Gà là gà sống mua hôm qua, mới đông lạnh một ngày, thịt vẫn còn săn chắc. Không có máy xay thịt, nàng băm tay nên thịt vẫn còn lợn cợn hạt, làm xúc xích nhìn còn thấy rõ từng miếng vụn nhỏ, đúng là nguyên liệu thật! Như Ý hài lòng đặt sang một bên.
Nàng còn nhồi bột làm được cả mớ bánh hấp tròn tròn, chờ học sinh tan học, nàng định nướng ít bánh pizza bán thêm. Dùng bánh và trứng, nướng bằng bếp thường cũng ra pizza, cực kỳ đơn giản, tuyệt chiêu của bà ngoại nàng đó!
Hấp xong bánh bao, nàng xuống hầm lấy ít thịt xông khói, hành tía, thì phát hiện chỉ còn lại một con rưỡi gà. Như Ý dứt khoát lấy luôn, a gia bị dọa một trận như vậy, tối nay phải hấp gà bồi bổ mới được!
Dù sao ăn xong lại đi mua là được.
Nàng xát muối hạt, gừng lát và cốm rượu đều khắp con gà rồi cho lên hấp. Không cần thêm nước hay gia vị gì, cứ hấp khô như vậy. Hấp một canh giờ, dưới đáy sẽ đọng lại nước súp gà vàng óng, thịt thì đậm đà thơm ngào ngạt, ngon cực kỳ mà lại dễ làm.
Lúc hấp gà, Như Ý đặt nồi cơm ở tầng dưới, nước chỉ vừa ngập mặt gạo. Nước từ gà bên trên nhỏ xuống ngưng tụ lại, nhỏ tí tách vào cơm. Nấu kiểu này, hạt cơm bóng bẩy, hơi ngả vàng, thấm đẫm hương gà, không bị nhão mà lại rất ngon.
Canh lửa trông bếp, tai nàng vẫn nghe thấy gia gia đang làu bàu ngoài sân: “Sao mà lắm chó thế này! Lại còn lẫn cả mèo? Ối, tránh ra tránh ra, đừng kéo quần ta!”
Nghe vậy nàng bật cười, rồi lại nhớ lời Trần lang trung, không khỏi có chút buồn.
Đợi đến khi ông từ từ tỉnh hẳn, nhớ được nhiều chuyện hơn, không chừng sẽ phát hiện nàng không giống nguyên chủ. Nhưng cho dù có nguy cơ bị lộ, chỉ cần ông có thể khỏe lại, nàng vẫn cam tâm tình nguyện.
Khi bóng chiều dần rơi từ mái nhà xuống sân, mùi gà hấp cũng đã lan tỏa khắp tiểu viện. Đám cún con mèo con đã không nhịn nổi mà túm tụm trước cửa bếp, hai chân ngắn mập mạp bám lấy bậc cửa cao dựng để chống chuột, thân tròn vo vươn thẳng người dán lên một hàng.
Thấy Như Ý bưng gà ra, một hàng đuôi lông tròn béo mập vẫy vù vù như gió thổi.
Trước đó chúng còn định trèo vào, nhưng bị Đại Hoàng nằm ở cổng gầm nhẹ một tiếng, mấy đứa lập tức co cổ lại, rồi từ từ rút chân về.
Diêu Như Ý đặt đĩa gà hấp lên bàn lò được quấn kín bằng chăn bông.
“Gia gia, tới giờ ăn cơm rồi ạ!”
Diêu Khải Chiêu ngồi trên ghế lắc ở góc sân, nghe tiếng gọi thì ngẩng đầu lên, vịn thành ghế đứng dậy một cách chậm rãi. Vừa rồi ông đã ngửi thấy mùi súp gà thơm nức mũi, bụng cũng réo ùng ục, chỉ là trong sân bỗng nhiên nhiều chó mèo như vậy, đứa nào đứa nấy đều lao đến đợi ăn, ông đâu thể mất thể diện mà tranh với chó được chứ?
Thành ra lại phải giữ sĩ diện.
