươi còn có
bụng dạ như vậy đấy!”
Phỉ Văn không hề tỏ ra sợ hãi, thản nhiên
ngẩng đầu, nói: “Nô tỳ không dám có bụng dạ gì cả! Nô tỳ hầu hạ nương nương,
tất nhiên tâm tư phải đặt cả lên người nương nương rồi. Có điều bất kể là hầu
hạ vị chủ tử nào, nô tỳ đều là người trong Tử Áo Thành, là người của Hoàng
thượng. Xét cho cùng, nô tỳ chỉ có thể tận trung với một mình Hoàng thượng mà
thôi. Nếu có chỗ nào đắc tội, mong nương nương lượng thứ.”
Thời gian vừa qua khi ở trước mặt tôi, thị
vẫn luôn ra vẻ ngoan ngoãn nghe lời, tôi chưa từng để ý rằng thì ra thị cũng
môi hồng răng trắng, rất có bộ dạng của một mỹ nhân. Có lẽ vì hôm nay diện
thánh, do đó thị còn cố ý trang điểm kĩ càng một phen.
Vẻ mặt đó của thị khiến tôi lại càng thêm
căm ghét. “Ngươi nói mình tận trung với Hoàng thượng tức là đắc tội với bản
cung, vậy khác nào bảo bản cung là kẻ bất trung bất nghĩa?” Tôi đưa mắt nhìn
qua phía Huyền Lăng. “Nếu Hoàng thượng còn tin tưởng vào sự trong sạch của thần
thiếp, xin cho phép thần thiếp được hỏi Phỉ Văn mấy câu.”
Huyền Lăng chăm chú nhìn tôi một lát rồi
mới khẽ gật đầu. “Nàng cứ hỏi đi.”
Tôi đi tới trước mặt Phỉ Văn. “Bản cung cho
phép ngươi vào nội điện hầu hạ chỉ là chuyện từ một, hai tháng trước thôi đúng
không?”
Phỉ Văn suy nghĩ một chút rồi đáp: “Cũng
được một thời gian rồi.”
Tôi gật đầu. “Bản cung thấy ngươi có vẻ
thông minh, lanh lợi, do đó mới cất nhắc ngươi như thế, hình như ngươi vào nội
điện hầu hạ cũng được mấy lần rồi.”
“Tổng cộng là chừng năm, sáu lần.”
Tôi làm bộ thổn thức: “Phỉ Văn, bất kể
chuyện hôm nay kết quả thế nào, sau này ngươi đều sẽ không thể trở về Nhu Nghi
điện nữa, cũng không thể tiếp tục hầu hạ bản cung nữa rồi.”
Phỉ Văn khẽ nở nụ cười, dải tua ngọc đính
dưới cây trâm bạc hình chim hỷ thước cài trên búi tóc đung đưa nhè nhẹ. “Chỉ
cần còn ở trong cung, bất kể là hầu hạ vị chủ tử nào, nô tỳ cũng đều sẽ dốc hết
sức mình, dù phải đi vào nơi nước sôi lửa bỏng cũng không từ nan.”
Tôi gật đầu, nói: “Tốt xấu gì cũng từng là
chủ tớ, hôm nay ngươi đứng ra vạch trần chuyện bí mật của bản cung, chắc cũng
biết đây là lần cuối cùng hầu hạ bản cung rồi, việc trong phận sự của bản thân
cần phải làm cho tốt mới được. Trước khi ngươi ra ngoài đã lau sạch bình hoa
lưu ly đế hoa xanh trên chiếc bàn gỗ tử đàn ở chính điện chưa?”
Phỉ Văn không ngờ tôi lại hỏi như vậy, bất
giác hơi ngẩn ra một chút, đáp: “Dạ, nô tỳ lau rồi.”
Cận Tịch bất giác vỗ tay một cái, thở dài
than: “Cái đứa hồ đồ này, bình hoa lưu ly trên chiếc bàn gỗ tử đàn của nương
nương đâu có đế hoa xanh, rõ ràng là đế mang hoa văn hình sóng biển.”
Phỉ Văn ra vẻ ngẩn ngơ, dường như đang cố
hết sức suy nghĩ chuyện gì đó, một hồi lâu sau mới nói: “Vâng, chắc nô tỳ đã
nhớ nhầm rồi, hình như đúng hoa văn hình sóng biển.”
