Tiểu Mãn tiễn một vị y sĩ cuối cùng, đang định quay về hậu trạch, Nhâm Uy đột nhiên vội vàng tới, không đầu không đuôi nói một câu:
- Đại nương tử, A lang đột nhiên rời khỏi phủ.
Tiểu Man giật mình, ngạc nhiên nói:
- A Lang rời phủ, còn cần phải có người cho phép sao?
Nhâm Uy đầy đầu mồ hôi nói:
- Không phải, a Lang đột nhiên lấy một con ngựa, vội vàng rời phủ. Ta nghe thấy tin vội đi ngay, đã không thấy a Lang đâu rồi, A lang không cần bất cứ ai hộ tống.
Dương Phàm hiện nay thân phận bên ngoài tôn quý, thân phận bên trong càng tôn quý hơn, xuất nhập đều có bảo vệ, có thể nói là đề phòng nghiêm ngặt, nhưng Dương Phàm hôm nay đột nhiên rời đi một mình, không thông báo cho bất cứ thị vệ nào đi cùng, việc này trước giờ chưa từng xảy ra.
Tiểu Man hơi nhíu mày, có chút khó hiểu với hành động kỳ lạ này của Dương Phàm. Nhưng, Dương Phàm vẫn là chủ động rời đi, lại không gọi người đi cùng, hẳn là có nguyên nhân của hắn, Thành Lạc Dương rộng lớn, bây giờ đi tìm, có thể đi đâu mà tìm hắn chứ?
Tiểu Man ngẫm nghĩ một lát, liền nói:
- Lang quân làm như vậy ắt là có dụng ý của chàng, các người không cần lo lắng, quay lại chờ đi.
Nhâm Uy thấy đại nương tử nói vậy, chỉ chắp tay nói:
- Vâng
Thành Lạc Dương nằm ở phía đông nam, ở đây vốn chính là nơi người thưa thớt, bởi vì một trận hồng thủy, càng thêm hẻo lánh.
Một số học trò du học ở kinh thành và những người ngoại tỉnh tới Lạc Dương làm việc đều thích sống ở nơi này, ở đây môi trường thanh tịnh, hơn nữa giá thuê phòng xa trung tâm thành một chút khá rẻ, nhưng sau trận hồng thủy, vật giá ở Lạc Dương tăng vọt không thể hạ, những người này có thể rời đi thì đều rời đi, các phường thành nam vì vậy là càng thêm vắng vẻ.
Dương Phàm trong phường trống rỗng, lao nhanh ngựa dọc theo ngõ dài không người, bùn nước trên mặt đất còn chưa sạch, bùn nước bề mặt đã khô rồi, nhưng một chân đạp xuống, dưới vẫn là bùn lầy như cũ, con ngựa tuyết trắng, trên lưng ngựa đùi ngựa đã loang lổ vết bùn, Dương Phàm đánh ngựa rất vội, nhưng ngựa bì vùi trong vũng lầy, lại không sao nhanh được.
Phía trước xuất hiện một cánh cửa, cột cờ, con thú đá trên bậc và trên cửa đều có dấu vết của nước bùn, Dương Phàm nhảy xuống khỏi ngựa, bước một bước dài lên bậc thang, nắm vội lấy cái vòng đồng trên cửa, gõ “thình thịch”.
Thình thịch”, Dương Phàm cầm lấy vòng đồng, cũng không biết bao lâu, chợt buông vòng đồng xuống, lùi vài bước, định phóng qua tường mà vào thì cửa phủ két một tiếng, mở ra.
Đứng ở cửa là Thuyền Nương, mặc một bộ áo quần màu xanh, bên hông kẹp một dây lụa màu trắng, có vẻ rất gọn gàng. Nàng thấy người tới là Dương Phàm, lộ ra chút vẻ bất ngờ, nhưng trên mặt vẫn không có vẻ gì là quá mức rõ ràng. Dương Phàm lặng lẽ nhìn nàng, một lúc không nói câu nào.
Dương Phàm không ngờ, lại biết được tin tức của Ninh Kha cô nương từ miệng của Khương y sĩ, hắn không biết Ninh Kha cô nương đã tới Lạc Dương, không biết Ninh Kha đã ở Lạc Dương lâu như vậy. Không biết Ninh Kha và hắn sống trong cùng một thành thị, lặng yên ở bên cạnh hắn, hắn càng không biết Ninh Kha...đã ngọc nát hương tàn.
