Đó là một cây rìu,
chính là cục sắt nóng vừa được Nhậm Hoả Cuồng rèn xong. Cây rìu kích
thước tương đương với lưỡi rìu sắt của Tùng Đắc Kim, khác chăng là phần
cán cũng rèn từ sắt, sờ vào không bỏng, chỉ cảm thấy âm ấm ở tay. Trong
khi phần lưỡi rìu giống hệt cây dùi sắt trong tay Nhậm Hoả Cuồng, toả
màu vàng sẫm lấp loáng một vệt đỏ như máu, toả nhiệt phừng phừng.
Một đao thủ nhào tới, định ngăn cản đường bay của lưỡi rìu, song đã muộn.
Thế là gã thuận đà đưa lưỡi đao đang vung giữa không trung chém về phía
đỉnh đầu Tùng Đắc Kim. Tùng Đắc Kim chỉ còn biết cuống cuồng vung rìu
lên đỡ. Đao rìu chạm nhau, kêu lên chát chúa. Đao thủ rớt xuống đất,
suýt nữa thì ngã nhào, thanh đao cũng sém bật khỏi tay. Trong khi lưỡi
rìu không hề suy suyển, đòn lấy cứng chọi cứng vừa rồi đã bộc lộ rõ rệt
ưu thế về sức mạnh của Tùng Đắc Kim.
Lưỡi rìu vẫn chưa chịu dừng
lại, mà xoay trên đầu Tùng Đắc Kim một vòng nhỏ, rồi chém về phía đao
thủ. Đao thủ vừa khó khăn lắm mới đứng vững được, nên khi lưỡi rìu bổ
tới, có muốn thoái lui cũng không kịp nữa. Huống chi địa hình nơi đây
dốc tuột, khó mà lùi bước lên trên. Đao thủ chỉ còn biết vung tay trái
lên đỡ theo phản xạ, lập tức một cẳng tay rơi phịch xuống nền tuyết
trắng. Vết chém chỉ hơi rỉ máu do lưỡi rìu nóng bỏng đã hàn kín vết
thương. Máu dính trên lưỡi rìu bốc cháy xèo xèo, khói bốc mù mịt, mùi
máu tanh lợm.
Vết cắt để lại trên cánh tay bị đứt đã khiến bọn
đao thủ kinh tâm động phách. Bọn chúng đều đã nhận ra, lưỡi rìu kia sắc
bén bội phần so với lưỡi đao trong tay chúng. Nếu là một loại binh khí
nào khác thì không có gì ngạc nhiên, song đây chỉ là một lưỡi rìu mới
được rèn xong, tôi trong tuyết lạnh, chưa từng mài lưỡi.
Khảm
diện Công tập vi đã thoái lui, song trong khi lùi vẫn giữ đúng chiêu
pháp, không hề rối loạn. Chúng vừa lùi vừa tung chân đá tuyết, khiến
tuyết bay mù mịt thành một bức tường trắng xoá che chắn cho thân hình
cũng một màu trắng của chúng. Trước khi rút đi, chúng không quên tặng
cho tên đồng bọn trúng đạn ở bụng đang nằm thoi thóp trên sườn núi một
phi tiêu tròn hình cánh mai.
Tay súng và bầy sói ở mé bên sườn
núi không biết đã lặng lẽ rút lui tự lúc nào. Ngoài vài xác sói to lớn
nằm ngổn ngang trên tuyết, không hề lưu lại bất cứ một vết tích nào có
khả năng hé lộ thân phận. Song quan sát dấu vết tại nơi ẩn phục, có thể
khẳng định rằng chỉ có một người. Điều này khiến Lỗ Nhất Khí vừa cảm
kích lai vừa khâm phục, người này có thể liền lúc bắn hai phát súng, cho thấy tốc độ đã đạt tới mức xuất thần nhập hoá. Song vẫn còn một điều
rất khó lý giải, không hiểu tay súng kia đã lắp đạn như thế nào, bởi lẽ
trong toàn bộ quá trình, người đó đã bắn liền mười phát súng rnà không
hề có lúc nào ngừng ngắt để nạp đạn. Hẳn là người này sử dụng hai khẩu
súng liền một lúc, hoặc là khẩu súng có cấu tạo đặc biệt.
Tay nỏ nằm gục trên tuyết, một bên cánh nỏ gãy rời, dây nỏ bằng sắt siết sâu vào cổ họng.