Ông lững thững lại gần xem thử, vốn định bắt bẻ vài câu, nhưng vừa nhìn vào thau gốm, thấy da gà hấp đã vàng óng, từng miếng thịt thấm đẫm trong phần nước súp đặc sánh vàng óng ánh dưới đáy, mùi men rượu dịu nhẹ, gừng thơm, gà ngọt hoà quyện vào nhau thơm ngào ngạt khiến ông nghẹn lời, chỉ còn biết nuốt nước bọt ừng ực.
Diêu Như Ý xé ít thịt ức gà, chan thêm ít nước gà vào cơm trộn, đựng trong một cái thau lớn đặt ở cổng sân. Đám chó mèo con lập tức ùa lên, ăn đến nỗi mặt mũi dính đầy nước thịt.
Đại Hoàng vểnh tai lên, dù bị mùi thơm làm cho hít lấy hít để, vẫn nằm yên lặng chờ con ăn trước.
Dọn bát đũa xong, Diêu Như Ý múc cho ông một bát cơm đầy, rồi chan thêm một muôi nước gà đặc thơm từ đáy nồi, gắp thêm cái đùi gà béo ngậy và mấy miếng thịt ngon:
“A gia, ngài nếm thử xem ạ.”
Diêu Khải Chiêu run run gắp miếng thịt bỏ vào miệng. Thịt gà được hấp chín mềm, vừa vào miệng, mỡ thơm tràn ra, xương và thịt tách nhau ra nhẹ nhàng, cả gân cũng có độ mềm vừa phải. Cắn thêm một miếng nữa, vốn nghĩ hấp khô sẽ khô xác, ai ngờ lại mềm đến độ thịt bên trong cũng thấm đẫm súp gà đậm đà. Vừa ăn một miếng thịt, vừa xới một thìa cơm lớn, từng hạt cơm được bọc lớp mỡ bóng mịn bên ngoài, không ngấy mà lại ấm áp khiến dạ dày người ta cảm thấy vô cùng dễ chịu.
Diêu Như Ý gần như trông thấy rõ ông từ miếng đầu tiên liền ăn nhanh hơn hẳn, sau đó là cúi đầu ăn cơm thịt một cách chuyên tâm, thỉnh thoảng còn buột miệng khen đôi câu:
“Không tệ, ừm, không tệ!”
Tất nhiên rồi, bí quyết của món gà hấp khô nằm ở chữ “khô”, hoàn toàn dựa vào mỡ trong thân gà và hơi nước từ men rượu để tạo ra nước súp, vị ngon ấy không phải món gà hầm thông thường có thể sánh được.
Đám cún con vừa chép miệng vừa l**m sạch lòng thau, bụng chúng phồng cả lên, lúc này cún mẹ mới đứng dậy, cúi đầu ăn nốt phần cháo thịt còn lại, quét sạch sành sanh.
Thấy vậy, Như Ý sợ nó ăn không đủ, lại múc thêm một muôi cơm, hai miếng thịt gà cho nó.
Bản thân nàng cũng ăn một bát lớn cơm chan nước gà, kèm một chiếc đùi gà to, no nê mỹ mãn. Giờ thì nàng chống cằm, nhìn ông vừa ợ vừa gắp miếng thịt có dính xương, ăn vô cùng chăm chú, đến cả vụn thịt dính trong kẽ xương cũng bị ông gặm sạch sẽ. Một hạt cơm dính trên cằm ông, theo từng nhịp nhai mà rung rung, trông tức cười không chịu được, nhưng ông chẳng hay biết gì, chỉ thấy ăn uống sung sướng vô cùng.
“Không sao cả, đời này của mình vốn là nhặt được, có thể sống thêm vài năm, nhìn thấy bao điều mới mẻ thế này, lại còn được những ngày tháng khỏe mạnh không bệnh tật, đã là quá đủ rồi.”
Diêu Như Ý lặng lẽ tự nói với mình trong lòng.
Một giọt lạnh buốt rơi lên mi mắt nàng, nàng ngẩng đầu nhìn lên.
Tuyết bay đầy trời, dưới ánh đèn của nhà nhà, tuyết rơi xuống tựa sao vụn lấp lánh nơi đáy mắt nàng.
