Tháng Năm Dài Đằng Đẵng - Lục Diệc Ca

Chương 30

“Thằng bé đi đâu rồi?” – mẹ Thẩm đột nhiên nắm chặt tay Trần Sa, giọng run rẩy – “Có phải đến chỗ người phụ nữ đó không?”

“Không phải, không phải.” – Trần Sa vội vàng giải thích – “Anh ấy đi công tác, sẽ sớm trở về thôi. Hôm nay có cháu ở đây, bác không vui sao? Bác xem, ngoài trời đẹp thế này, buổi chiều cháu đưa bác ra ngoài dạo một vòng, được không ạ?”

Triệu Nhất Mai lặng lẽ nghe, trong lòng như tê dại. Cô chưa từng nghĩ, Trần Sa ngày xưa lạnh lùng, xa cách đến vậy, hóa ra cũng có thể dùng giọng nói nhẹ nhàng, dịu dàng và săn sóc như thế. Có lẽ, bất kỳ cô gái nào, khi yêu, đều có thể biến thành một người hoàn toàn khác.

“Cháu đi nói với bác sĩ một tiếng.”

Trần Sa đứng dậy đi ra, bất ngờ va phải Triệu Nhất Mai đang đứng ngoài cửa. Cả hai chạm mặt, Trần Sa sững lại, không ngờ cô sẽ ở đây. Giữa họ vốn đã như khắc tinh, vừa thấy nhau là sắc mặt Trần Sa lập tức sa sầm, lạnh lùng hỏi:
“Cô sao lại ở đây?”

Ngữ khí và vẻ mặt ấy, càng ngày càng giống Thẩm Phóng.

“Tôi…” – Triệu Nhất Mai định nói lại thôi.

Trong phòng bệnh, vang lên tiếng mẹ Thẩm yếu ớt hỏi:
“Ai đến thế? Là con trai tôi sao?”

Hai ánh mắt của Trần Sa và Nhất Mai chạm nhau, trong đó đều lóe lên những cảm xúc phức tạp. Nhất Mai đang định rời đi thì sau lưng vang lên những tiếng bước chân dồn dập.

Là y tá phụ trách của mẹ cô, thở hổn hển đứng cách đó vài mét, vội vàng gọi:
“Tìm cô khắp nơi! Sao cô chạy đến đây? Mau về đi! Mẹ cô, bà ấy…”

Triệu Nhất Mai đột ngột quay đầu, dưới ánh đèn trắng, gương mặt cô bỗng chốc tái nhợt.

Mẹ cô – Triệu Thanh Đồng – đã ra đi vào một ngày xuân nắng đẹp.

Bà sinh ra trong phú quý, tính tình kiêu ngạo, tuổi trẻ chia tay mối tình đầu trong vội vã, vì giận dỗi mà gả cho thiếu gia họ Đổng, rồi lại hao mòn hết duyên phận trong vô số lần cãi vã. Sau này tái ngộ Thẩm Triệu, tái hôn vẫn vô cùng rực rỡ. Cả đời thuận buồm xuôi gió, giàu sang phú quý, cuối cùng có Thẩm Triệu ngày đêm ở bên chăm sóc, cũng coi như có được một kiếp một đôi.

Bà đặt tên con gái duy nhất là Nhất Mai, mong cô như hoa hồng – nở rộ kiêu hãnh và xinh đẹp.

Trong những giây phút cuối đời, ánh mắt bà sáng bừng lên, tựa như hồi quang phản chiếu, còn phảng phất bóng dáng thiếu nữ hai, ba chục năm về trước. Bà đuổi hết mọi người, chỉ để Nhất Mai lại bên giường.

“Nhất Mai,” – bà khàn giọng “hứa với mẹ một việc, được không?”

Triệu Nhất Mai đã khóc đến tàn tạ, nắm chặt lấy bàn tay gầy guộc chỉ còn da bọc xương, run rẩy đáp:
“Được.”

“Hứa với mẹ… rời xa nó. Cả đời này, kiếp này, đừng bao giờ yêu nó nữa.”

Đôi mắt Nhất Mai nhòa trong nước mắt, ngẩn ngơ nhìn mẹ.

“Tha thứ cho mẹ, một người mẹ ích kỷ.”

“Trên đời này, thứ mẹ không thể buông xuống… chỉ còn mình con thôi.”

