Thẩm Trì Phi?
Đúng rồi, đó là tên của tôi.
Tên này được đặt từ bao giờ nhỉ? Nói chung, không phải lúc mới sinh đã có.
Lúc tôi còn là một đứa trẻ sơ sinh, hẳn cũng từng được một đôi tay ấm áp bế lên, phải không? Tôi đoán, đã có người tình nguyện chịu đựng nỗi đau để sinh ra tôi. Người đó chắc hẳn đã từng yêu tôi, chỉ là tôi không biết cảm giác yêu đó là như thế nào — giống như lò sưởi? Hay giống như ánh mặt trời? Mơ hồ quá, như thể bị ngăn cách bởi một lớp kính mờ vĩnh viễn không thể lau sạch.
Có thể tôi đã bị vứt bỏ, cũng có thể là lạc mất một cách mơ hồ.
Tôi không nhớ rõ nữa, từ khi có ký ức, thế giới của tôi đã không còn "nhà", chỉ còn là những bước chân không hồi kết, đói và lạnh.
Tôi đến một nơi, thấy một con chó bị xích vào cột sắt.
Con chó có bộ lông đen, bẩn thỉu, nhưng trước mặt nó có một cái bát cơm cũ nát bị mẻ miệng, bên trong vẫn còn chút bã loãng.
Tôi đưa tay gãi mái tóc đen rối bời, kết thành từng lọn của mình, nhìn nó, rồi lại nhìn chính mình.
Cả hai đều có lông đen, đều bẩn.
Nó ngồi xổm, và có đồ ăn.
Tôi liền bắt chước nó, di chuyển đến phía đối diện cái bát, cũng ngồi xổm xuống.
Cơ thể nhỏ bé co lại thành một cục, tròn mắt nhìn đống bã loãng ấy, lại liếc nhìn con chó kia cũng đang cảnh giác nhìn tôi.
Tôi nghĩ, liệu cứ ngồi xổm như thế này, thì cũng có thể ăn được chút gì đó?
Một người đàn ông xuất hiện. Trên người ông ta có mùi dầu máy lẫn mồ hôi, nhíu mày nhìn tôi: "Con nhà ai đây? Chạy tới đây ngồi làm gì?"
"Con hoang à?"
Ông ta tiến lại gần, có lẽ vì mặt tôi quá lấm lem nên ông ta tặc lưỡi, dùng bàn tay chai sạn tùy tiện lau qua vài cái, rồi bẻ nửa cái bánh bột khô cứng trong tay nhét vào miệng tôi.
"Giống như quỷ đói đầu thai vậy." Ông ta lẩm bẩm.
Tôi vừa nhai vừa nuốt lấy nửa cái bánh, khô đến nghẹn họng, nhưng nó còn ấm.
Ông ta đứng bên cạnh nhìn một lát, không rời đi.
Về sau tôi mới biết, trong nhà máy nếu có người thân đi cùng sẽ được chia đãi ngộ tốt — bao ăn, bao ở, thậm chí còn được phân cho một gian phòng nhỏ riêng biệt.
Ông ta bất ngờ ngồi xuống, đôi mắt rà soát khắp người tôi như đang định giá một món hàng: "Này," ông ta nói với tôi bằng giọng vừa thương lượng vừa có chút tính toán, "nhóc, tạm thời làm con trai tao đi."
Tôi ngậm bánh trong miệng, không hiểu.
Ông ta cúi xuống gần hơn, hạ giọng: "Lát nữa tao dẫn mày đi gặp người ta, mày phải gọi tao là ba, hiểu không? Gọi thử tao nghe một tiếng."
Tôi nuốt ngụm bánh khô cuối cùng, cổ họng nghẹn lại, ráng rặn ra cái từ xa lạ đó bằng giọng nhỏ xíu, thử thăm dò: "Ba... ba?"
"Gọi đúng rồi." Người đàn ông cười vui vẻ.
Người đàn ông đó tên là Thẩm Tự Thanh.
Từ đó, tôi có một cái tên — Thẩm Trì Phi, và có một người ba.
Tôi dọn vào một nơi có bốn bức tường và mái nhà.