Khoảnh khắc này, trời lạnh đêm về, không chỉ nhà họ Diêu bếp lửa bập bùng, mà trong cả con hẻm nhỏ, khói bếp nhà nhà cũng cuồn cuộn như mây, đội tuyết mà dâng lên trời. Nhưng ở Học sĩ viện trong hoàng cung, lại có một người xui xẻo đang ôm bụng đói, nhìn đống công văn cao như núi mà thở dài.
Vừa nãy, trận tuyết đầu tiên của mùa đông năm nay, rốt cuộc đã bắt đầu rơi.
Trong vườn Tử Thần điện, không hiểu sao mấy con hạc đầu đỏ được nuôi lại chạy đến Học sĩ viện, ngẩng cổ tao nhã bước đi giữa tuyết rơi, dáng vẻ thảnh thơi ung dung.
Trong văn phòng phía đông của Học sĩ viện, Mạnh Khánh Nguyên đặt bút xuống, xoa cổ tay, ngẩng mắt nhìn ra cửa sổ. Nghe nói mấy con hạc này đều là do Thái tử điện hạ nuôi. Có lẽ do được chăm quá kỹ, con nào lông cũng bóng mượt, thân hình béo tròn, cả chiếc cổ vốn phải thanh thoát bay bổng cũng mập mạp bất thường.
Lúc mới được bổ nhiệm làm Quyền Trực Học sĩ viện, Mạnh Khánh Nguyên còn không biết trong cung có nuôi một đàn hạc như vậy, tưởng là ngỗng từ Quang Lộc Tự chạy ra. Sau này được huynh đệ tốt kiêm đồng liêu Tạ Kỳ giải thích mới biết, đó là bầy hạc mà Thái tử điện hạ nuôi từ nhỏ, cưng chiều quá mức nên mới tròn trịa thế kia.
Chuyện này cũng chẳng trách được ai, Mạnh Khánh Nguyên thầm nghĩ. Hoàng gia con cháu thưa thớt, chỉ có ba gái một trai, đều do Chương quý phi sinh hạ. Vì chỉ có một con trai, đến Thái hậu cũng nuông chiều Thái tử hơn người thường. Nhiều năm trước Hoàng đế muốn lập Cục chăn vịt trong cung để ăn thịt vịt mà còn bị Thái hậu một mực bác bỏ. Vậy mà Thái tử bây giờ không chỉ nuôi hạc, nuôi chó săn, nuôi mèo rừng, mà còn có cả một đôi cáo Tây Tạng do Tạ Tam Thông mang về từ Tây Vực!
Nhắc đến đôi cáo ấy, Mạnh Khánh Nguyên lại có cả bụng lời muốn nói.
Sử ký có ghi: “Tây Nhung nhiều thú ranh mãnh”, tài liệu thời Tiền Đường cũng hay nhắc đến “cáo Tây Tạng”. Mạnh Khánh Nguyên trước kia khi đọc sách, cứ nghĩ cáo sống dưới chân núi tuyết cao nguyên, lại được nghe tụng kinh Phật mà lớn lên, hẳn phải là loài hồ trắng tinh khiết, thần thánh thanh thoát.
Ai ngờ đâu, đôi cáo ấy... lông lốm đốm nâu vàng, mặt to tròn, mắt như cá chết. Giờ được nuôi cùng mèo chó của Thái tử, mà lại rất thích kêu “oa oa” khàn khàn, nghe một tiếng là chó cũng phải giật mình.
Thật đúng là thứ âm thanh vừa ngái vừa gắt, chối tai không chịu được!
Giấc mộng tan rồi, chẳng đẹp bằng con cáo đỏ nơi thôn dã Thọ Quang Đại Tống.
Lần đầu tiên Mạnh Khánh Nguyên tình cờ trông thấy con cáo mặt bự kia được thái giám dắt đi dạo trong hành lang ngoài điện Đoan Bổn, trong lòng bỗng nảy ra một ý nghĩ rất đỗi hoang đường: nếu hồ ly tinh trong thoại bản hút dương khí thư sinh nào cũng có diện mạo thế kia thì e rằng trên đời đã chẳng có từ “hồ mị tử” nữa rồi.