Nhậm Hoả Cuồng cúi xuống nhặt thanh đao bên cạnh một xác chết lên, đưa cho
lão mù. Lão mù hiểu ý, đưa ngón tay vuốt nhẹ lên thân đao, sau đó nói
chắc như đinh đóng cột:
– Không phải là đao này! Lưỡi đao này
nhọn và hẹp hơn. Lưỡi đao đâm chết bà nhà ông rộng hơn lưỡi đao này hai
ngón tay, và ngắn hơn một chút.
– Loại này là đao bạt phong*, nếu rộng hơn hai ngón tay và ngắn hơn một chút, có lẽ chỉ có thể là hai
loại đao lang nha và đao kích ca** không có vòng che tay. Đao không
đúng, chứng tỏ vẫn còn kẻ bám theo chưa xuất đầu lộ diện! – Kết luận của Nhậm Hoả Cuồng khiến mọi người có phần căng thẳng. Khảm diện của đối
phương chỉ vừa mới mở, người trong bóng tối còn chưa thấy mặt, mà cả bọn đã phải chống đỡ giao tranh đến hồn kinh phách tán.
* Hình đao
thân rộng mũi nhọn, lưỡi đao hơi uốn cong, có thể chém, đâm với tốc độ
cực nhanh. Đặc biệt là khi xuất đao thình lình rất khó phát giác, tựa
như luồng gió vụt đến, bởi vậy có tên là đao bạt phong (gió thổi).
** Một loại đao của người Hung Nô, cán đao và thân đao liền thành một
khối, tạo hình khá đơn giản sơ sài. Cũng chính vi tạo hình đơn giản, nên khi gõ đập vào nó sẽ phát ra âm thanh trong vang, người Hung Nô thường
dùng nó để gõ nhịp ca hát, nên mới có tên là đao kích ca.
Phó Lợi Khai có vẻ tiếc rẻ khi nhặt lấy thanh loan đao đã bị chém đứt thành hai đoạn đang nằm trong tuyết. Gã xem xét kỹ lưỡng đường cắt một lúc, rồi
lẩm bẩm một mình:
– Đao bạt phong của lũ đồ tể này quả nhiên lợi hại, đám đai sắt ở Kim gia trại có phải bị thứ này cứa đứt không nhỉ?
Lỗ Nhất Khí nghe vậy, không hề cảm thấy ngạc nhiên. Đúng như cậu đã dự
đoán, lỗ hổng trên hàng rào của Kim gia trại là do đối thủ mở ra. Mở sẵn một lối ra thênh thang như thế, còn mục đích nào khác là dụ bọn họ đi
đúng theo lộ trình mà bọn chúng đang mong đợi.
Nhậm Hoả Cuồng lần mò trong tuyết, nhặt lên vài món đồ ông vừa rèn thành khi nãy, đưa cho
Phó Lợi Khai một thanh loan đao với phần lưỡi ở bên trong, rồi đưa cho
Quỷ Nhãn Tam một cây xẻng lưỡi cày. Cũng giống như lưỡi rìu trong tay
Tùng Đắc Kim, chúng hoàn toàn được rèn từ sắt, loé lên sắc vàng trầm
bóng bẩy, Xen kẽ vài tia đỏ tươi như máu.
– Tôi vừa rèn theo
những món đồ lề trong tay mọi người. Thiết nghĩ con cháu họ Nghê làm sao có thể thiếu được lưỡi xẻng, nên tiện tay đánh luôn một cái. Tôi đã cho thiên thạch pha trộn vào trong chất liệu, nên sau khi chế thành, không
thể mài phần lưỡi được. Bởi vậy tôi đã khống chế độ lửa ở mức ba lớp
xanh, trực tiếp rèn ra phần lưỡi đao, sau đó lợi dụng tuyết lạnh để tôi, như vậy thành phẩm không những cứng rắn sắc bén tuyệt luân, mà còn bền
vững rất mực. Đám quang gánh kia tôi chẳng muốn quẩy theo nữa, nên thứ
này cho cậu, không chừng về sau hữu dụng cũng nên! – Nhậm Hoả Cuồng nói
xong, nét mặt bình thản, trao lại miếng thiên thạch Kim Cang cho Lỗ Nhất Khí, khiến cậu không khỏi ngại ngần. Bảo bối vừa đặt trong tay, Lỗ Nhất Khí lập tức cảm nhận thấy làn khí tướng trầm vàng lóng lánh bừng bừng
lan toả, xoay tròn như một hình xoáy ốc rực rỡ giữa lòng bàn tay.