Căn phòng không lớn, nhưng rất sạch sẽ, có cửa sổ, ban ngày có ánh sáng chiếu vào, ban đêm có một chiếc đèn điện màu vàng nhạt.
Quan trọng nhất là trong phòng có một lò than đỏ rực, mùa đông tôi ngồi bên cạnh, lần đầu tiên biết cảm giác thế nào là ấm áp. Ngọn lửa màu cam nhảy múa, sưởi ấm đến tận kẽ xương lạnh lẽo.
Khi nhận được suất phân phòng, Thẩm Tự Thanh liền không định giữ tôi lại.
Ông ta trở mặt, nhét cho tôi một cái bánh bao lạnh ngắt, rồi đuổi tôi ra cửa như đuổi ruồi.
"Đi đi đi! Tìm bố mẹ ruột của mày mà về!" Khuôn mặt ông ta đầy bực bội và mất kiên nhẫn. "Mày mà đúng là con tao thì còn đỡ! Nhưng tao đến tay phụ nữ còn chưa chạm vào, mày cứ ở đây mãi cản đường tao lấy vợ, biết không?!"
Tôi bám chặt lấy khung cửa, không hiểu vì sao ông ta không cần mình nữa. Tôi khóc, gào khóc hết sức, tiếng khóc vang vọng trong sân lớn trống trải, nghe cực kỳ chói tai.
Tiếng khóc đã thu hút người đến, là mấy nữ công nhân vừa tan ca.
Họ xúm lại, miệng năm miệng mười chỉ trích Thẩm Tự Thanh: "Lão Thẩm! Anh phát điên gì thế? Đứa bé mới tí tuổi đầu!"
"Đúng vậy! Nhìn hung dữ như quỷ, dọa chết con nít rồi!"
"Đây có thật là con ông không đấy? Có ai nuôi con kiểu vậy không?"
"Nhìn mặt bé khóc kìa, tội nghiệp quá!"
Một bác gái nhân hậu không chịu nổi nữa, tháo chiếc khăn len vừa dày vừa dài trên cổ mình xuống — chiếc khăn đó còn dài hơn cả người tôi — quấn bừa quanh cổ tôi rồi bế tôi lên.
Tôi bị ôm như một con búp bê rách, nước mắt nước mũi tèm lem dính đầy lên áo bà ấy, chiếc áo mang mùi xà phòng.
Cuối cùng, dưới sự uy h**p và trách mắng của mấy nữ công nhân, Thẩm Tự Thanh đành đen mặt đưa tôi trở lại nhà.
Vì căn phòng đó, Thẩm Tự Thanh buộc phải giữ tôi lại, sau này cũng làm thủ tục nhận nuôi chính thức. Bởi vì có tôi ở đó, một vài phụ nữ thích trẻ con hoặc mềm lòng mới chịu bước chân vào căn phòng vốn chẳng ai quan tâm của Thẩm Tự Thanh.
Họ sẽ mang đến vài bộ quần áo cũ, hoặc dùng mảnh vải vụn may cho tôi mấy chiếc áo nhỏ tạm mặc được, thỉnh thoảng còn cho tôi vài viên kẹo.
Thẩm Tự Thanh mặc kệ những chuyện đó, điều ông ta quan tâm là những người phụ nữ kia.
"Chậc chậc, đứa nhỏ này đúng là đẹp trai, giống ai vậy chứ? Sao nhìn kiểu gì cũng chẳng giống lão Thẩm chút nào!" Có người phụ nữ vừa thay đồ cho tôi vừa nửa đùa nửa thật nói.
Nụ cười trên mặt Thẩm Tự Thanh lập tức đông cứng lại, trở nên rất khó coi. Ông ta gằn giọng phản bác: "Mẹ nó là đồ đàn bà lăng loàn! Chạy theo thằng khác rồi! Ai mà biết nó là con thằng khốn kiếp nào!"
Người phụ nữ kia liền bật cười khanh khách, trong tiếng cười chẳng chút giấu giếm sự châm chọc: "Thảo nào mẹ nó bỏ chạy!"
Tiếng cười đó như kim đâm vào tai Thẩm Tự Thanh.
Lần đầu tiên ông ta chủ động và thô bạo đuổi hết những người phụ nữ đến thăm tôi đi.