Bên ngoài vang lên tiếng mõ, xem ra trời sắp tối, Mạnh Khánh Nguyên lắc đầu đuổi hết mấy ý nghĩ viển vông trong đầu, đứng dậy vươn vai một cái, đếm đếm chồng công văn chất như núi trên chiếc bàn dài, bèn thở dài não nề, hôm nay lại phải ở trong cung làm thêm giờ rồi.
Học sĩ viện không chỉ phụ trách soạn chiếu thư, thánh dụ và sắc phong, mà còn phải biên tu quốc sử, tham gia ra đề thi điện thí, sự vụ thì nhiều lại tạp nham. Năm nay lại đúng dịp tu sửa Đường Thư, quá nửa số học sĩ hàn lâm đều được điều sang lo chuyện ấy. Mấy công việc lặt vặt hằng ngày đành phải giao cho đám tiểu viên chức tạp sai như hắn gánh vác, thành ra dạo gần đây hắn chẳng có ngày nào được tan ca đúng giờ.
Hắn đứng dậy rót bình nước uống, vừa ngửa đầu uống mấy ngụm, chợt nghe tiếng trẻ con chạy lộc cộc ngoài cửa sổ chạm hoa, chẳng mấy chốc đã thấy một cái đầu tròn xoe thò vào từ bậc cửa, giọng non nớt vang lên:
“Mạnh tam thúc! Thúc còn ở đây à, con với cha chuẩn bị về nhà rồi đó nha!”
Nghe tiếng, Mạnh Khánh Nguyên ngoái đầu lại, sau cánh cửa là một khuôn mặt nhỏ trắng trẻo mũm mĩm đang cười tủm tỉm, mặc váy lục non be bé, búi hai búi tóc tròn xoe đáng yêu.
“Là Thư Hòa à! Hôm nay lại theo cha con đến trực à?”- Mạnh Khánh Nguyên vội bước đến, cúi người xoa đầu bé, rồi liếc nhìn ra phía sau. Quả nhiên, Tạ Kỳ đang đứng ngoài cửa phòng văn thư cách đó hai bước, khom người cáo từ vị quan chủ sự với dáng vẻ khiêm nhường, cung kính.
Mạnh Khánh Nguyên yên lòng. Tuy rằng trong cung không dễ lạc mất trẻ con, nhưng hắn vẫn ngồi xổm xuống dặn Thư Hòa: “Lần sau đừng chạy lung tung nữa, biết chưa nào?”
Phu nhân của Tạ Kỳ rất thân quen với Hoàng gia, con cái còn nhỏ, cũng chẳng cần kiêng kị nhiều về việc nam nữ, lại có thánh chỉ cho phép tự do ra vào hoàng thành. Đám thái giám trực trong ty đều quen cô bé, còn thường chơi với bé nữa kìa.
Thư Hòa mới hơn ba tuổi nhưng đã rất lanh lợi, thích bắt chước người lớn nói chuyện. Nghe Mạnh Khánh Nguyên nói vậy, bé liền nghiêm mặt, già dặn bảo:
“Con dĩ nhiên biết chừng mực rồi, chỉ là qua chào tam thúc một tiếng thôi mà. Mạnh tam thúc, thúc vẫn chưa tan ca à? Trời sắp tối lắm rồi đó!”
Giọng nói trong vắt, non mềm như măng non nhú lên giữa tiết xuân.
“Còn chưa xong văn thư thì làm sao đi được? Ủa, cha con làm xong rồi à?” - Mạnh Khánh Nguyên vừa nhắc đến đống công văn rối rắm lại thấy đau đầu muốn thở dài. Hắn, Tạ Kỳ, Thượng Ngạn, Ninh Dịch là đồng song nhiều năm, cũng cùng năm cùng bảng tiến sĩ. Thượng Ngạn đi nhậm chức ở Giang Nam, Ninh Dịch cùng ra làm quan, nhưng chưa đầy hai ngày đã chịu không nổi sự hủ bại, bè phái đấu đá trong quan trường, bèn dứt khoát từ quan, nay đang ngao du thiên hạ, thề sẽ nếm hết mỹ thực bốn phương.