Lỗ Nhất Khí cũng không khách sáo chối từ, cẩn thận cho viên thiên thạch
vào trong túi da hươu mà Nhậm Hoả Cuồng đưa cho, cất vào trong ngực áo,
rồi nói:
– Cảm ơn chú, chú Nhậm! Tôi sẽ giữ tạm, lúc nào chú cần dùng, tôi sẽ trả lại cho chú!
Nhậm Hoả Cuồng chỉ cười, khẽ lắc đầu một cải, rồi quay đi thu dọn đồ đạc.
Ông ta không quẩy gánh rèn theo nữa, nên chỉ nhặt nhạnh búa rèn, kìm lửa và cây đao bạt phong mà đối thủ để lại, cho tất vào sọt, rồi xiên dùi
sắt qua miệng sọt, gác lên vai, đi thẳng xuống sườn núi.
Cuộc
giằng co kéo dài vừa qua đã khiến mọi người thân tâm rệu rã, song không
ai đề nghị nghỉ ngơi, bởi lẽ họ đều ý thức được mức độ nguy hiểm của
chốn này.
Đi tới bên rìa rừng sam đỏ, ba đống lửa gần như đã lụi
tàn. Đáng lẽ còn có một tay nỏ bị bắn trọng thương tai chỗ, song cao thủ đạt đến tầm cỡ này, chỉ cần chưa chết chắc chắn sẽ không chịu ở nguyên
một chỗ chờ người tới bắt.
– Bọn người này có thể vây bọc chúng
ta từ hai phía, chứng tỏ đối phương đã vượt lên trước chúng ta! – Thuỷ
Băng Hoa lên tiếng. Điều này thì tất cả mọi người đều đã nghĩ tới.
– Nếu lần ra được vết tích của thằng khốn kia rồi bám theo sau, sẽ dễ
dàng đến được đúng nơi, tiết kiệm bao nhiêu sức lực! – Phó Lợi Khai vừa
nói vừa láo liên đôi mắt bên to bên bé quan sát xung quanh.
Quỷ
Nhãn Tam cầm lấy chiếc xẻng lưỡi cày, ngồi thụp xuống thận trọng gạt nhẹ lớp tuyết từng chút một, mong tìm được dấu vết nào đó dưới lớp tuyết
dày.
Nhậm Hoả Cuồng quét mắt sục sạo về phía cánh rừng xa hơn, rồi nói chắc như đinh đóng cột:
– Đi theo tôi! Thằng khốn kia chắc chắn đã chạy theo lối đó!
Lần này Tùng Đắc Kim xách rìu đi ngay phía sau Nhậm Hoả Cuồng. Giờ đây đối
thủ đã xuất đầu lộ diện, nên không cần thiết phải kéo chạc cây xoá dấu
chân trên tuyết nữa.
Quỷ Nhãn Tam tụt lại sau cùng, đi trước hắn là Lỗ Nhất Khí và lão mù. Hai người vừa đi vừa thậm thà thậm thụt.
– Chú Hạ! Ông Nhậm kia quả thực không phải tầm thường! – Lỗ Nhất Khí nói.
– Đương nhiên rồi! Còn nhớ năm xưa hắn một đêm đánh ba sợi xích trăm mắt
bằng thép cứng, phong trấn quái thú bốn vây tại cảng Cổ Mã; nung chảy
nước đồng đỏ bí mật của Đạo gia, phá vỡ khoá Lung linh phong hồn; chế
tác chuỳ lá vàng móc ngược, mở lọng kinh trụ thẳng khung xương… Nhờ vào
một tay kỹ nghệ, giành được biệt danh “Thiết thủ kỳ công” trong chốn
giang hồ!
– Giọng nói của lão mù tràn đầy niềm khâm phục.
“Trông ông ta chẳng khác gì một thợ rèn bình thường, thật không ngờ bản lĩnh
lại cao siêu đến vậy!” – Lỗ Nhât Khí thầm nghĩ trong lòng.