Cánh cửa đóng sầm lại, ngăn cách thế giới bên ngoài.
Ánh sáng trong phòng lập tức tối sầm.
Ông ta đột nhiên quay lại, vẻ hòa nhã trên mặt biến mất không còn dấu vết, chỉ còn lại cơn giận dữ méo mó.
Tôi còn chưa kịp phản ứng, một cái tát thật mạnh đã giáng thẳng lên mặt tôi!
Tôi ôm mặt, không dám khóc òa lên, chỉ có nước mắt trào ra.
"Thằng súc sinh!" Ông ta chỉ thẳng vào mặt tôi, nước bọt suýt phun cả vào người tôi. "Mày chỉ là thằng nhãi hoang không ai cần! Không biết chui ra từ cái bụng dơ bẩn nào! Nên bố mẹ ruột mày mới coi mày như rác mà vứt đi!"
Đó là lần đầu tiên tôi nghe rõ từ "súc sinh".
Nó như dấu sắt nung đỏ, hằn lên trong tim tôi.
Ông ta thật ra rất ít khi đánh vào mặt tôi, chủ yếu là véo mạnh phần dưới cánh tay, gốc đùi, bên hông — những chỗ mà mặc quần áo sẽ không ai thấy.
Ngón tay ông ta như kềm sắt, móng tay cắm sâu vào thịt, để lại vết bầm tím mấy ngày không tan.
Tôi đã quen rồi, còn nhiều hơn số bát cơm tôi từng ăn.
Thỉnh thoảng ông ta cũng vui vẻ.
Ví dụ như được phát thưởng trong nhà máy, hoặc cảm thấy mình vớ được món hời.
Khi đó, ông ta sẽ vớt một quả trứng luộc nóng hổi từ nồi ra, nhét vào tay tôi: "Nè, ăn đi." Hoặc chẳng biết từ đâu mang về một chiếc xe đồ chơi bằng thiếc bị mất bánh xe, quăng bừa cho tôi.
Căn phòng không lớn, nhưng luôn có một góc dành cho tôi.
Tôi rất vui. Tôi nghĩ, những đau đớn kia là điều đương nhiên, tôi hiếm khi ra ngoài, cũng không rơi nước mắt, và rất ít khi nói chuyện.
Lớn hơn chút, Thẩm Tự Thanh bị người khác thúc giục mới cho tôi đi học.
Học tốn tiền, nên tôi bị đánh.
Trong trường học dành cho công nhân, có rất nhiều đứa trẻ, tuổi còn nhỏ hơn tôi, nhưng đứa nào cũng cao to hơn, mạnh khỏe hơn, mặc quần áo vừa người, trên mặt là ánh sáng rực rỡ mà tôi không hiểu được. Tôi và bọn chúng hoàn toàn không giống nhau.
Tôi không hiểu luật chơi của bọn chúng, cũng không chen vào nổi những cuộc trò chuyện ríu rít ấy.
Người lớn nói sau này tụi nhỏ sẽ là bạn bè của nhau.
Tôi không có bạn, tôi chỉ có ba.
Nhưng tôi nhìn thấy một cậu bé trạc tuổi mình, ngồi xổm một mình trong góc tường, vùi đầu vào gối, vai run lên từng chập.
Cậu ta đang khóc.
Tôi do dự rất lâu, rồi từ từ bò lại gần.
Tôi ngồi xổm bên cạnh cậu ta, nhỏ giọng hỏi: "Ba cậu đánh cậu chỗ nào vậy?" Tôi cố gắng tìm điểm chung, "Ba mình tối qua đá vô đầu gối mình."
Cậu bé ngẩng đầu, trừng mắt nhìn tôi: "Ba tớ không bao giờ đánh tớ!"
"Vậy cậu khóc vì điều gì?"
Tôi tưởng cậu ta khóc vì đau.
"Tớ không muốn đi học! Tớ muốn về nhà! Tớ muốn ba mẹ!" Cậu hét lên, như thể vừa tìm được lối trút cảm xúc, tiếng khóc càng lúc càng lớn, vang trời.
Tiếng khóc đó khiến cô giáo đến gần, vội bước lại, nhẹ nhàng bế cậu lên, ôm vào lòng, vỗ nhẹ lưng cậu, dịu dàng dỗ dành: "Ngoan nào, đừng khóc nữa, tan học là được về nhà rồi, mẹ đang đợi ở nhà đấy..."