Ninh Kha ở trong tim hắn, giống như là ánh trăng sáng tỏ trên bầu trời, dường như rất xa, lại dường như rất gần. Hắn có thể bất cứ lúc nào cảm nhận được ánh trăng dịu dàng kia, nhưng chỉ có thỉnh thoảng nghĩ lại, mới có thể ngẩng đầu liếc mắt một cái.
Hắn thích Ninh Kha cô nương, nhưng chưa từng nghĩ sẽ theo đuổi nàng. Không chỉ là lúc đó có khoảng cách về thân phận, càng quan trọng hơn là sự tinh khiết trong tận xương tủy của Ninh Kha cô nương. Đó là một sự thuần khiết mà đủ để bất cứ người đàn ông nào trong thiên hạ đều tự thấy xấu hổ.
Cho tới khi đột nhiên nghe tin nàng đã qua đời, sợi tình như có như không trong lòng mới đột nhiên thắt chặt lại, khiến cho trái tim đè nén bao lâu nay của hắn càng đau, hắn không chút nghĩ ngợi liền lấy ngựa mà đi, nhưng đợi khi hắn chạy tới nơi mà Khương y sĩ nói, trong lòng hắn lại chỉ còn chút ngẩn ngơ.
Động, hắn không biết nên hành động thế nào; nói, hắn không biết nên nói lời gì; Là nước mắt, cũng là mơ hồ khóc trong nõi đau mà không ra nước mắt.
- Dương tướng quân?
- Cô ấy...còn ở đây không?
Thuyền Nương gật đầu, đôi mắt đỏ ửng.
Dương Phàm run run nói:
- Ta muốn gặp cô ấy, được không?
Thuyền Nương không nói mà gật đầu, khẽ mở cửa, tránh sang một b ên.
Dương Phàm không để ý tới con ngựa dưới kia, lặng lẽ đi vào, cửa lại đóng lại.
Nhìn ra được, nơi đây từng là một trang viên vô cùng tao nhã, đẹp đẽ, nhưng bây giờ đều là vết tích của hồng thủy tràn qua. Thuyền Nương đều một mình dọn dẹp chỗ sân to lớn này, cho tới lúc này cũng chỉ rửa sạch được một chút đường nhỏ mà thôi. Thuyền Nương lặng lẽ đi phía trước, dải lụa trắng bên hông lắc lư.
Trong hậu trạch, hồ nước đã bị bùn lầy lấp đầy, bây giờ xem ra giống như là một mãnh hoang dã, hậu trạch rất lớn, bên hồ còn có một ườn núi lĩnh, trên lĩnh có đã có cây còn có cả một ngôi đình năm góc, vì ở đây không bị hồng thủy ăn mòn, trong cả trang viên cũng chỉ có sườn núi này vẫn duy trì cảnh trí xinh đẹp như cũ.
Thuyền Nương dẫn Dương Phàm từng bước lên sườn núi cao, mùi thơm nồng đậm của hoa đập vào mũi, rất lâu không tan.
“Tuy vô chu nhan kinh quần mục.
Khước hữu thanh hương áp cửu thu”
Phía trước có một cây quế, bốn lá, cánh hoa màu trắng, điểm nhị vàng, cành cây thanh gọn, vô cùng vui vẻ tụm lại một chỗ, là một đóa hoa quế thoang thoảng như có như không, mùi thơm lạ lùng.
- Lạc Dương thành đông đào lý hoa, phi lai phi khứ lạc thùy gia? ... Kim niên hoa lạc nhan sắc cải, minh niên hoa khai phục thùy tại? Cổ nhân vô phục lạc thành đông, kim nhân hoàn đối lạc hoa phong. Niên niên tuế tuế hoa tương tự, tuế tuế niên niên nhân bất đồng..." (Hoa đào lê Đông Thành Lạc Dương bay tới bay lui lạc tới nhà ai? ..., Năm nay hoa rơi, màu sắc đổi, năm sau hoa nở trả lại ai? Cố nhân không quay lại Lạc Dương, người năm nay còn vì hoa lạc, năm này qua năm khác hoa tương tự, năm này năm khác người khác rồi.)
Không biết tại sao, Dương Phàm chợt nghĩ tới bài thơ này, trong lòng không kìm nổi một chút chua xót.