Năm ngoái hắn có gửi thư báo đã đến Kinh Đông Lộ, giờ chẳng biết phiêu bạt nơi nào rồi.
Chỉ còn hắn với Tạ Kỳ là có duyên cùng được phân đến Học sĩ viện làm quan, cũng coi như có người nương tựa. Nhưng Tạ Kỳ thông minh hơn hắn nhiều, chữ viết lại đẹp, soạn văn thư cứ như có sẵn trong bụng, một mạch là xong, chưa bao giờ phải thức đêm viết như hắn.
Quả nhiên, Thư Hòa ngẩng cằm, kiêu hãnh nói:
“Cha con làm xong từ sớm rồi, còn giúp mấy thúc thúc khác chép lại nữa đó, giờ cũng chép xong cả rồi.”
Mạnh Khánh Nguyên lập tức thấy nhụt chí.
Tin tức về đại dịch Quế Châu thực ra đã đến tay hoàng thượng hơn mười ngày trước, chỉ là bây giờ mới lan truyền ra dân gian. Hoàng thượng lập tức hạ chỉ, phái mấy chục ngự y của Thái y cục đến Lĩnh Nam, lại hủy bỏ mọi yến tiệc mừng lễ mùa đông trong cung, rút bạc từ Nội tàng khố ra ban cho thuốc men gửi tới Quế Châu. Đám chiếu dụ ấy mấy hôm trước đã như tuyết bay dồn về Học sĩ viện, hắn ngày nào cũng phải chép lệnh khẩn phân phát khắp châu phủ, đã mười mấy ngày không được về nhà.
Hôm nay vẫn còn rất nhiều văn thư phải chép, hoàng thượng muốn chiêu mộ dân gian những người giỏi trị ôn dịch thương hàn, trọng thưởng cho ai nguyện tới Lĩnh Nam cứu dân. Đồng thời cũng ra chỉ dụ yêu cầu các chùa viện, đạo quán ở Quế Châu thiết lập phòng bệnh, viện dưỡng bệnh cách ly bệnh nhân. Đạo giáo không phân tách như y học, nhiều đạo trưởng rất am hiểu y lý, vừa có thể chữa bệnh, vừa tiện bề tiếp nhận và chăm sóc bệnh nhân.
Đây là chuyện liên quan đến sinh mệnh trăm họ, hắn và đồng liêu dẫu chép đến gãy tay cũng không dám chậm trễ một khắc. May mà hôm nay hắn không ăn cơm trưa, cắm cúi chép suốt cả ngày, cũng sắp xong rồi.
Thế nhưng nhìn dáng vẻ mềm mại ngoan ngoãn của Thư Hòa, trong lòng hắn lại dâng lên một niềm thương yêu không kìm được. Bèn ngồi xổm xuống kiên nhẫn dịu dàng trò chuyện với bé:
“Đúng rồi, còn ca ca con đâu? Hai huynh muội các con không phải vẫn như hình với bóng sao, hôm nay sao chỉ có một mình con tới đây chơi?”
“Ca đi Đại Lý Tự với Tiểu Quyến thúc rồi, nói là ở đó có trứng trà ngon lắm.”
“Thế sao con không đi?”
“Trứng trà có gì hiếm đâu, Đường nhị thúc nhà con còn biết làm kia mà. Với lại Nghiễn Thư thúc không được vào cung, chỉ có thể chờ ngoài cửa Đông Hoa thôi. Nếu con đi thì chẳng còn ai bầu bạn với cha làm việc nữa. Cha con phải cúi đầu viết cả ngày, không có ai rót nước hay lấy điểm tâm, hẳn là cô đơn lắm đó!”
Mạnh Khánh Nguyên lại bị trúng tên nơi ngực.
Hắn chỉ nhỏ hơn Tạ Kỳ vài tuổi, giờ vẫn chưa lấy vợ. Cha mẹ từng mai mối cho mấy đám, hắn đều không ưng. Mẹ hắn thường mắng: “Mày muốn cưới tiên nữ à?”