– Hắn
vốn là người Quan Nội, giang hồ đồn đại lúc hắn mới sinh ra là một quái
thai, lòng bàn tay lòng bàn chân phủ lớp sừng dày, từ nhỏ đã có thể chọc tay vào lửa, giẫm chân lên than. Chính vì điểm đó nên sau này đã được
một cao nhân nhận làm đồ đệ, dạy cho nghề rèn mà trở thành một thợ sắt
kỳ tài. Nhưng về sau không hiểu tại sao lại đột nhiên chạy tới Quan
Đông, mai danh ẩn tích chốn núi rừng, danh tiếng lẫy lừng trong giang hồ cũng dần dần mai một.
– Ồ! Lòng bàn tay và bàn chân ông ta có lớp sừng dày ư? Sao tôi không nhìn thấy nhỉ? – Lỗ Nhất Khí rất đỗi ngạc nhiên.
– Không còn nữa rồi! Nghe nói theo nghề rèn lâu năm nên lớp sừng đã bị
mài mòn, song tay chân hắn chịu nóng rất tài, không rõ là do rèn luyện
hay là bẩm sinh đã thế.
– Sắt nóng đỏ còn không sợ, vậy tay ông ta khác gì tay thần! – Lỗ Nhất Khí càng nghe càng cảm thấy tò mò.
– Không đến mức thế đâu! Lời đồn đại trong giang hồ thường thổi phồng
thái quá. Hắn là bạn của cha cậu, có lần ta đã nhờ người nhà cậu xin hắn rèn giúp một món binh khí cổ quái, bác cậu đã kể thực cho ta hay. Hắn
giỏi chịu nóng là có thật, nhưng cũng chỉ có giới hạn, song sức chịu
nóng của hắn cao hơn gấp nhiều lần so với người bình thường. Kỹ nghệ rèn của hắn quả thực cao siêu đến dị thường, cùng một khối nguyên liệu
nhưng mỗi bộ phận lại có thể tôi rèn ở những nhiệt độ khác nhau, nhiệt
độ tại vị trí mà hắn nắm vào sẽ được khống chế trong phạm vi mà hắn có
thể chịu đựng.
– Chú Hạ! Trước kia chú đã từng gặp mặt ông ta chưa? – Lỗ Nhất Khí đột nhiên đưa ra câu hỏi.
– Biết nói thế nào nhỉ, khi gặp hắn thì ta đã mù rồi. Hơn nữa lúc đó khi
ta nói ra yêu cầu chế tác, hắn chỉ nghe mà không nói một lời, cầm nguyên liệu rồi đi ngay. Bởi vậy có gặp cũng như chưa gặp.
– Vậy thì chí ít ông ta cũng biết mặt chú! Mà chú Hạ, sau khi gặp lại, ông ta có chào hỏi chú tiếng nào không?
– Không! Có lẽ số người nhờ hắn rèn đồ quá nhiều, hắn đã quên ta rồi. Mà
kể cũng lạ, thứ ta nhờ hắn rèn cho có lẽ trên đời này chỉ có một không
hai, đáng lẽ hắn phải nhớ mới phải chứ! – Lão mù cũng cảm thấy có chút
ngạc nhiên, song lời nói của lão càng khiến Lỗ Nhất Khí kinh ngạc hơn
nữa. Tạm chưa nói đến thứ lão mù nhờ rèn quái dị đến dâu, chỉ riêng diện mạo bất thường và biệt danh Tây Bắc tặc vương của lão, dù thời gian đã
qua vài chục năm hẳn vẫn phải nhận ra mới đúng, ở đây chắc hẳn có gì đó
bất thường.
– Cậu cả, cậu đang nghi ngờ thân phận của hắn đúng
không? Nhưng ngay cả thiên thạch hắn cũng mang tặng cậu rồi! – Nhìn vào
nét mặt của lão mù, có thể thấy lão không muốn tin vào điều này.
Quỷ Nhãn Tam đang theo sát phía sau bỗng chen vào một câu:
– Đáng ngờ! Đến thiên thạch cũng cho, kỳ công Quan Ngoại mà không xem
trọng món này? Hoang đường! Nghĩ xem, làm như vậy có ích gì? Xoá bỏ nghi ngờ của người khác!
Lời nói của Quỷ Nhãn Tam khiến Lỗ Nhất Khí và lão mù cũng cảm thấy có lý.