Thuyền Nương dẫn hắn tới dưới cây hoa quế, trong mùi hương hoa nồng đậm, một tấm bia đá, một mô đất, trên mộ có vài ngọn cỏ xanh, Y Nhân đã đi hơn ba tháng rồi. Nơi này, chính là nơi chôn xương Ninh Kha. Tòa nhà này, sau khi Ninh Kha qua đời, lại bị Cô Độc thế gia lấy làm mộ.
Khi Dương Phàm thấy bốn chữ “Độc Cô Ninh Kha”, cả người liền ngẩn ra, hắn ngây người đứng nhìn tấm bia đá kia, ngay cả Thuyền Nương rời đi lúc nào cũng không biết, trước mắt hắn ảo hiện, là Ninh Kha cô nương mà hắn từng quen biết. Từng chút, từng giọt, rơi trong lòng, thuần túy như rượu; từng chút, từng giọt, rơi trong lòng, sắc như đao...
Không biết lúc nào, Thuyền Nương lại lặng lẽ xuất hiện dưới bóng cây, trong tay nâng một cây đàn cổ, trên đàn còn có một phong thư. Thấy Dương Phàm ngẩn ngơ nhìn bia mộ, giống như tư thế lúc nàng rời đi, không chút thay đổi, mũi Thuyền Nương cay cay, nước mắt bắt đầu chảy xuống.
- Dương tướng quân, đây là Ninh Kha cô nương để lại cho ngài.
Dương Phàm lúc đầu còn không nghe thấy giọng nói của nàng, cho đến khi hai từ “Ninh Kha” lọt vào tai, hắn mới ý thức được mà quay đầu lại.
- Ninh kha cô nương để lại đàn cho ta...và thư?
Dương Phàm có chút bất ngờ nhận lấy. Đàn là “lục khỉ”. Ninh Kha từng xin cây đàn này với Lý thái công, Lý Thái Công từng trả lời nàng hãy thưởng thức một năm sau, đợi khi sinh nhật nàng thì sẽ làm quà tặng cho nàng, còn hiện giờ, cây đàn này lại trong tay hắn.
Dưới bóng cây hoa quế, Dương Phàm khoanh chân ngồi xuống mặt đất, đặt cây đàn trên gối, trong tay cầm phong thư của nàng.
“Ta không biết tới bao giờ Nhị lang mới biết tin ta chết, cũng không biết khi Nhị lang biết sẽ tới thăm ta không. Nếu huynh không tới hoặc mãi mãi cũng không biết, vậy thì bức thư này sẽ viết cho bản thân ta. Tuy đã là âm dương cách biệt, nhưng chắc huynh biết ta rất vui vẻ mỉm cười đúng không?”
Nhị lang, ta biết khi huynh đọc được bức thư này. Huynh vẫn là hăng hái như cái thời thiếu niên anh tuấn, hay là thương đau của người ở tuổi trung niên, lại có lẽ tóc đã bạc con cháu đầy nhà, ta không biết huynh còn nhớ tới một tiểu nữ trong thành Trường An không, ta đối với huynh, si đắm vô cùng.
Ta thích Nhị lang, bất kể là Nhị lang oai hùng, Nhị lang mơ màng, Nhị lang tự nhiên, Nhị lang giảo hoạt hay là Nhị lang hay cười. Huynh có lúc ngây thơ như một đứa trẻ, có lúc lại hiểu rõ lòng người, có lúc huynh rất hống hách. Có lúc lại điềm đạm vô cùng, nghĩ tới lại khiến trong lòng ấm áp.
Hôm nay trời đang mưa, chỉ là mưa lâm thâm, giống như cái ngày mà ta quen với Nhị lang. Sáng sớm hôm đó cũng mưa, chính là mưa lâm thâm như này, cỏ trong sân vì vậy mà trổ lá. Có lẽ chính là cái ngày đó, Nhị lang đã mọc rễ trong lòng ta rồi.
Ta không phải xác định, cũng không biết mình muốn gì, càng không biết cơ thể yếu ớt của mình có thể yêu cầu điều gì. Ta từ nhỏ đã yếu ớt, có thể gặp được Nhị lang, chính là niềm hanh phúc nhất đời của ta, có thể thích Nhị lang, chính là dấu vết sâu đậm nhất mà ta để lại nơi trần gian.
Đơn giản, theo trái tim, chính là duyên, chỉ cần trong lòng nhớ Nhị lang, lén lút thích chàng, trái tim thiếp đã thỏa mãn lắm rồi. Thật vậy, thiếp thật sự biết đủ. Cả đời này của thiếp, từ lúc sinh ra đã giống như con ve kia, ngày qua ngày, năm lại năm, sống trong bóng tối vô tận.