Mà hắn cũng không dám cãi. Mỗi lần nghỉ phép về nhà, đều bị cha mẹ nắm tai mắng cho một trận, thật là thê thảm.
Nghĩ vậy, thấy ở phòng trực bận rộn thế này cũng hay.
Hắn xót xa mà yêu thương, đưa tay véo má bánh bao của Thư Hòa, đúng là cái áo bông nhỏ mềm mại xinh xắn.
Mỗi lần thấy Thư Hòa, hắn lại muốn lập gia đình sinh con. Nhưng mỗi lần về đến nhà, nhìn cảnh cha đánh em, mẹ đánh cha, chó bay lừa chạy, cãi nhau chí chóe, ý muốn ấy lại bị đánh bay đi mất.
“Mạnh Tam, còn chưa về sao?” - Tạ Kỳ sau khi dặn dò mấy câu với quan chủ sự, cũng đi tới.
Lúc này trời đã lên đèn, dưới ánh đèn cung lụa vàng từng sợi mưa mỏng như tơ hiện ra rõ mồn một. Trời đất âm u, nhưng Tạ Kỳ từ giữa mưa sương trong hành lang dài đi đến, lại khiến người ta sáng mắt.
Gió thổi tà áo, chỉ là áo bào xanh nhạt kiểu quan phục, không hoa văn trang trí, thế mà được hắn mặc đến phong tư cốt cách như ngọc.
Mạnh Khánh Nguyên lắc đầu, đứng dậy cười nói: “Dù sao ta cũng chưa có vợ con, ở lại sắp xếp xong đống văn thư hôm nay và mai rồi mới về, tránh để sau lễ Đông chí nghỉ phép quay lại tay chân lóng ngóng. Huynh với Thư Hòa về trước đi, trời tuyết nhanh tối, đừng để muộn nữa.”
Hơn nữa… nếu hắn về quá sớm, tứ đệ nhà hắn chắc lại bị vạ lây. Cứ về muộn chút, chờ cha mẹ hắn đã ngủ rồi mới lén chui vào phòng, còn được một đêm yên ổn.
Hai người vốn thân quen, Tạ Kỳ hỏi có cần giúp không, bị hắn từ chối, cũng không nói gì thêm, chỉ vỗ nhẹ vai hắn:
“Hẹn gặp sau lễ.”
Mạnh Khánh Nguyên vẫy tay: “Đi đi.”
Thư Hòa lại chưa vội đi, đưa tay bụ bẫm lục lọi cái túi tam giác nhỏ đeo bên người, tìm được một viên đường râu rồng rồi chìa ra trước mặt Mạnh Khánh Nguyên: “Mạnh tam thúc, cho thúc ăn nè.” - Bé ngẩng khuôn mặt tròn xoe nhỏ xíu, nghiêm túc dặn dò, “Chống đói đó nha.”
Mạnh Khánh Nguyên ấm lòng, nghiêm túc đón lấy, hơi khom lưng làm lễ: “Đa tạ tiểu nương tử ban tặng.”
Lúc này, bé Thư Hòa mới cong mắt cười, vẫy tay tạm biệt hắn, rồi quay người kéo tay cha Tạ Kỳ, đi theo sau hai vị nội thị che dù cầm đèn, nhảy nhót rời khỏi hoàng cung.
Mạnh Khánh Nguyên đứng nhìn bóng cha con họ khuất dần sau cổng son của cung đình, mới bóc viên kẹo nhét vào miệng, sau đó quay về thư phòng làm việc thêm nửa canh giờ. Mãi đến khi đói đến mức ruột gan kêu vang, hắn mới thay thường phục, rời cung hồi phủ.
Dù là bên trong đại nội, nhưng cung đình vẫn đầy đủ năm tạng sáu phủ. Học sĩ viện nằm ở góc tây nam trong hoàng thành, gần cửa Hữu Dực, cách Thừa mật viện chỉ một con hẻm cung. Ra khỏi cung cũng tương đối thuận tiện.
Ra tới cửa cung, hắn dắt con lừa của mình. Con lừa này đã già, tính tình rốt cuộc cũng hiền hơn chút, nhưng vẫn chứng nào tật nấy, thích… đánh rắm, mà càng lúc càng to, càng thối!