Chu Tiệp dư không kìm được bật cười khúc
khích một tiếng, che miệng nói: “Trí nhớ của Phỉ Văn hình như không được tốt
lắm thì phải, thế mà lại nhớ được việc trên cổ tay áo của Ôn thái y có thêu
hình mấy chiếc lá trúc, đúng là chẳng dễ dàng gì.”
Tới lúc này Phỉ Văn đã lộ rõ vẻ hoang mang.
Tôi làm bộ giận dữ hỏi: “Phỉ Văn, ngươi cứ nghĩ kĩ lại xem, bình hoa lưu ly
trên chiếc bàn gỗ tử đàn của bản cung rốt cuộc có đế hoa xanh hay là đế sóng
biển?”
Huyền Lăng khẽ “ừm” một tiếng, bắt đầu cảm
thấy nghi ngờ. Phỉ Văn đắn đo suy nghĩ, lại càng cảm thấy do dự hơn, một hồi
lâu sau dường như đã hạ quyết tâm, nói: “Nô tỳ nhớ ra rồi, đúng là đế hoa xanh
không sai.”
“Trên chiếc bàn gỗ tử đàn ở chính điện đó
chỉ có một tấm gương thôi, chưa từng đặt bình hoa lưu ly nào cả. Ngươi là tiểu
cung nữ mà bản cung ngầm xem trọng, cho phép vào nội điện hầu hạ, thế mà ngươi
lại chẳng dụng tâm vào việc trong phận sự, ngày ngày đi để ý xem bàn tay của vị
thái y nào đặt lên tay bản cung, trên cổ tay áo có hình thêu như thế nào. Người
khác nếu thật sự bắt gặp tình cảnh như thế chỉ e sớm đã sợ hãi đến nỗi chẳng
dám nhìn, cớ gì mà ngươi ngay đến một chi tiết nhỏ cũng nhớ rõ được như thế?
Tâm tư của ngươi thực sự quá đáng ngờ!”
Tôi đột nhiên nói ra những lời dữ dằn như
thế khiến Phỉ Văn lại càng thêm hoang mang, sau khi ngẩn ra một hồi lâu, thị
chợt bật khóc nức nở, nghẹn ngào nói: “Nô tỳ chẳng qua chỉ bẩm báo theo đúng sự
thực thôi, tại sao nương nương lại hung dữ như vậy chứ? Nô tỳ vốn ngu đần, ngốc
nghếch, trong lòng bây giờ chỉ còn có duy nhất một việc lớn này thôi, đâu còn
tâm tư mà để ý tới những điều khác nữa.”
Dư Dung Nương tử chợt cười “phì” một tiếng,
chiếc nhẫn ngọc lưu ly đeo trên ngón tay trắng nõn tỏa ra những tia sáng rực
rỡ, khiến dung nhan của nàng ta trông lại càng thêm diễm lệ. Hơi dừng một chút,
nàng ta cười tủm tỉm, nói: “Từ lâu đã nghe nói Thục phi xử lý mọi việc đều ổn
thỏa, trên dưới không ai là không phục, hôm nay mới biết quả đúng là trăm nghe
không bằng một thấy, chắc hẳn thường ngày nương nương còn rất nhiều chỗ không
được lòng người. Kỳ Tần thì chưa xét tới, nhưng Phỉ Văn còn là người trong cung
của nương nương nữa đấy. Thần thiếp trộm nghĩ, bất kể Phỉ Văn có tâm tư thế
nào, có thể kể lại sự việc một cách chi tiết và sống động như vậy, chắc hẳn
không phải là giả đâu.”
Phỉ Văn vội vàng gật đầu lia lịa, miệng thì
nói: “Nô tỳ quả thực không dám nói dối.”
Kính Phi hơi nhướng mày lên. “Dư Dung Nương
tử nói vậy cũng không phải là không có lý, song ân oán giữa Kỳ Tần và Thục phi
đã có từ lâu, Kỳ Tần cũng không phải mới lần đầu bất kính với Thục phi, việc
này chúng ta đều biết cả. Còn Phỉ Văn ư? Thục phi tuy xem trọng thị nhưng cũng
không phải là để thị ở trong nội điện hầu hạ thường xuyên, mấu chốt trong việc
này...”