Nhưng ve luôn được sống trong ánh sáng một ngày, tuy nhiên chỉ là mùa hè, lại có thể tận hưởng được ánh sáng và mưa, tận tụy kêu hát, cho tới khi chết. Thiếp từ trước tới nay, đâu sợ là ánh sáng ngắn ngủi, cũng là thiếp mãi mãi không có được, nhưng trời xanh rút cuộc đã thương tình thiếp, để thiếp gặp được chàng.
Tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng đây là sự chờ đợi mà thiếp đổi cả đời! Chàng biết không, cho dù chàng chỉ nhìn thiếp một chút, thiếp cũng đã cực vui rồi, thiếp không biết trong lòng cất giấu một người, lại ngọt ngào vào an bình như vậy.
Đầu rất đau, càng ngày càng đau, cảm giác ấy khiến người ta khó mà chịu đựng. Trước đây, thiếp thường hận là không thể chết, không cần chịu thêm nỗi đau như vậy nữa, nhưng thiếp bây giờ rất nuối tiếc, càng ngày càng nuối tiếc. Nhưng khi muốn bước lại không thể bước, khi không muốn đi lại phải đi, đau khổ, chết khổ, yêu biệt ly khổ, mãi mãi khổ, Nhị lang à, chàng biết thiếp khổ biết bao.
Lý Thái Công đưa “Lục khỉ” tới, thiếp rất muốn đàn một bài cho chàng, giống như khi ở Trường An, đàn cho chàng nghe, nhìn thấy chàng cười, nhưng thiếp không còn sức nữa rồi. Ngày cả sức đánh đàn cũng không có, có phải thiếp vô dụng lắm không? Cây đàn này, để lại cho Nhị lang, chàng đánh không hay, nhưng thiếp thích nghe nhất....”
Thư trong tay Dương Phàm chút chút lại gấp lại, hắn chỉ cảm thấy sự nặng trịch trong nồng ngực, muốn khóc, mà khóc không ra, muốn thở mà không thở nổi. Hấn không biết, cô gái thuần khiết như tuyết kia lại có tình cảm sâu đậm với hắn như vậy, hắn không biết khi trái tim hắn dính hồng trần lại nhợt nhạt vậy, tiểu nữ tử thuần khiết không chút ngấn vết kia lại sâu đậm như vậy.
Cơ thể Ninh Kha suy yếu, khi ở Trường An cũng không ra khỏi cửa, nàng tới Lạc Dương làm gì? Dương Phàm chỉ nghe thấy liền biết câu trả lời. Nhưng hắn không ngờ, cho tới khi chết hắn và Ninh Kha cũng chưa gặp nhau tới một lần, một lần từ biệt ở Trường An đã lập tức trở thành vĩnh biệt, hắn ngay cả hối hận cũng không kịp.
Rất lâu, rất lâu sau, tiếng đàn ngân nga vang lên dưới gốc cây, tiếng đàn có chút khó hiểu, thủ pháp rất không thuần thục, nhưng người chơi đàn lại rất chân thành.
- Phượng hề phượng hề quy cố hương, ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng. Thì vị ngộ hề vô sở tương, hà ngộ kim hề thăng tư đường
Hữu diễm thục nữ tại khuê phòng, thất nhĩ nhân hà độc ngã tràng. Hà duyên giao cảnh vi uyên ương, hồ hiệt hàng hề cộng cao tường!
Hoàng hề hoàng hề tòng ngã tê, đắc thác tư vĩ vĩnh vi phi. Giao tình thông ý tâm hòa hài, trung dạ tương tòng tri giả thùy?
Song dực câu khởi phiên cao phi, vô cảm ngã tư sử dư bi..."
Ánh tà dương như máu, lách qua cây.
Bài hát theo tiếng đàn mà cất lên, tiếng đàn thường thường, tiếng đàn khe khẽ, cũng đủ để khiến người ta rơi lệ.
Chữ “Bi” nói ra, dư âm chưa hết, tiếng đàn chợt làm lưỡi mác, chỉ leng keng một tiếng, danh cầm “Lục khỉ” truyền thế một thời, liền vỡ tan dưới tay Dưong Phàm.
Lò hương trước phần mộ, hương khói lượn lờ, dường như là y nhân biến thành, dịu dàng lượn lờ bên cạnh người đánh đàn, thật lâu không đành lòng rời đi...