“Mẹ sẽ sống lâu trăm tuổi, mọi chuyện sẽ qua thôi. Thật đấy, đừng nói những lời này… xin mẹ…”

“Xin lỗi, mẹ quá ích kỷ. Lỗi là mẹ, nhưng lại bắt con gái gánh thay. Nó sẽ không cho con hạnh phúc đâu… con gái của mẹ, đồng ý với mẹ, được không?”

“Đừng đi mà mẹ…” – nước mắt Nhất Mai rơi lã chã, tuyệt vọng lẩm bẩm – “Con đồng ý, con đồng ý hết, chỉ xin mẹ đừng bỏ con lại một mình… Mẹ, mẹ ơi…”

Đáp lại cô, chỉ còn khoảng không trống rỗng, bức màn lay động trong gió dưới ánh nắng.

Vài ngày sau, Nhất Mai mở email, thấy thư Giang Hà gửi:
“Chị phải tin, cuộc đời của chúng ta dài hơn ta tưởng rất nhiều. Dài đến mức có thể quên đi tất cả những vết thương này, và cả người mà ta từng liều mình yêu thương.”

Đứng ở ngã rẽ cuộc đời, ngoảnh lại con đường đã đi, chẳng ai biết ta đã bước từng bước thế nào để tới được ngày hôm nay.

Có muôn ngàn lối đi, cô lại chọn con đường cô độc nhất.
Có biết bao người trong đời, cô lại yêu đúng người không nên yêu.

Sau tang lễ của Triệu Thanh Đồng, Nhất Mai lập tức rời đi, cắt đứt mọi liên hệ.

Mảnh đất này, với cô, tình cảm lẫn vật chất, chỉ còn mang theo đổ vỡ.

Sau nhiều lần lênh đênh, cô lại đến được Ushuaia – nơi tận cùng Nam Mỹ. Một mình ngắm bảy lần hoàng hôn, bảy buổi chiều tà, cuối cùng vì chán ăn và tinh thần u uất mà ngã bệnh trong nhà trọ, phải đưa vào viện cấp cứu.

Ở đó, cô gặp Hứa An An, một tình nguyện viên, cũng là người đã cứu cô. Hứa An An biết cô mang nhiều quá khứ, nhưng chưa từng gặng hỏi. Về sau, khi thân quen, An An lại kể dần chuyện của chính mình cho Nhất Mai nghe.

Cũng nhờ vậy, Nhất Mai bắt đầu tiếp xúc với các tổ chức tình nguyện, học một số khóa cứu trợ cơ bản. An An động viên cô:
“Hay cậu thử gia nhập Hội Chữ Thập Đỏ đi? Khi buồn, đừng giam mình một mình, hãy để bản thân bận rộn, làm bất cứ việc gì cũng được.”

“Còn cậu thì sao?” – Nhất Mai hỏi – “Cậu sẽ ở lại đây mãi sao? Đó chẳng phải cũng là một kiểu trốn tránh ư?”

“Quê hương ấy mà…” – Hứa An An ngồi dưới ánh trăng, khẽ cười – “dù có về hay không, nó vẫn ở đó.”

Không biết bị nụ cười hay lời nói ấy lay động, sáng hôm sau, Nhất Mai rốt cuộc lấy hết dũng khí mở điện thoại, gọi cho Giang Hà.

Nghe thấy giọng cô, Giang Hà òa khóc trong điện thoại:
“Chị có biết bọn em lo cho chị đến thế nào không?”

“Xin lỗi.” – Nhất Mai nói.

“Chị đang ở đâu?”

“Ushuaia.”

Giang Hà sững lại: “Sao chị phải đến tận đó?”

Nhất Mai đứng dậy, vươn tay hứng lấy làn gió ẩm nóng của Nam Mỹ, không trả lời.

“Nhất Mai,” – trong điện thoại, Giang Hà khẩn thiết – “chị về đi, được không?”

Nhất Mai im lặng hồi lâu, rồi khẽ nói:
“Xin lỗi, Giang Hà. Chị e rằng… sẽ không quay về nữa.”