Cậu bé nức nở trong vòng tay cô giáo, dần bình tĩnh lại.
Khoảnh khắc đó, tôi như bị vật gì đó đập mạnh vào tim, nước mắt không báo trước, trào ra như thác.
Tôi bắt chước cậu bé kia, tiếng khóc khô khốc, khàn đặc, như tiếng lưỡi cưa gỉ sét — rất khó nghe.
Cô giáo quả nhiên cũng để ý đến tôi, cô bước lại gần, ngồi xổm xuống, quan tâm hỏi: "Sao thế bé con? Em cũng nhớ ba mẹ à?" Giọng cô dịu dàng như cơn gió thổi qua cây hoè già ngoài kia.
Tôi lắc đầu thật mạnh, nhưng nước mắt càng chảy dữ dội.
Cô nhìn dáng vẻ run rẩy vì khóc của tôi, cũng nhẹ nhàng kéo tôi lại, ôm vào lòng.
Vòng tay cô rất mềm, mang theo hương xà phòng nhàn nhạt và mùi nắng, ấm áp lạ thường.
Mặt tôi áp vào vai cô, tiếng khóc kỳ diệu dần nhỏ lại, chỉ còn những tiếng nấc nghẹn ngào.
Lúc đó tôi mới hiểu, thì ra có rất nhiều lý do để khóc, thì ra khi khóc cũng có thể được ôm vào lòng.
Tôi không dám khóc nữa.
Bởi vì tôi là một đứa trẻ mồ côi, tôi không giống họ.
Những đứa trẻ bình thường có ba mẹ, đến trường có người nắm tay đưa đón, trong cặp có giấu vài viên kẹo ngọt, mặc quần áo mới mềm mại, có hộp bút thiếc in hình đẹp đẽ, mở ra còn "cạch" một tiếng vui tai.
Tôi cảm thấy mình không nên đi học.
Như thế, thế giới của tôi vẫn có thể giữ nguyên một màu xám xịt, tôi vẫn có thể tiếp tục lừa mình dối người rằng thế giới vốn dĩ là như vậy — lạnh lẽo, cứng rắn, là nỗi đau và những lời mắng nhiếc không dứt. Nhưng khi lớp sương phủ quanh tôi bị làn gió ngoài kia thổi tan, ánh sáng rực rỡ của thế giới bên ngoài lại làm anh chói mắt đến đau đớn, chỉ là... ánh sáng ấy chưa từng chiếu lên người tôi mà thôi.
Tôi là một đứa trẻ không bình thường, đó không phải thứ tôi có thể có được.
Thẩm Tự Thanh gần ba mươi rồi, ông ta vẫn chưa lấy được vợ, còn dính vào thuốc lá rượu chè, sau lại thêm cờ bạc.
Khoản thu nhập ít ỏi trong nhà cứ thế trôi qua kẽ tay ông ta như nước. Năm mười bốn tuổi, tôi buộc phải bỏ học, bước vào nhà máy từng cho tôi một góc nhỏ nương thân ấy.
Tôi có thể kiếm tiền rồi, trên mặt Thẩm Tự Thanh mới lại có chút tươi cười.
Nhưng những thói xấu của ông ta như vết loét độc bám tận xương tủy. Số tiền tôi kiếm được, ngoài phần đủ sống cho bản thân, phần lớn đều đổ vào hố nợ cờ bạc của ông ta.
Ông ta không còn như khi tôi còn nhỏ nữa, không còn cấu véo, đánh đập tôi. Phần nhiều thời gian là say đến không còn tri giác, như một đống bùn nhão.
Thế cũng có vẻ tốt, ít ra bề ngoài cũng yên ổn, như một vũng nước chết.
Tôi học được cách làm việc trong im lặng, giao tiền trong im lặng.
Nhưng về sau, tôi bắt đầu cảm thấy cơ thể không ổn, thường xuyên mệt mỏi, trong bụng như có hòn đá lạnh cứng, cơn đau âm ỉ không dứt.
Tôi không để tâm, cũng không có thời gian để để tâm.