Một canh giờ nữa lại trôi qua, bầu trời bắt đầu lờ mờ sắc trắng, mảnh trăng lưỡi liềm nhoà nhạt chênh chếch phía trời tây.
Phó Lợi Khai từ đầu chí cuối luôn bám sát phía sau Thuỷ Băng Hoa. Lúc này
tư thế bước đi của gã cũng thiếu tự nhiên hệt như vẻ mặt gã, người cúi
gập về phía trước, mặt ghé sát vào chỗ eo thắt mông nhô của Thuỷ Băng
Hoa, thi thoảng lại đưa tay vịn vào hông eo cô ta. Trông thì có vẻ rất
quan tâm đến Thuỷ Băng Hoa, sợ cô ta trượt ngã, song những người đi sau
đều biết gã ta đang lợi dụng để sờ soạng. Thuỷ Băng Hoa dường như đã quá quen với việc bị đàn ông cố tình đụng chạm, nên cũng chẳng có phản ứng
gì.
Song có người lại cảm thấy Phó Lợi Khai có ý đồ khác, bởi lẽ
những hành động đó có thể kéo gần khoảng cách giữa khuôn mặt gã và bộ
mông của Thuỷ Băng Hoa. Trên mông của Thuỷ Băng Hoa có một mảnh da, một
mảnh da mà Quỷ Nhãn Tam đã để ý từ trước đó. Bởi vậy, đương nhiên Quỷ
Nhãn Tam cũng nghĩ rằng gã lái gỗ kia hẳn đang tò mò với mảnh da trên
mông cô ta.
– Đường mòn Sam Đỏ!
Nhậm Hoả Cuồng đột ngột
bật kêu lên. Đúng vậy, sau vượt qua một ngọn núi nhỏ, con đường mòn phủ
dày tuyết trắng len lỏi qua rừng sâu đã hiện ra trước mặt họ. Con đường
rất hẹp, chỉ đủ cho một người một ngựa băng qua. Đây là con đường tắt do những đoàn ngựa buôn chở hàng lên phía bắc buôn bán với bọn Nga La Tư
giẫm đạp lâu ngày mà thành.
– Thằng khốn què mẻ kia đã chạy theo
lối này, xem ra đối thủ quả thực đã đi trước ta một bước! – Giọng nói
của Nhậm Hoả Cuồng đầy vẻ lo lắng.
– Ông thợ rèn, sao ông biết? – Tùng Đắc Kim đúng là một gã ngờ nghệch, chẳng biết thế nào là kỵ huý
giang hồ, mở miệng hỏi thẳng.
Nhậm Hoả Cuồng không trả lời, làm
như không hề nghe thấy câu hỏi của gã, chỉ lẳng lặng đi về phía đường
mòn. Thái độ của ông ta càng dễ gợi lên trong lòng người khác một mối
hoài nghi.
Đường mòn Sam Đỏ không phải là một con đường thẳng, mà quanh co lên xuống men theo các rừng cây sườn núi. Sau khi vòng qua một khúc ngoặt gấp, tầm mắt bỗng nhiên mở rộng thênh thang, bởi lẽ phía
trước mặt họ là một vùng thấp bằng phẳng, phóng mắt nhìn ra, thấy núi
non trùng điệp chạy dài, rừng cây bạt ngàn ngút mắt.
Quang cảnh
trước mắt khiến Lỗ Nhất Khí đột nhiên khựng lại, ánh mắt chợt trở nên
mông lung lơ đãng, dõi theo con đường quanh co uốn lượn kéo dài đến tận
phương nào, trong miệng lẩm bẩm điều gì không rõ.
Phó Lợi Khai
nhìn thấy ánh mắt kinh ngạc của Thuỷ Băng Hoa phía trước, mới quay đầu
lại nhìn bộ dạng của Lỗ Nhất Khí. Gã bèn lùi lại hai bước, ghé sát vào
Lỗ Nhất Khí, không nói câu nào, chỉ chăm chú nghe xem Lỗ Nhất Khí đang
lẩm bẩm điều gì.
– Mả mẹ! Mả mẹ!
Phó Lợi Khai ngạc nhiên, không ngờ từ miệng Lỗ Nhất Khí có thể thốt ra những lời bất nhã đến vậy.
Đột nhiên, Lỗ Nhất Khí nhãn thần ngưng tụ, nhãn quang rạng ngời chiếu bừng tứ phía, khiến Phó Lợi Khai giật bắn cả người.