“Mẹ để lại cho chị một khoản tiền rất lớn, đủ để sống vô ưu cả đời. Bà không muốn chị còn dính dáng gì đến nhà họ Thẩm. Về phần chị, thật ra chị đã nghĩ đến việc nghỉ học từ lâu. Chị không thể một mình ở Mỹ mà gắng gượng nữa. Luận văn, dịch thuật, học vị tiến sĩ… tất cả đều không phải thứ chị mong muốn. Chúng khiến chị không hề vui.

Em hỏi vì sao chị đến Ushuaia ư? Bởi vì nơi này và đất nước chị sinh ra, ngày và đêm đảo lộn, gần như là một thế giới khác hẳn.”

“Như vậy chị sẽ thấy đỡ buồn hơn, giống như chẳng có gì thay đổi so với mấy năm trước. Chị ở nước ngoài, mẹ tôi ở trong nước, 2 mẹ con vốn đã ít khi gặp nhau.”

“Vậy đến bao giờ chị mới trở về?”

Triệu Nhất Mai im lặng một lát.

Rồi cô khẽ mở miệng, như thì thầm với chính mình:
“Cho đến ngày chị không còn yêu anh ấy nữa.”

Nhiều năm trước, anh từng cứu cô một mạng. Cô ngây thơ hứa thầm trong lòng: sẽ lấy cả đời để trả ơn.
Nhưng chưa bao giờ nghĩ, lại phải trả bằng cách này.

Cúp điện thoại, Nhất Mai liên hệ với giáo sư hướng dẫn, nói rằng gia đình biến cố, cô không thể tiếp tục học tập. Rồi cô nhờ Hà Tích Tích giúp thu dọn và trả lại căn hộ thuê ở Mỹ.

“Cậu nói thì dễ lắm, đồ trong phòng còn nhiều như vậy, bỏ hết sao?”

“Tớ không cần nữa.”

Hà Tích Tích gần như phát điên, cuối cùng gom tất cả đóng gói quyên tặng. Chỉ còn lại đôi giày cao gót đính đầy kim cương để trên nóc tủ, Nhất Mai chưa từng xỏ một lần.

Trong điện thoại, Giang Hà nói: “Nó vẫn đẹp, còn đẹp hơn cả giày thủy tinh.”

Nhất Mai khẽ cười: “Nhưng chị đã không còn là công chúa nữa rồi.”

Sau đó cô nộp đơn xin l*m t*nh nguyện viên của Hội Chữ Thập Đỏ. Hứa An An hỏi:
“Cậu đã nghĩ kỹ chưa?”

“Tớ chưa bao giờ nghĩ xem tốt hay không.” – Nhất Mai đáp – “Nhưng tớ chỉ muốn làm vậy thôi.”

Cô thông thạo sáu ngoại ngữ. Trong buổi phỏng vấn, có người hỏi:
“Tại sao cô muốn trở thành tình nguyện viên?”

Nhất Mai nghĩ một lát rồi nói:
“Mẹ tôi từng làm sai một việc. Dù là cố ý hay vô ý, bà đã hủy hoại hoàn toàn cuộc đời một người phụ nữ khác, khiến bà ấy phải sống trong bệnh viện đến hết đời. Tôi không thể làm gì, cũng không mong có được sự tha thứ. Giờ cha mẹ tôi đều đã mất, những điều tôi mong cầu trong đời này đều không còn nữa. Vậy nên tôi muốn dùng phần đời còn lại để làm chút gì đó. Bất kể là gì, chỉ cần giúp tôi tiếp tục bước đi.”

“Dù thế nào, tôi vẫn nhớ cha mẹ đặt tên tôi là Nhất Mai, mong tôi như một đóa hồng sống thật đẹp. Vậy nên tôi vẫn muốn sống cho thật đẹp.

Nếu có thể mang đến chút an ủi cho sinh mạng của người khác, có lẽ tôi cũng sẽ dễ dàng hơn một chút.”

Cô nói lộn xộn, chẳng có những lời hùng hồn hay vĩ đại. Thậm chí cô còn thấy mình ích kỷ: lý do muốn gia nhập tổ chức tình nguyện, chỉ để khiến đời mình trông cao quý hơn, có ý nghĩa hơn, để qua được những mùa đông dài của cuộc đời.

Cô sẽ đi giúp những người sống trong địa ngục, rồi từ họ lấy về chút “củi lửa” để chống chọi mà sống tiếp.

May mắn thay, mọi việc thuận lợi. Tấm bằng ngoại ngữ của Stanford đi đến đâu cũng sáng rực như tấm vé thông hành.