Chỉ nghĩ, nếu quen rồi thì sẽ ổn thôi.
Cho đến hôm đó, bên cạnh chiếc máy phát ra tiếng ầm ầm, tôi bất ngờ cúi gập người xuống, "oẹ" một tiếng nôn ra một ngụm chất lỏng sền sệt, mang theo sắc đỏ chói mắt và tanh nồng.
Thế giới quay cuồng, tôi được các công nhân hoảng hốt đưa đến bệnh viện.
Năm tôi mười tám tuổi, được chẩn đoán là ung thư.
"Ung thư nghĩa là tôi không sống nổi nữa đúng không?" Tôi hỏi.
"Chỉ là giai đoạn đầu, có thể điều trị." Bác sĩ nói với tôi.
Nhưng tôi biết, điều trị cần rất nhiều... rất nhiều tiền.
Tin tôi mắc bệnh lan khắp nhà máy như cơn gió.
Những bác gái từng cho tôi khăn quàng và quần áo cũ ngày bé, giờ đã là những người phụ nữ trung niên, khóe mắt đã hằn nếp nhăn, nhưng lòng dạ vẫn dịu dàng như xưa. Họ vừa khóc vừa chắt mót, gom góp ít tiền dúi vào tay tôi.
Số tiền đó được bọc trong giấy đỏ, nặng trĩu tay, là tấm lòng nóng hổi.
Nhưng tiền, mãi mãi là không đủ.
Lý lẽ đó, từ nhỏ tôi đã hiểu rõ.
Tôi nói cho Thẩm Tự Thanh biết bệnh tình và chuyện cần thêm tiền chữa trị.
Ông ta như con mèo bị giẫm phải đuôi, lập tức nổi giận, lại tát tôi một bạt tai.
Trước mắt tôi tối sầm, dịch ấm nóng trào ra từ mũi, từng giọt từng giọt nhỏ lên bộ đồ lao động đã bạc màu, như những đóa hoa tuyệt vọng đang nở rộ.
Ông ta chỉ vào mặt tôi chửi, chửi tôi là sao chổi, chửi tôi cố tình hại ông ta.
Khoảnh khắc đó, tôi chỉ nhìn gương mặt méo mó của ông ta.
Trên đời này, tôi chỉ có ông ta, mà ông ta cũng chỉ có đứa "con trai" này là tôi.
Tôi không biết, đây là sự trừng phạt dành cho ai.
Tôi cần phải nhập viện.
Trong phòng bệnh hầu hết là người già, tôi là bệnh nhân trẻ tuổi duy nhất.
Khi họ nhìn tôi bằng đôi mắt vẩn đục, trong ánh nhìn ấy có một nỗi thương xót sâu đậm đến mức khiến toàn thân tôi khó chịu.
Thực ra tôi không muốn chết, thật sự không.
Mười tám tuổi, tôi còn chưa từng thấy ánh mặt trời thực sự trông như thế nào.
Nhưng số tiền trong túi, như cát chảy qua kẽ tay, trôi đi rất nhanh.
Cảm giác sợ hãi quen thuộc bị đói rét rượt đuổi lại trở về, như thể tôi lại trở thành đứa trẻ ngồi xổm bên cạnh bát cơm của chó.
Tôi tưởng rằng người đàn ông đó sẽ không xuất hiện nữa.
Nhưng ông ta đến.
Thẩm Tự Thanh xách theo một hộp giữ nhiệt.
Bên trong là cơm nóng hổi, còn có canh gà béo ngậy nổi lớp mỡ.
Ông ta vụng về đút cho tôi ăn, động tác hơi cứng, thậm chí còn làm đổ một ít lên chăn, có chút canh, tim tôi cũng không còn lạnh như trước.
Ông ta còn chuyển tôi sang một phòng bệnh riêng.
Sau đó bắt đầu có người lạ đến thăm tôi. Họ cầm những khối sắt vuông vức to lớn trông như điện thoại có thể phát sáng chĩa vào tôi, hỏi tôi mấy câu, trong mắt đầy đồng cảm hoặc hiếu kỳ.
Thẩm Tự Thanh luôn là người trả lời trước.