Mạnh Khánh Nguyên vuốt bờm lông trên cổ nó, nghe tiếng “phù phù” vang lên từ mông nó, chỉ biết thở dài:
“Lại là tiểu thái giám nào không chịu nghe lời, lén cho mày ăn đậu rồi phải không?”
Con lừa già vô tội kêu lên vài tiếng “hí hí”.
Đã bên nhau nhiều năm, Mạnh Khánh Nguyên giờ cũng không nỡ cưỡi nó nữa, chỉ để nó chở giùm hành lý, còn bản thân thì bung dù, lội tuyết đi bộ về. Qua đại lộ Ngự Nhai, rồi rẽ ngang qua chùa Hưng Quốc, đi thêm nửa canh giờ là tới con hẻm nhỏ gần Quốc Tử Giám.
Lúc này trời đã tối đen, tuyết cũng rơi dày hơn, phòng trực của quân phòng vệ nơi đầu hẻm đã đốt lên bếp than ấm áp, đèn lồng trước nhà ai nấy đều đỏ rực, soi sáng cả con hẻm.
Mạnh Khánh Nguyên dắt lừa, cúi đầu chào quân canh, người kia thấy hắn có đeo túi cá (biểu tượng quan chức), lại đưa đèn soi mặt hắn, nhận ra liền chắp tay hành lễ, lui về.
Đáng lẽ giờ này Quốc Tử Giám đã tan học, lại còn đang tuyết rơi, hẻm nhỏ phải rất vắng mới phải. Thế nhưng trong không khí lại tràn ngập mùi thơm ngào ngạt, và có khá nhiều học trò áo xanh vẫn nấn ná trong ngõ, tụm năm tụm ba, người thì cầm xiên dài có xâu mấy đoạn xúc xích, người thì ôm gói giấy dầu, bên trong là một cái bánh tam giác trông khá lạ, nhân còn lộ ra bên ngoài.
Các học sinh vừa ăn vừa đùa, ồn ào đi ngang qua hắn, khiến hắn càng thêm bối rối.
Mạnh Khánh Nguyên cả ngày nay ngoài viên kẹo được Thư Hòa cho thì chưa có gì vào bụng, đã đói đến mức ngực dán vào lưng, giờ lại bị mùi thịt nướng, dầu mỡ, bánh thơm tràn ngập cả con hẻm đánh úp vào mặt, lục phủ ngũ tạng trong người hắn như đồng loạt dấy binh tạo phản.
Hắn vừa dắt lừa, vừa kéo cổ ngó nghiêng, cuối cùng cũng phát hiện ra nguồn gốc sự náo nhiệt, ở gần cổng sau Quốc Tử Giám, có một đám người đang tụ lại, dưới mái hiên có hai chiếc đèn lồng chao đảo trong gió tuyết, nhìn kỹ thì thấy viết bốn chữ:
“Diêu Ký Hưng Long”.
Diêu Ký? Nhà họ Diêu đó à? Nhà Diêu đại nhân ấy hả? Sao lại mở tiệm ăn rồi?!
Ngạc nhiên xen lẫn tò mò, Mạnh Khánh Nguyên vội vàng cột con lừa vẫn đang “phì phò” thả bom không ngớt trước cửa nhà mình, không vào nhà ngay mà rảo bước chen vào đám đông đang tấp nập.
Cùng lúc đó, giữa cơn gió tuyết lạnh buốt dày đặc, ở bên ngoài cửa nước Tân Đô, đoàn thuyền chở lương thực to lớn cuối cùng cũng lần lượt cập bến, rẽ làn băng mỏng trên mặt nước để dỡ hàng.
Quản sự trong phủ nhà họ Lâm, Tùng bá bưng hai bình nước nóng từ phòng nấu nướng dưới khoang thuyền đi lên tầng trên. Vừa vào phòng, ông liền phấn khởi báo tin cho người thanh niên bên trong:
“Nhị lang, cuối cùng cũng đến nơi rồi! Thuyền của chúng ta xếp hàng ở vị trí thứ ba mươi, chắc sáng mai là được lên bờ thôi.”