Điều Nhất Mai không biết là, sau khi cô rời đi, Giang Hà từng nhận được một cuộc gọi từ Thẩm Phóng.

Lần đầu tiên là lúc cô mất tích, Thẩm Triệu gần như đào ba tấc đất để tìm, chỉ một đêm mà bạc trắng đầu. Thẩm Phóng gọi điện quốc tế cho Giang Hà, hỏi cô có biết tung tích Nhất Mai không.

Giang Hà mới biết tin cô mất tích. Cô tức đến mất hết lý trí, gào vào điện thoại:
“Mất tích? Sao lại mất tích! Một người lớn thế này, nói mất là mất được sao!”

Nhưng đầu dây bên kia, Thẩm Phóng không hề lạnh lùng như Nhất Mai từng miêu tả. Anh yên lặng chịu hết cơn giận dữ của Giang Hà, chỉ lịch sự nói:
“Xin lỗi. Cho tôi hỏi lần cuối cùng cô ấy liên lạc với cô là khi nào?”

“Một tuần trước, ngày mẹ cô ấy qua đời, cô ấy gửi cho tôi một email.”

“Trong email viết gì?”

“Cô ấy nói mẹ đã mất, rồi…” – Giang Hà ngập ngừng.

“Xin hãy nói cho tôi biết. Tôi và cha tôi rất lo cho cô ấy.”

“Bà ấy bắt chị ấy hứa, cả đời này, đừng yêu anh nữa.”

Điện thoại rơi vào một khoảng lặng dài. Giang Hà khó hiểu, khẽ hỏi:
“Anh…”

Thẩm Phóng lại khẽ lên tiếng: “Còn gì nữa không?”

“Không còn.”

“Trước đây, hai người từng hẹn ước gì chăng? Nói sẽ cùng đi đâu, hay có nơi nào lưu giữ kỷ niệm?” – Giang Hà hỏi.

“Không.” – anh bình tĩnh trả lời – “Tôi và cô ấy, chưa từng có gì cả.”

Lần thứ hai là sau khi nhận được cuộc gọi của Nhất Mai, Giang Hà lại gọi cho Thẩm Phóng. Dù không tiết lộ nơi ở, nhưng báo anh rằng Nhất Mai tạm thời vẫn an toàn.

Giang Hà dùng đúng lời Nhất Mai từng nói:
“Chị ấy đã về Mỹ, chỉ là tâm trạng không tốt. Giờ mẹ chị ấy đã mất, quan hệ pháp lý với anh và cha anh cũng chấm dứt. Cảm ơn sự quan tâm của các anh, mong giữ gìn sức khỏe.”

Thẩm Phóng yên lặng nghe xong, gật đầu, rồi mới chợt nhớ ra đây là điện thoại, đầu dây bên kia không thấy được, nên khó nhọc đáp lại:
“Ừ, được.”

Trước khi cúp máy, Giang Hà hỏi:
“Anh còn hận cô ấy và bác gái không?”

Thẩm Phóng không trả lời.

Anh tìm thấy dưới gối cô một bức thư, một cuốn Bay Đêm về Tây Phi mà anh đã mua năm mười lăm tuổi, cùng một sợi dây đỏ buộc bùa bình an.

Đó là lá bùa mà nhiều năm trước, mẹ anh đặc biệt đi chùa xin cho anh. Sau này vào quân trường, quy định nghiêm cấm mang đồ trang sức, anh cất kỹ trong phòng, không ngờ lại bị cô lén lấy đi.

Anh mở lá thư, nét chữ của cô tung bay phóng khoáng. Bao năm nay, anh chưa từng thấy cô gái nào viết chữ vừa ngông cuồng vừa đầy sức sống như thế.

Gửi đến:

Không biết lá thư này sẽ rơi vào tay ai. Thôi thì, cứ để vậy đi.

Tôi tên là Triệu Nhất Mai. Ngày xưa cha mẹ tôi đặt tên này, hẳn là mong tôi có một đời như hoa hồng. Nhưng đến giờ xem ra, tôi đã khiến ông thất vọng.

Mười tám tuổi, tôi từng nhìn thấy trên giá sách của một người, một cuốn sách – Bay Đêm về Tây Phi.

Bình Luận (0)
Comment