Ông ta nói tôi là đứa trẻ hiểu chuyện, có hiếu, ông ta không hối hận vì đã nuôi tôi, dù không có quan hệ máu mủ, nhưng cũng không khác gì con ruột.
Ông ta ôm tôi, tôi không kiềm được mà rơi nước mắt.
Cứ như vậy, nỗi đau bệnh tật cũng không còn quá khó chịu nữa.
Thế nhưng, khi trong phòng bệnh chỉ còn tôi và ông ta, khi những người lạ biến mất, hơi ấm ấy tan vỡ như bong bóng xà phòng.
Thẩm Tự Thanh không còn ôm tôi nữa, thậm chí hiếm khi nhìn thẳng vào tôi.
Tôi nằm trên giường bệnh, nhìn ông ta ngồi trong góc lướt điện thoại, thi thoảng phát ra mấy tiếng cười hay chửi rủa không rõ nghĩa.
Tôi không nhịn được mà nghĩ, có phải mình lại làm sai chuyện gì không? Có phải mình bệnh lâu quá khiến ông ta phát chán?
Tôi mắc bệnh, ông ta vẫn chịu đến thăm tôi, không vứt bỏ tôi, như vậy đã là đủ rồi.
Từ đó, tôi cứ ở trong bệnh viện, có một lần, tôi nhìn thấy hóa đơn viện phí, ít nhất đã lên đến hai trăm nghìn.
Tôi không biết "ba" tôi lấy đâu ra từng ấy tiền, tôi rất lo, tôi hỏi ông ta.
Ông ta lập tức đánh tôi, chỉ tay vào tôi, ánh mắt hung dữ như muốn ăn thịt người: "Gì cơ? Tao móc cả đống tiền ra chữa bệnh cho mày mà mày còn chê ít? Đồ sói mắt trắng! Thằng khốn! Còn muốn làm con tham lam nữa hả?!"
Máu mũi tôi tuôn ra không ngừng, nóng hổi chảy vào miệng, mang theo vị tanh nồng mùi sắt gỉ.
Khoảnh khắc ấy, tôi nhìn gương mặt hung ác của ông ta, nỗi đau nơi dạ dày và bỏng rát trên mặt đan vào nhau, nhưng trong lòng tôi như bị khoét rỗng một lỗ lớn, gió lạnh rít gào ùa vào.
Bệnh tình tôi trở nặng.
Tôi nằm trên giường bệnh, cơ thể cắm đầy ống, chỉ còn đôi mắt là có thể mở ra.
Ông ta lại đưa vài người đến, ông ta khóc lóc thảm thiết bên giường bệnh.
Hóa ra chuyện của tôi được người tốt đưa lên mạng, tôi không rành mạng mẽo gì, mấy bác gái cho tôi xem báo, trên đó có ảnh tôi nằm trên giường bệnh, rất nhiều người đã đến quyên góp cho tôi.
Giá mà tôi chưa từng học chữ.
Đáng tiếc, tôi đọc hiểu.
Thì ra là vậy.
Thì ra những bát canh nóng, nước mắt, cái ôm, đều là diễn.
Thì ra nỗi đau của tôi, mạng sống của tôi, đều trở thành đạo cụ cho ông ta để cầu xin sự thương hại, đổi lấy tiền bạc.
Ba triệu đó, không phải là tiền cứu mạng tôi, mà là tiền cược của ông ta trên chiếu bạc.
Tôi nghĩ mình sắp chết rồi.
Điều trị bảo tồn không mang lại phép màu, tiền cứ thế trôi vào sòng bạc.
Bác sĩ lắc đầu bảo tôi, có lẽ chỉ còn nửa năm.
Khi Thẩm Tự Thanh nghe tin này, vẻ mặt đau khổ tuyệt vọng của ông ta còn đậm hơn cả tôi.
Ông ta khóc lóc trước ống kính rằng không đủ tiền nữa, kêu gọi mọi người tiếp tục giúp đỡ.
Làn sóng quyên góp dần rút xuống, vận may cờ bạc của ông ta dường như cũng đến hồi kết.
Ông ta lại trở về như trước kia, số lần đến bệnh viện càng lúc càng ít, đến cũng chỉ liếc nhìn một cái rồi cúi đầu chửi rủa vào điện thoại.