– Ở đây! Tôi cảm giác đã gần đến đích rồi! – Không chỉ ánh mắt mà giọng
nói của cậu cũng hưng phấn khác thường. Cảm giác mách bảo cậu rằng, vùng “đất mẹ” ghi trên thẻ ngọc đang ẩn sau những đỉnh núi nhấp nhô cách đó
không xa.
Suy đoán rất chính xác, quyết định cũng sáng suốt. Theo lời Thuỷ Băng Hoa, tay thợ sâm có tấm bản đồ trước khi chết luôn miệng
lảm nhảm “Mả mẹ! Mả mẹ!”. Nghe cô ta kể lại, Lỗ Nhất Khí đã cảm thấy có
chút bất thường. Có câu “con người sắp chết, lời nói thiện lành”, nên gã thợ sâm lúc gần tắt thở không thể lại lôi mẹ ra chửi, mà hẳn đang nhớ
đến thứ đã khiến gã lưu luyến khó quên không nỡ từ bỏ nhất. “Mả mẹ” liệu có phải là “đất mẹ” không? Mà đất mẹ chẳng phải chính là “đất mẫu tính” hay sao?
– Tiếp tục đi về phía trước hẳn sẽ gặp một địa danh
liên quan tới mẹ! – Lỗ Nhất Khí quay sang Nhậm Hoả Cuồng mà nói. Ông ta
là người dẫn đường, đương nhiên sẽ phải thông thạo nơi này.
Vẻ
mặt Nhậm Hoả Cuồng lộ rõ sự ngỡ ngàng. Quỷ Nhãn Tam đã nhận ra, ông ta
dẫn dường không phải vì thông thạo vùng này, mà dường như đang lần theo
một dấu hiệu nào đó, dường như phía trước có người chỉ đường dẫn lối cho ông ta.
– Ở đây có một truyền thuyết kể rằng, có một thiếu nữ
xinh đẹp sau khi xuống sông tắm, về nhà bỗng mang thai, tròn mười tháng
sau sinh ra một con rồng đen. Cô gái khó sinh, sau khi sinh hạ rồng con
thì qua đời, hoá thành một dãy núi trùng điệp. Rồng đen không có mẹ dạy
dỗ, nên tác oai tác quái thổi gió phun mưa. Cho tới một ngày kia, người
mẹ hoá thành núi bỗng hồi sinh, cảm hoá được con rồng, khiến nó ẩn mình
dưới dòng sông cả nghìn năm. Theo như tôi biết, dãy núi mà người mẹ hoá
thành trong truyền thuyết ở cách đây không xa, nhưng cụ thể là nơi nào
thì tôi không rõ! – Thuỷ Băng Hoa khi ở Kim gia trại đã nghe được rất
nhiều truyền thuyết và sự tích, nên những hiểu biết của cô ta về vùng
núi Đại Hưng An rất phong phú song cũng có phần quái đản. Lỗ Nhất Khí
vừa khơi ra một câu, cô ta đã thao thao bất tuyệt hàng tràng.
Một nụ cười nhăn nhở khiến khuôn mặt vẹo vọ của Phó Lợi Khai càng thêm phần khả ố, bên mép còn nhễu cả bọt trắng:
– Gần đây có một dãy núi gọi là núi Hai Gối, kỳ thực gồm hai ngọn núi là
núi Gối Trái và núi Gối Phải. Từ núi Hai Gối đi tiếp về phía trước, sẽ
đến núi Hai Vú, một dãy hai đỉnh, giống hệt như ngực đàn bà. Từ xa nhìn
lại, mấy dãy núi trông chẳng khác gì một người đàn bà loã thể nằm ngửa
gập gối dạng chân, vừa giống như đang sinh con, vừa giống như đang chờ
đợi… – Nói chưa dứt câu, gã lái gỗ đã bật cười khùng khục.
Không
những có “mẫu tính”, mà còn có “hắc long”, Lỗ Nhất Khí vô cùng phấn
chấn, đưa ánh mắt khẩn thiết nhìn Thuỷ Băng Hoa. Đúng vậy, giờ đây họ
cần đi theo con đường mà Thuỷ Băng Hoa biết, nên đã đến lúc cô ta phải
chỉ đường cho họ.