Người thanh niên cao gầy đang ngồi sau chiếc bàn vuông, cúi đầu chăm chú lau một thanh kiếm dài mảnh. Hắn không ngẩng đầu, chỉ “ừ” khẽ một tiếng.
Trước mặt hắn chỉ có một ngọn đèn nhỏ như hạt đậu, ánh sáng leo lắt lúc sáng lúc tối, lúc thì vẽ ra gương mặt góc cạnh rõ nét, lúc lại chiếu lên làn da trắng bệch vì bệnh, lúc thì in bóng lặng lẽ trên chân mày.
Hắn có dáng người thon dài, gầy guộc nhưng không yếu đuối, mặc dù trên mình chỉ là bộ áo cũ bạc màu, vẫn như cây tùng giữa trời tuyết, thanh cao, ngay thẳng.
“Trời ơi, hơn bốn mươi ngày lênh đênh sông nước, ăn cháo với bánh đến nửa tháng, ngày nào cũng chỉ thấy nước với thuyền, buồn chết đi được. Giờ cuối cùng cũng sắp cập bờ rồi.”
Tùng bá vừa nói vừa đổ nước nóng vào lò sưởi đồng, lại tiếp tục cằn nhằn:
“Nhị lang đúng là… Lúc trước tôi bảo đi nhờ thuyền cống cũng được, thân thể cậu yếu, cứ từ từ mà đi. Cậu thì nhất quyết chọn thuyền lương thực. Giờ hay rồi, cái chân lại đau nữa rồi...”
Nghe vậy, người thanh niên im lặng một hồi, không dám cãi lại, vì biết cãi thì Tùng bá sẽ lải nhải suốt canh giờ.
Hắn nhớ lại mấy bức thư người bạn cũ là Vương Ung đã gửi, trong thư toàn là trách móc cháu gái của tiên sinh không biết điều, để tiên sinh già rồi còn phải chăm sóc. Hắn đọc mà nhíu mày.
Vào cuối mùa hạ năm nay, Vương Ung cũng viết thư nói Diêu tiên sinh đã bị trúng gió, nằm liệt giường hơn tháng, lại còn kể nhà thầy nhiều năm bị dòng họ Đặng hãm hại, gia cảnh sa sút thê thảm.
Không trách sao hắn gửi thư mà tiên sinh không hồi âm.
Tuy biết Vương Ung là cố tình lấy thầy ra dụ hắn về kinh, nhưng… hắn không thể không về.
Lâm Văn An thở dài. Khi hắn còn nhỏ, cha bận rộn, mẹ yếu, lại phải chăm em gái nhỏ, cha hắn bèn gửi hắn sang nhà Diêu tiên sinh học hành.
Năm ấy, con trai độc nhất của thầy mới mất, cháu gái mới năm tuổi thì gửi ở nhà ngoại tận Đàm Châu, mà hắn thì gần như được Diêu tiên sinh xem như con ruột: dạy dỗ, bao bọc, chu cấp.
Sau này hắn đỗ tiến sĩ, vào Đông cung nhậm chức, không lâu thì rơi vào vòng lao lý, bị tra tấn dã man.
Cha hắn nói lúc đó tình thế rất căng thẳng, tay chân của Tấn Vương lộng hành khắp nơi, nhà họ Lâm thấp cổ bé họng, chẳng có ai để nương nhờ. Chỉ có thầy Diêu, một người cả đời không chịu nhận tiền biếu lại vét hết tài sản đi gõ cửa khắp nơi, ăn bao nhiêu bát canh bế môn, cuối cùng cũng mua chuộc được mấy ngục tốt, dặn họ nương tay khi tra khảo, mới giữ được mạng hắn.
Lâm Văn An siết chặt chuôi kiếm, nghiêng đầu nhìn ra ngoài.
Tuyết rơi lộp độp bên cửa sổ. Giữa đêm đông lạnh lẽo này…
Không biết tiên sinh… giờ có còn khỏe không?
Chỉ mong… mọi chuyện vẫn còn kịp.