Trong phòng bệnh lại chỉ còn tiếng máy móc lạnh lẽo và hơi thở nặng nề của tôi.
Có một chị y tá rất quan tâm tôi, chị sẽ mang cho tôi một bát cháo bí đỏ.
Tôi còn có giá trị với Thẩm Tự Thanh không?
Có.
Hai tháng sau, vào một buổi chiều âm u và lạnh lẽo, ông ta lại xuất hiện trước mắt tôi.
Lần này không mang máy quay, chỉ xách theo một bình giữ nhiệt. Ông ta lặng lẽ đút cho tôi một bát canh nhạt nhẽo.
Sau khi đút xong, ông ta nhìn ra bầu trời mù mịt ngoài cửa sổ, đột nhiên hỏi: "Muốn ra ngoài hóng gió với ba không?"
Tôi nhìn ông ta, trong mắt ông ta thoáng nét chần chừ.
Tôi gật đầu.
Ông ta đẩy xe lăn, đưa tôi lên sân thượng bệnh viện. Gió rất lớn, thổi bay bộ đồ bệnh nhân mỏng dính của tôi phần phật.
Ông ta đẩy tôi đến bên bức tường thấp ở rìa sân thượng, chỉ vào đường chân trời mờ mịt phía xa: "Nhìn xem, bên ngoài đẹp biết bao."
Rồi ông ta quay người đi về phía cánh cửa sắt han gỉ kia.
Ông ta không quay đầu lại, khóa cửa, tiếng bước chân nhanh chóng biến mất trong cầu thang.
Thế giới bỗng trở nên im ắng, chỉ còn tiếng gió rít gào và nhịp tim yếu ớt của chính tôi.
Ông ta muốn tôi chết.
Ông ta chính tay đẩy tôi đến bên bờ vực, rồi khóa luôn con đường lui.
Nhưng tôi không muốn để ông ta toại nguyện, đáng tiếc là tôi không đẩy nổi cánh cửa ấy.
Tôi đã kiệt sức rồi.
Cái lạnh thấu xương bủa vây từ bốn phương tám hướng, lạnh hơn cả gió mùa đông. Dạ dày trống rỗng, cơn đau như tê liệt, chỉ còn lại một cảm giác mệt mỏi vô hạn.
Tôi chết vì đói, hay vì bệnh?
Tôi không biết.
Ý thức như chiếc diều đứt dây, chao đảo, rơi rụng trong gió.
Tầm nhìn từng chút một bị bóng tối nuốt chửng.
Cảm giác cuối cùng là cái lạnh xuyên tủy, và một sự giải thoát tận sâu trong xương cốt.
Khi tôi mở mắt lần nữa, trước mắt không còn trần nhà trắng toát của bệnh viện, cũng không còn mùi thuốc sát trùng gay gắt.
Chỉ còn một ngọn đèn.
Một chiếc đèn đen cổ kính, lơ lửng giữa bóng tối vô biên.
Nó lặng lẽ treo đó, như một ngôi sao tồn tại từ thuở hồng hoang.
Một bản năng không thể diễn tả thành lời thôi thúc tôi. Tôi đưa tay ra — đó không còn là bàn tay gầy yếu b*nh h**n nữa, mà là một dạng ý niệm gần như vô hình — chạm vào ngọn đèn lạnh buốt kia.
Một tia ấm áp yếu ớt truyền đến từ đầu ngón tay.
Tôi đã thắp sáng tim đèn.
Ngọn lửa xanh lam yếu ớt nhưng kiên cường, bắt đầu bập bùng.
Thế giới, một lần nữa được ánh sáng bao phủ.
Nhưng ánh sáng này, không còn chói lòa, nó lạnh lẽo và sâu thẳm, soi chiếu bóng tối vô biên xung quanh.
Thế giới sau cái chết là như vậy sao?
Mùi máu, nỗi đau của vết thương, khoảnh khắc sinh tử.
Người ở đây nói, đây là địa ngục.
Tôi cúi đầu, nhìn thân thể khỏe mạnh, cường tráng của mình.
Không.
Thẩm Trì Phi đã chết rồi.
Người đứng đầu bảng xếp hạng người chơi – "Trầm Mặc".
Đây là thiên đường của tôi.