Kính Phi thoáng lộ vẻ trù trừ, khẽ lắc đầu
mấy cái. Đoan Phi từ đầu tới giờ gần như không nói năng gì chậm rãi mở mắt ra,
bình tĩnh nói: “Nếu thật sự đúng như lời Kính Phi nói, Phỉ Văn không thường
xuyên vào nội điện hầu hạ, vậy cho dù Ôn thái y và Thục phi thật sự có tư tình
thì cũng sẽ không hẹn hò trước mặt một người ở ngoại điện, việc như thế dù sao
cũng phải đề phòng người ta, ấy thế mà thị lần nào cũng trùng hợp bắt gặp, lại
còn nhìn thấy được rõ ràng như thế nữa. Chẳng lẽ thật sự là trời cao trao cho
thị trách nhiệm lớn, muốn thị vạch trần chuyện xấu xa này? Hay là nha đầu này
quá thông minh cơ trí, lúc nào cũng để ý kĩ càng từng hành vi, cử chỉ của chủ
nhân?”
Kính Phi hít vào một hơi khí lạnh, chiếc hộ
giáp đính ngọc bích gõ vào chiếc bàn gỗ sưa làm phát ra những tiếng “cộc cộc”
nhè nhẹ. “Úi chao, lén lút theo dõi chủ nhân như thế không phải là tội danh nhỏ
đâu. Có điều tại sao nha đầu này lại phải lén lút theo dõi Thục phi như thế
chứ? Thị chỉ là một cung nữ nho nhỏ mà lại có chủ kiến riêng cùng lá gan lớn
như vậy, lẽ nào thật sự có người đứng sau xúi bẩy?” Nói rồi nàng ta liền quỳ
xuống, cất lời thỉnh cầu: “Việc này rất đáng ngờ, xin Hoàng thượng hãy điều tra
cho kĩ. Nếu thật sự có người xúi bẩy, vậy lời của Phỉ Văn không thể tin tưởng
hoàn toàn, chỉ e trong việc này có ẩn chứa một âm mưu rất lớn.”
Chu Bội Tiệp dư cũng quỳ xuống theo, níu tà
áo Huyền Lăng, nói: “Thần thiếp hãy còn một điều nghi hoặc này. Kỳ Tần vốn trú
tại Giao Lô quán, còn Phỉ Văn thì là thị tỳ ở Vị Ương cung. Trong cung ai ai
cũng biết Kỳ Tần có thù oán với Thục phi, hai bên bất hòa, tại sao cung nữ của
Vị Ương cung lại cùng Kỳ Tần chạy tới trước mặt Hoàng thượng vạch trần chuyện
này chứ? Cớ gì không nói với Hoàng hậu trước?”
Dư Dung Nương tử nói: “Ai mà không biết
thân thể Hoàng hậu vừa mới khỏe lại, nhất thời không có sức để ý tới quá nhiều
chuyện. Nhỡ điều mà Phỉ Văn lo lắng thật sự xảy ra, một hôm nào đó Thục phi đột
nhiên ra tay diệt khẩu, Hoàng hậu thì không phát hiện, vậy há chẳng phải là
việc dâm loạn đáng khinh này sẽ bị ỉm đi, rồi bọn họ lại tiếp tục làm bừa làm
bậy với nhau ư?”
Khang Quý nhân vốn không thích Dư Dung
Nương tử xuất thân thấp kém mà đắc sủng, bèn niệm một tiếng “A Di Đà Phật” rồi
nói: “Ta nghe nói người ăn chay niệm Phật lòng dạ đều rất tốt, đến con kiến
cũng không nỡ giẫm chết. Nương nương từng tu hành trong chùa Cam Lộ, cầu phúc
cho xã tắc, sao có thể làm ra những chuyện dâm loạn như thế được.” Khang Quý
nhân từng ở cùng với tôi, ít nhiều cũng còn niệm chút tình cũ, thêm vào đó sau
khi tôi được phong làm thục phi, nàng ta cũng qua lại hết sức ân cần. Chỉ là
Huyền Lăng xưa nay không cho phép các phi tần tự tiện nhắc lại việc tôi xuất
cung năm đó, thành ra những lời này của nàng ta nghe có hơi kỳ quặc.
An Lăng Dung cũng cất tiếng: “Phải đó, tỷ
tỷ từng xuất cung lễ Phật mấy năm, tất nhiên lòng dạ lại càng thêm nhân hậu,
hơn nữa còn có mối duyên sâu với Hoàng thượng, được Bồ Tát phù hộ cho có thai,
thực là phúc trạch sâu dày.” Đoạn nàng ta ngoảnh đầu qua nhìn tôi. “Tỷ tỷ nói
xem có đúng thế không?”
Kỳ Tần nghe thế thì hai mắt đột nhiên lóe
sáng, nhìn chằm chằm vào tôi suốt một hồi lâu. Rồi nàng ta chậm rãi đứng dậy,
chắc hẳn là vì đã quỳ quá lâu, khi đi lại có hơi loạng choạng, cứ thế bước
thẳng tới trước mặt tôi, trầm giọng nói: “Cửa Phật là nơi thanh tịnh, vốn là
nơi để người ta tĩnh tâm tu hành, thế mà Chân thị tính tình dâm tiện, không ngờ
lại từng làm ra việc dâm loạn trong chùa Cam Lộ.” Giọng nàng ta nghe vừa dồn
dập vừa trầm thấp, quỷ dị vô cùng, giống như một con dã thú chuẩn bị đã lâu lúc
này sẵn sàng tung ra một đòn chí mạng.
Tôi nghe thấy ba chữ “chùa Cam Lộ” thì cảm
thấy như bị sấm sét đánh xuống đầu, mồ hôi lạnh không ngớt tuôn ra, không kìm
được lùi về phía sau một bước, trong tai hãy còn vang lên những tiếng ong ong,
hai bàn tay nắm chặt.
Cận Tịch đỡ lấy tôi từ sau lưng, quát lớn:
“Chùa Cam Lộ là thánh tự của triều Đại Chu ta, tiểu chủ ngậm máu phun người như
thế, không sợ bị Bồ Tát trách phạt ư?” Nói rồi bèn ngầm dùng sức nắm chặt lấy
bàn tay tôi, dường như muốn truyền sức mạnh của bản thân qua người tôi vậy.
Kỳ Tần dường như rất hài lòng với vẻ kinh
hãi của tôi, đẩy bàn tay của ả thị nữ đang đỡ nàng ta ra, đi tới bên ghế của
Huyền Lăng, níu lấy tà áo bào của y, cất giọng khẩn cầu: “Sau khi Thục phi bị
đuổi khỏi cung, Ôn Thực Sơ từng rất nhiều lần tới chùa Cam Lộ, cô nam quả nữ
thường xuyên ở chung một phòng suốt một hồi lâu. Hoàng thượng nếu không tin có
thể truyền ni cô của chùa Cam Lộ tới đây hỏi thử.” Hơi dừng một chút, nàng ta
đưa mắt nhìn qua phía Hoàng hậu. “Lúc này người đã ở trong Giao Lô quán của tần
thiếp rồi.”
Hoàng hậu nhìn Huyền Lăng, nói: “Rốt cuộc
có truyền hay không, mời Hoàng thượng làm chủ!”
Huyền Lăng chăm chú nhìn khuôn mặt đã hơi
tái đi của Ôn Thực Sơ, hỏi: “Ôn thái y có ý kiến gì không?”
Hắn cung tay, nói: “Vi thần không thẹn với
lòng, mọi việc đều xin nghe Hoàng thượng.”
Huyền Lăng lại nhìn qua phía tôi, trong vẻ
xót thương không giấu được nét nghi hoặc. Tôi sao không biết y là loại người đa
nghi, bèn khom lưng, nói: “Hoàng thượng có thể truyền người đó tới đây hỏi thử
xem, không phải để chứng minh sự trong sạch của thần thiếp, mà là để giải mối
hoài nghi trong lòng Hoàng thượng.” Hơi dừng lại một chút, tôi nói tiếp bằng
giọng thương cảm: “Bằng không, sau này Hoàng thượng và thần thiếp ở bên nhau,
giữa quân thần phu thê mà nảy sinh khúc mắc, đối với ai cũng đều không tốt.”
Huyền Lăng lộ vẻ khó xử, nếu truyền, vậy
tức là không tin tưởng tôi; nếu không truyền, sự hoài nghi trong lòng khó mà
xua đi được. Hồ Uẩn Dung cất tiếng khuyên nhủ: “Hoàng thượng cứ nên truyền đi,
dù sao hôm nay Kỳ Tần cũng đã nói ra nhiều việc như thế rồi, nếu không truyền
nhân chứng tới thì làm sao cam tâm được, chưa biết chừng sau này lại gây ra
chuyện gì nữa ấy chứ.”
Huyền Lăng trầm ngâm một chút, cuối cùng
lạnh lùng nói: “Truyền!”